Editor: Sophie
Beta: Sophie
Lần đó Ôn Phục trở về, cậu không bị bắt nhưng cũng chẳng trộm được gì. Năm mươi tệ trong túi quần được cậu đưa hết cho cha nuôi.
Cậu vừa chết đi sống lại một lần, dường như biến thành một con người khác. Cậu xòe năm mươi tệ trong tay, chủ động lên tiếng trước khi cha nuôi kịp mở lời: "Con muốn đi học."
Người cha nuôi kẹp một điếu thuốc Ngọc Khê ba tệ một bao giữa ngón tay, lười biếng dựa vào đầu giường, khuỷu tay gác lên chiếc tủ đầy tàn thuốc. Hắn nheo mắt hút một hơi, làn khói trắng xóa phả thẳng vào mặt Ôn Phục: "Mày nói gì?"
Ôn Phục nói: "Con muốn đi học."
Người cha nuôi hơi hé mắt ra: "Cái gì?!"
Ôn Phục nói: "Con trộm đồ cho bố, bố cho con đi học. Nếu bố không cho con đi học, con sẽ không đi trộm nữa."
Người cha nuôi nhìn chằm chằm vào cậu một lúc, đột nhiên đứng dậy từ trên giường, đá một cước vào bụng cậu: "Mày phản tao rồi, cái thằng tạp chủng này!"
Ôn Phục ngã ngồi xuống đất, thuần thục nằm xuống cuộn người lại, dùng hai tay che đầu chuẩn bị đón nhận những cú đấm và cước sắp giáng xuống.
Lần này cậu đã quyết tâm đạt được mục đích. Đôi dép lê nhựa bị chuột gặm mòn góc của người cha nuôi đập vào người cậu như mưa nhưng không thể ngăn được lời nói của cậu: "Con mặc kệ! Con muốn đi học! Nói gì cũng phải đi học! Nếu bố không cho con đi thì bố cứ đánh chết con đi!"
Chiếc dép nhựa trên tay cha nuôi văng ra, hắn lập tức chộp lấy chiếc khác tiếp tục nện xuống. Trong căn nhà cũ ẩm thấp tối tăm, bụi bặm bay mù mịt, tiếng kêu gào của Ôn Phục dần lịm đi, cuối cùng chỉ còn lại âm thanh loạn xạ của đế dép và nắm đấm giáng xuống thân thể cậu.
Không biết đã qua bao lâu, người cha nuôi đánh mệt, ném dép xuống đất, xỏ một chân vào chống nạnh hỏi cậu: "Còn đi không?"
Ôn Phục không nói gì, chỉ có thân thể cuộn tròn như con tôm đang lặng lẽ thở. Rất lâu sau cậu vẫn ôm đầu bằng hai tay, giọng nói khàn khàn và yếu ớt xuyên qua kẽ tay: "Vẫn đi."
"Đ** m* nhà mày!"
Người cha nuôi định giơ tay đánh tiếp, nhưng khựng lại. Hắn biết không thể thực sự đánh chết người, gây ra án mạng thì rắc rối khó mà giải quyết. Vì một đứa trẻ như thế mà đánh đổi cả mạng sống, thậm chí phải ngồi tù, thì tuyệt đối không đáng.
Nếu thả Ôn Phục đi thì sao? Với sự lanh lợi của thằng nhóc này chưa biết chừng nó sẽ chạy đi báo cảnh sát.
Mà thả nó ra thì chính là một mối họa. Đầu óc Ôn Phục thông minh, có lẽ nó đã sớm nắm rõ hành tung của hắn.
Nếu nó thực sự đi tìm cảnh sát, với sự trợ giúp của thằng nhóc này hắn chắc chắn không thể chạy thoát.
Trước đây, nó đi theo hắn chỉ vì có cơm ăn, có chỗ ở. Tìm đến cảnh sát chưa biết sẽ bị đưa đi đâu; so ra, ngoan ngoãn theo hắn một kẻ buôn người vẫn còn tốt hơn.
"Nếu hắn chủ động vứt bỏ Ôn Phục, thằng nhóc vừa không được đi học, lại chịu bao trận đòn, sớm muộn cũng nảy sinh ý nghĩ trả thù. Khi ấy, dù thoát khỏi pháp luật nhất thời, hắn cũng khó mà sống yên, lúc nào cũng phải thấp thỏm lo sợ.
Ôn Phục không thể nghe thấy những tính toán đó trong lòng cha nuôi. Cậu chỉ liếc thấy bàn tay đối phương giơ cao, theo bản năng co giật một cái, hai tay che đầu chặt hơn nữa, nhưng cuối cùng lại không có nắm đấm nào giáng xuống.
Cậu nghe thấy người cha nuôi nhổ một bãi nước bọt lên người mình: "Để xem sau này mày thi đỗ trạng nguyên thế nào."
Tấm nệm phía sau kêu lên cọt kẹt, người cha nuôi ngồi xuống lấy tiền trong ngăn kéo ra. Đến giờ đi đánh bài rồi.
Ôn Phục nhanh nhẹn đứng dậy khỏi mặt đất, chạy vụt ra như một con thỏ. Cậu chạy đến vòi nước ở cửa, dùng nước lạnh rửa sạch máu trên mặt và đầu.
Cậu biết mình đã được đi học.
Bọn buôn người cũng có mạng lưới quan hệ của riêng chúng. Không lâu sau Ôn Phục được nhập học tại một trường tiểu học ở thị trấn gần đó.
Ban ngày cậu đi học ở trường, buổi tối và cuối tuần lại theo sự sai bảo của cha nuôi đột nhập vào các nơi công cộng để thực hiện những vụ trộm nhỏ.
Trên cổ tay Ôn Phục luôn có những vết bầm tím của ngón tay, đó là vị trí đầu tiên mà tất cả mọi người theo bản năng tóm lấy cậu khi vô tình phát hiện ra.
Thỉnh thoảng mũi và mặt của Ôn Phục cũng mang theo những vết bầm tím, đó là kết quả khi cha nuôi uống rượu hoặc thua bài rồi trút giận lên cậu.
Họ chuyển nhà rất thường xuyên.
Bởi vì những lần Ôn Phục trộm tiền bị bắt, không tránh khỏi vài lần bị đưa đến đồn công an. Số lần đi nhiều cảnh sát sẽ bắt đầu nghi ngờ.
Từ việc giáo dục bằng lời nói với Ôn Phục, họ chuyển sang dò xét người cha nuôi đến đón cậu về.
Mỗi khi người cha nuôi nhận được ánh mắt dò xét từ cảnh sát, đó là lúc họ chuyển đi ngay trong đêm.
Học, trộm cắp, bị bắt, chuyển trường.
Học, trộm cắp, bị bắt, chuyển trường.
Học, trộm cắp, bị bắt, chuyển trường.
Ôn Phục dần trở nên chai sạn với những ngày tháng như vậy.
Điều duy nhất trở nên nhanh nhẹn hơn là tốc độ chạy trốn của cậu.
Chỉ biết dốc sức chạy thật nhanh, cậu mới không bị bắt lại. Bằng không, chờ đợi cậu sẽ là những trận đòn ngày càng tàn nhẫn theo năm tháng và ánh mắt thương hại ít ỏi từ người qua đường cũng sẽ dần biến mất.
Cũng không phải lần nào cậu cũng bị đưa đến đồn công an. Bộ đồng phục cảnh sát đã trở nên quá quen thuộc, còn những lời răn dạy kia thì cậu đã sớm luyện cho mình cách bỏ ngoài tai.
Quan trọng là chỉ khi chạy nhanh hơn, ít chạm mặt cảnh sát hơn, cậu mới có thể khiến cha nuôi bớt phải dọn nhà liên tục, nhờ vậy mới níu giữ được chút thời gian học tập ở một ngôi trường.
Cậu đã quen với việc sống như một cái bóng, chìm vào đám đông, lặng lẽ đến mức bất cứ ai quay đầu lại cũng có thể quên mất sự tồn tại của cậu.
Bằng kỹ năng trộm cắp thành thạo, cậu đi lại không dấu vết bên cạnh nạn nhân, như một bóng ma.
Trộm xong tiền là biến mất.
Để không lưu lại ấn tượng cho người khác, Ôn Phục không giao tiếp và cũng không nhìn thẳng vào mắt ai. Đôi mắt đó của cậu quá dễ khiến người khác ghi nhớ.
Giọng nói, diện mạo, tính cách, ở mỗi nơi cậu dừng chân, ký ức của bạn bè và thầy cô về cậu đều rất mơ hồ. Trừ thành tích.
Ôn Phục tranh thủ học trong từng khoảng trống giữa những lần đi trộm và những trận đòn. Ở mỗi ngôi trường cậu từng đặt chân, dấu vết duy nhất chứng minh cậu từng tồn tại chính là bảng thành tích xuất sắc, luôn đứng đầu.
Cậu luôn nhớ lời dặn dò của mẹ từ thuở ấu thơ. Dù cho đến tận bây giờ, Ôn Phục đã trở nên chai sạn đến mức thờ ơ với mọi nỗi đau, cậu không biết ý nghĩa của việc học là gì nhưng vẫn sống một cách cứng nhắc và máy móc theo lời di chúc của mẹ đã khắc sâu trong ký ức: "Phải học, học thật giỏi."
Giữa chuỗi ngày lang bạt không hồi kết, hình bóng người mẹ trong ký ức Ôn Phục dần mờ đi, xa dần.
Cậu và quãng tuổi thơ trước bốn tuổi như đứng ở hai bờ, ngăn cách bởi một tấm kính mờ: Chẳng thể nhìn rõ, chỉ còn bản năng mơ hồ chạm vào ký ức ấy.
Ôn Phục không nhớ khuôn mặt mẹ, không nhớ bà gầy hay mập, xinh đẹp hay xấu xí. Thậm chí cậu còn không nhớ tên mẹ.
Quá xa rồi.
Cậu đã mất bà trước khi học viết chữ và lại lạc mất chính mình trước khi nhìn thấy bia mộ của bà.
Nhưng không thể nghi ngờ rằng mẹ yêu cậu. Cho dù ký ức đã dần mờ đi, Ôn Phục vẫn tuyệt đối tin vào điều này. Từ khi thế giới trong mắt cậu còn tinh khiết như trang giấy trắng, thứ tình yêu duy nhất cậu từng cảm nhận được đều đến từ bà.
Mơ hồ nhưng chắc chắn, như một trực giác. Giống hệt lần đầu tiên nhìn vào đôi mắt của Phí Bạc Lâm, cậu lập tức biết rằng rồi sẽ có ngày mình có thể gõ cửa nhà anh.Loài vật lang thang vốn nhạy bén trong việc nhận ra tình yêu lẫn hiểm nguy. Và cậu biết, Phí Bạc Lâm sẽ không bao giờ làm hại mình giống như cậu từng biết tình yêu của mẹ là thật.
Vô số đêm khuya kiệt sức vì chạy trốn, cậu dựa vào cảm giác mơ hồ ấy mà vật lộn tự cứu lấy mình.
Những lần dọn nhà liên miên khiến việc học vốn đã không được cha nuôi đoái hoài càng thêm rối loạn.
Ôn Phục đã phải nhảy liền hai lớp, từ tiểu học lên trung học, theo cha nuôi lang bạt từ Vân Nam sang Tứ Xuyên.
Bảy tuổi mới vào lớp một, mười một tuổi cậu đã kết thúc bậc tiểu học. Đến lúc tốt nghiệp cấp hai, Ôn Phục vẫn chưa tròn mười lăm.
Sau giai đoạn giáo dục bắt buộc, Ôn Phục sắp lên cấp ba. Cậu không quan tâm mình sẽ học ở trường cấp ba nào, chỉ cần có thể đi học là được.
Cậu luôn đăng ký vào trường cấp ba thị trấn cách nơi ở gần nhất. Những trường tốt quá thì học phí lên đến vài trăm tệ, còn trường trung học thị trấn thì dù sao cũng ít tốn tiền hơn.
Người cha nuôi đã dính vào cờ bạc, thỉnh thoảng lại nợ nần chồng chất. Chỉ trong một học kỳ Ôn Phục đã chuyển trường hai lần.
Cuối kỳ một lớp mười, đứng trước lựa chọn ban học, Ôn Phục kiên quyết chọn ban khoa học tự nhiên.
ác môn xã hội không chỉ cần học thuộc, mà nếu thiếu sự hướng dẫn kịp thời của giáo viên trên lớp, cậu khó lòng hiểu đúng yêu cầu đề bài và đưa ra câu trả lời đủ để đạt điểm cao trong kỳ thi.
Nhưng ban khoa học tự nhiên thì khác.
Cho dù bỏ lỡ một vài bài học, chỉ cần làm bài tập một cách có hệ thống, bằng cách đối chiếu đáp án và lời giải cậu vẫn có thể nắm vững kiến thức.
Với một đứa trẻ luôn phải nay đây mai đó, hết chuyển nhà lại chuyển trường như cậu, đây chính là lựa chọn thích hợp nhất để theo bắt kịp nhịp ở mỗi môi trường khác nhau.
Giữa kỳ hai lớp mười, họ lại chuyển nhà một lần nữa, đến một thị trấn nhỏ ở Nhung Châu. Lần này họ ở lại vài tháng cho đến khi Ôn Phục lên lớp mười một.
Một ngày trước khi khai giảng năm lớp mười một, Ôn Phục trở về nơi ở tạm bợ.
Đúng như dự đoán, cha nuôi đang ngồi đánh bài dưới mái hiên căn nhà tự xây. Trên nền đất vương vãi tàn thuốc cùng một đĩa hương muỗi đang cháy dở.
Chiếc bóng đèn vàng ệch treo lủng lẳng bằng ba sợi dây điện nối tạm vào cột. Trên nền xi măng gồ ghề loang lổ những vũng nước chẳng rõ từ đâu mà ra.
Người cha nuôi ngậm thuốc, miệng liên tục buông lời tục tĩu trêu đùa với bạn bài nhưng sắc mặt lại không tốt lắm, chắc là vừa thua tiền.
Ôn Phục đứng cạnh hắn, dùng giọng nói nhỏ nhẹ đã rèn luyện nhiều năm để xin tiền, nói rằng đó là tiền học và tiền đăng ký.
Người cha nuôi vừa xáo bài, vừa quay đầu nhìn cậu một cái thật nhanh: "Cái gì?!"
Ôn Phục lặp lại lời nói.
Người cha nuôi cười một tiếng, lấy điếu thuốc ra kẹp giữa ngón trỏ và ngón giữa, tay kia đặt lên con mạt chược đang đè tiền vẫy vẫy Ôn Phục: "Lại đây."
Ôn Phục bước tới một bước.
Người cha nuôi lấy ra một xấp tiền nhân dân tệ nhăn nheo, đủ các màu đỏ, xanh: "Muốn bao nhiêu?"
Ôn Phục giơ tay chờ nhận tiền, không báo thừa một đồng nào: "Một trăm tám."
Người cha nuôi "hừ hừ" cười một tiếng, bàn tay kẹp thuốc từ từ đếm tiền, nhướng mày trêu chọc với bạn bài: "Thằng nhóc lớn rồi, đừng nói là kiếm tiền nuôi tao mà ngày nào cũng đến đòi tiền."
Đám bạn bài cũng nể mặt mà cười hùa vài tiếng.
Ôn Phục không nói gì.
"Một trăm tám..."
Vừa đếm, miệng hắn lẩm bẩm con số: "Một trăm tám..."
Đột nhiên sắc mặt hắn thay đổi, vỗ mạnh xấp tiền xuống bàn, nắm lấy cánh tay của Ôn Phục. Tàn thuốc cháy đỏ rực châm thẳng vào cổ tay Ôn Phục: "Tao thấy mày lớn trông giống một trăm tám!"
Ôn Phục đứng im không nhúc nhích, vì một khi né tránh, những gì giáng xuống tiếp theo sẽ là một trận đòn tàn bạo hơn.
Tàn thuốc dường như đốt xuyên qua da thịt cậu, vài làn khói trắng mỏng manh bốc lên từ cổ tay cậu. Trong mơ hồ Ôn Phục nghe thấy tiếng "xèo xèo" ở vết thương.
Điếu thuốc tắt, cổ tay Ôn Phục bị bỏng rộp. Người cha nuôi đứng dậy, tiện tay cầm chiếc ghế nhựa dưới người lên bổ thẳng vào đầu cậu.
Bạn bài vội vàng chạy đến can ngăn, miệng người cha nuôi không ngừng tuôn ra những lời lăng mạ tục tĩu đã thốt ra hàng năm trời.
Hắn thua tiền, lấy Ôn Phục ra trút giận. Ôn Phục đã quen rồi. Đánh xong có lẽ vẫn sẽ cho tiền.
Lần này người cha nuôi chỉ vào Ôn Phục, nói không ngừng:
"Tao ngứa mắt mày lâu rồi! Việc không làm, tiền không kiếm! Tao nuôi mày bằng cơm trắng mà mày chẳng làm ra trò trống gì! Suốt ngày câm như hến, ôm sách mà học. Học với hành cái quái gì! Mày tưởng mày học được đến đâu? Rồng sinh ra rồng, phượng sinh ra phượng, chuột thì chỉ biết đào hang. Cả đời mày cũng chỉ là một thằng tạp chủng! Vậy mà còn dám tới đòi tiền tao! Cút! Mai cút! Đêm nay cút ngay cho tao!"
Học kỳ trước, người cha nuôi chơi xì dách ba lá ở sòng bài nợ hơn chục ngàn tệ.
Buổi tối Ôn Phục đi trộm bên ngoài không kiếm đủ, cha nuôi liền nhắm đến bạn học cùng lớp, bắt cậu lẻn vào ký túc xá nam sinh để trộm tiền.
Ôn Phục đã đi, trộm của những người học sinh lớn tuổi hơn. Số tiền trộm được không còn một xu, tất cả đều bị cha nuôi ném vào sòng bạc.
Học sinh trung học đứa nào cũng lanh lợi. Khuôn mặt của Ôn Phục lại quá dễ khiến người ta chú ý. Một gương mặt lạ lẫm thường xuyên lảng vảng trong ký túc xá nam sinh, trùng hợp nơi đó lại liên tiếp mất đồ, nghi ngờ là điều khó tránh.
Chỉ cần dò hỏi đôi chút, người ta đã biết ngay Ôn Phục là học sinh ngoại trú của lớp nào.
Sau đó, nhóm học sinh ấy âm thầm phục sẵn ở góc khuất camera sau ký túc xá, lôi cậu ra đánh hội đồng. Ôn Phục bị đấm đá đến chảy máu mũi, nôn cả dịch dạ dày, còn có kẻ đứng bên quay lại toàn bộ cảnh tượng. Đợi đánh cho hả giận, họ chụp đủ mọi góc gương mặt bầm tím của cậu rồi mới lạnh lùng cảnh cáo:
"Nếu còn dám trộm thêm một lần nào nữa thì chờ kỷ luật đi."
Ngay ngày hôm sau, bức ảnh Ôn Phục bị đánh thê thảm đã xuất hiện trên trang confession của trường. Chỉ còn chưa đầy một tháng nữa là đến kỳ thi cuối kỳ, tin đồn cậu ăn trộm bị bắt lan truyền khắp trường.
Suốt tháng ấy, đi đâu Ôn Phục cũng nghe những lời xì xào, hứng chịu những ánh nhìn khác thường. Nhưng cậu đã sớm chai lì, vốn quen lủi thủi một mình. Trên gương mặt bầm dập, méo mó, cậu vẫn gắng gượng bước vào hoàn thành kỳ thi.
Kể từ trận đòn đó, Ôn Phục không bao giờ chịu nghe lời cha nuôi mà đi trộm tiền trong trường nữa. Hơn nữa áp lực ôn tập cho kỳ thi cuối kỳ khiến cậu càng thêm bận rộn.
Cho đến tận kỳ nghỉ đông, số lần cậu lén đi trộm đồ cho gã ngày càng thưa thớt, số tiền kiếm được chỉ đủ nuôi một mình cha nuôi.
Không còn tiền vào sòng bạc, ông ta đành ngồi trong sân nhỏ tạm bợ với mấy ván mạt chược để thỏa cơn nghiện.
Còn Ôn Phục thì vẫn như trước. Khi cha nuôi chợt nhớ ra, cậu sẽ được ăn một hộp cơm mua thêm. Khi ông ta quên cậu chỉ có thể lặng lẽ ăn đồ thừa của hắn.
Còn về sĩ diện, tự trọng hay xấu hổ, đó là những thứ cậu chưa từng có.
Không biết đã bắt đầu từ khi nào, dưới gương mặt nổi bật đến mức ai cũng phải chú ý kia chỉ còn sót lại một linh hồn nhợt nhạt và trống rỗng.
Một kẻ gần như vô cảm với tất cả mọi thứ xung quanh, dĩ nhiên cũng chẳng mảy may để ý xem mình đẹp hay xấu trong mắt người khác, hay chuyện bị bạn học tung hình lên mạng ở đâu.
Lớn lên trong hoàn cảnh nghiệt ngã, năm mười sáu tuổi, Ôn Phục là sự pha trộn kỳ lạ giữa một tâm hồn chai sạn và một vẻ ngoài đẹp đẽ.
Sợi nhựa ở chân ghế đã cào rách khóe mắt cậu. Trên mặt Ôn Phục lấm lem bùn đất, vết thương ở cổ tay nhanh chóng sưng đỏ và mưng mủ.
Đợi đến khi cha nuôi mắng xong, cậu vẫn đứng tại chỗ cụp mắt lặng lẽ như mọi khi, đưa tay ra nói: "Một trăm tám."
Chiếc bóng đèn vàng vọt trên trần nhà lung lay dữ dội vì trận ồn ào này. Tiếng chửi mắng của cha nuôi lại một lần nữa vang vọng khắp cái mái hiên nhỏ.
Cuối cùng trong cơn hỗn loạn, không biết là có ai đó đã nhét tiền trên bàn vào tay Ôn Phục hay cậu tự mình nhân cơ hội lấy đi.
Ôn Phục ôm một trăm tám mươi tệ tiền học phí đi đến một nhà vệ sinh công cộng, rửa sạch mặt.
Vết thương trên tay cũng chỉ được rửa qua bằng nước máy. Sau đó cậu tùy tiện tìm một chiếc ghế dài trong công viên để ngủ qua đêm.
Không thể quay về ngay trong đêm nếu không cha nuôi sẽ nổi cơn thịnh nộ. Dù sao cũng phải đợi một ngày rồi mới tính.
Ngày hôm sau khi Ôn Phục quay lại căn nhà tự xây đó, cha nuôi đã đi rồi.
Ngôi nhà trống rỗng, không để lại bất cứ thứ gì, giống như mỗi lần họ chuyển nhà. Chỉ có tiền trong túi và một bộ quần áo trên lưng, muốn đi là đi.
Vết thương ở cổ tay Ôn Phục bị nhiễm trùng. Cậu chưa bao giờ bị ốm hay có thể nói là vô số lần ốm trước đây đều tự mình vượt qua. Cậu không biết khi bị ốm thì phải làm thế nào.
Cơ thể khi nóng khi lạnh. Ôn Phục đói cồn cào bèn nhặt hộp cơm thừa từ hôm qua cha nuôi bỏ lại ở góc tường, ăn tạm cho qua bữa. Giải quyết xong cơn đói cồn cào, cậu quay vào phòng ngã xuống giường và lăn ra ngủ.
Cha nuôi mỗi lần chuyển đến nơi mới đều không thuê nhà. Hắn chỉ hỏi han hoặc nhờ vả để chen vào ở tạm những căn nhà cũ bỏ không: Khi thì căn nhà xi măng thô sơ, khi thì nhà tự xây ở nông thôn, thậm chí cả những căn nhà chờ phá dỡ bọn họ cũng từng trú ngụ. Có gì dùng nấy, tận dụng đồ đạc sẵn có mà sống.
May mắn thay sau một giấc ngủ Ôn Phục đã hạ sốt. Vết thương trên cổ tay lên da non, để lại một vết sẹo tròn méo mó in hằn nơi đó mãi mãi.
Ôn Phục bắt đầu cuộc sống lang thang một mình.
Cậu không có cái miệng khéo léo để nói năng, lừa gạt như cha nuôi, chỉ có thể trông vào may mắn mà tìm chỗ trú thân. Đôi khi gặp may, cậu kiếm được một hai căn nhà cũ bỏ hoang để chui vào. Từ sau lần nửa đêm đang ngủ thì chạm mặt chủ nhà trở về, Ôn Phục luôn chọn nằm sát cửa sổ để có thể kịp trèo ra ngoài chạy trốn.
Có những khi xui xẻo, ba ngày liền không tìm được chỗ trú, Ôn Phục đành ngủ ở bất cứ đâu: Dưới gầm cầu, ở bến xe buýt, thậm chí trong một tòa nhà bỏ hoang.
Chỉ riêng trường học là không thay đổi, vì cậu không thể kiếm được mối quan hệ để chuyển trường khắp nơi nên vẫn bám trụ ở ngôi trường trung học thị trấn nơi cha nuôi đã bỏ đi.
Nộp xong học phí, cậu không còn một xu dính túi. Sau nhiều năm lang bạt với người cha nuôi nghiện cờ bạc và buôn người, Ôn Phục chẳng tích lũy được chút kiến thức sống nào. Không có tiền, không có tài cán gì khác, cậu chỉ còn cách đi trộm.
Lúc quá quẫn bách, cậu sẽ bọc kín người, cầm một con dao đồ chơi để chặn đường trấn lột tiền tiêu vặt của những học sinh đi một mình vào ban đêm.
Khi thực sự không còn cách nào, cậu đã thử dùng điện thoại công cộng gọi cho cha nuôi để xin tiền. Nhưng để trốn nợ, điện thoại của hắn chưa bao giờ kết nối được.
Cậu sống cuộc sống như vậy trong hai tháng, cuối cùng đã thất bại trong một lần trộm ắc quy xe điện và bị đưa đến đồn công an.
Cảnh sát không thể hỏi ra thông tin liên lạc của người thân cậu. Dựa vào đồng phục và thẻ học sinh, họ gọi điện đến phòng giáo vụ của trường và gọi giáo viên chủ nhiệm của cậu đến.
Đó là một nữ giáo viên trung học thị trấn bốn mươi tuổi. Trước đó Ôn Phục đã được mời lên văn phòng vì những tin đồn ở học kỳ trước.
Giáo viên hỏi, cậu không lên tiếng, chỉ gật đầu coi như thừa nhận mình đã từng trộm tiền. Cô giáo nói muốn gọi phụ huynh nhưng không liên lạc được với ai.
Lần này đến đồn cảnh sát, trước tiên là làm kinh động đến phòng giáo vụ. Hậu quả khi Ôn Phục quay về chắc chắn sẽ là bị đuổi học.
Cậu là một người kín tiếng. Giáo viên hỏi gì cậu cũng không trả lời. Không phải là không muốn trả lời mà là không biết phải diễn đạt như thế nào.
Vì thế cậu đành im lặng.
Cuối cùng giáo viên nói với cậu rằng cậu sẽ bị đuổi học.
Cô hỏi: "Em có muốn bị đuổi học không?"
Ôn Phục lắc đầu.
Cô đương nhiên biết cậu không muốn. Dù thế nào đi nữa, thành tích của Ôn Phục luôn đứng nhất khối ở cái thị trấn lạc hậu này.
Cô không rõ rốt cuộc đứa trẻ này đã trải qua những gì, nhưng trong ánh mắt nhìn cậu đã phảng phất xót xa. Một đứa trẻ mà đến phụ huynh cũng chẳng thể liên lạc. Trộm tiền là sai, nhưng không có tiền... lẽ nào cũng là lỗi của nó?
Cô lại hỏi: "Em có muốn đi học không?"
Ôn Phục đương nhiên gật đầu.
Nữ giáo viên thở dài: "Em không thể ở lại trường này được nữa. Nhiều người biết em từng trộm tiền, lần này lại vào đồn công an, không còn cách nào khác. Cô có thể xin trường xóa kỷ luật cho em nhưng không thể giữ em lại."
Ôn Phục đợi một lúc, thấy cô không nói gì nữa bèn chuẩn bị rời đi.
Cô giáo đột nhiên nói: "Cô có một người bạn cũ, là Trưởng ban quản lý cơ sở vật chất của trường trung học số một thành phố. Để cô thử hỏi xem liệu em có thể sang đó học được không.."
Ôn Phục đờ đẫn, chưa kịp nói lời cảm ơn, đã làm theo lời giáo viên, lên chuyến xe buýt đến thành phố chuyển đến trường trung học số một.
Trước khi đi, giáo viên đưa cho cậu một ngàn tệ tiền học phí và chi phí sinh hoạt: "Đừng ăn cắp tiền nữa. Đừng làm khó thầy cô ở đó và cô nữa."
Trước khi nhập học, Ôn Phục đã tự bỏ tiền cho học phí, sách vở, đồng phục,... gần như đã tiêu gần hết số tiền đó.
Một đêm, khi đang bế tắc, cậu gặp Phí Bạc Lâm