Sau khi đã bàn bạc xong với Bảo Châu, Lý Nguyên Anh bắt đầu bước vào giai đoạn chuẩn bị. Suốt mấy ngày liền, chàng cùng vài tâm phúc đóng cửa thương nghị, kín đáo mưu toan từng bước. Việc dấy binh tranh ngôi vốn là ván cờ hiểm, một mất chín phần chết, chẳng ai dám chắc mọi chuyện suôn sẻ. Chỉ còn cách suy xét từng li từng tí, bố trí thận trọng chu đáo, mong có thể xoay chuyển trước mọi biến cố bất ngờ.
Hoắc Thất Lang chẳng mấy chốc đã nhận ra bản thân bị gạt khỏi cuộc cờ. Dù nàng vẫn ngày đêm canh gác nơi nghị sự, nhưng chẳng ai nói đến vai trò của nàng trong đại sự lần này.
Tuy vậy, nàng vẫn nghe được đại khái Lý Nguyên Anh không có ý phát động chiến tranh rộng khắp, cũng không muốn để hàng chục vạn người chết chìm trong máu lửa. Chàng chỉ định đặt cược tính mạng của huynh muội mình và vài tâm phúc, âm thầm quay về Trường An, dùng cái giá nhỏ nhất để tranh lấy ngôi báu. Ván cược này lớn đến nỗi, cả những tay già đời trong lầu bạc cũng phải rùng mình lạnh gáy.
Nàng bắt đầu phân vân liệu có nên rút lui trước khi mọi chuyện bắt đầu? Nàng không muốn tận mắt thấy đầu chàng bị treo trên cổng thành, càng chẳng muốn lại bị cuốn vào vòng xoáy cung đình máu nhuộm gió tanh.
Đêm đã khuya, từng người trong nhóm tâm phúc lần lượt được giao phó nhiệm vụ, lần lượt rời đi. Lý Nguyên Anh bảo họ tranh thủ thời gian đưa người nhà an trí nơi khác, phòng khi biến động.
Bảo Châu khẽ nói muốn cùng huynh trưởng uống vài chén, bất kể sống chết ra sao, cũng nên tranh thủ khoảng thời gian cuối cùng này mà tâm tình huynh muội.
Hoắc Thất Lang hiểu ý, chủ động rút lui, tìm tạm một phòng cạnh tẩm điện để nghỉ đêm. Trong tẩm điện chỉ còn lại hai huynh muội.
Từ sau khi trúng độc, Lý Nguyên Anh đã không còn đụng đến rượu. Lúc này cũng chỉ pha loãng chút nước trong bầu rượu Đồ Tô, khẽ nhấp một vài ngụm cho phải lễ.
Trải qua bấy nhiêu sóng gió, dù Bảo Châu nay đã thành thục hơn xưa, lòng vẫn biết rõ chuyến này là ván cược sinh tử, chỉ một bước sai là mất hết cả bàn cờ. Vì thế, nàng dứt khoát buông mọi lo toan, uống say một trận, cho lòng nhẹ nhõm.
Hai người trò chuyện về mẫu thân, về tuổi thơ vô ưu ngày trước. Bảo Châu ngà say, mắt lim dim, nói:
“Dạo gần đây huynh nhắc chuyện muội khi nhỏ từng lập lời thề, muội nghĩ mãi cũng chẳng nhớ ra. Nhưng mà, lại mơ hồ nhớ đến một chuyện lạ.”
“Chuyện gì?”
“Không rõ ta lúc đó mấy tuổi, cũng chẳng nhớ rõ đầu đuôi, chỉ thấp thoáng có một hình ảnh trong đầu. Khi ấy huynh và tên tiểu hỗn quân thái tử bị phế đánh nhau, y như là hắn áp được huynh, đè huynh xuống đất mà đánh.”
Lý Nguyên Anh siết chặt chén rượu, cụp mắt xuống, giọng bình thản:
“Huynh chưa từng cùng hắn đánh nhau.”
Bảo Châu cười nói:
“Lạ thì lạ ở chỗ đó. Hai người các huynh cách nhau mười tuổi, một bên là người lớn, một bên là đứa bé, không thể nào có chuyện tỷ thí được. Nhưng mà muội nhớ rõ, hai ta hồi nhỏ hay đánh chơi trong Bồng Lai điện, huynh vẫn luôn nhường muội.”
Giọng nàng đầy hoài niệm, nhớ lại khoảng thời gian ấm êm khi cả hai còn là những đứa trẻ trong vòng tay mẫu thân.
“Chắc là muội nhớ nhầm, hoặc là chỉ nằm mơ thôi.” Lý Nguyên Anh nói nhỏ.
Bảo Châu ngáp dài: “Chắc vậy. Chúng ta với hắn chưa bao giờ thân thiết đến mức có thể cùng nhau đùa nghịch. Nếu muội cũng có trí nhớ tốt như huynh, chắc đã nhớ được hết mọi chuyện từ thuở bé.”
Lý Nguyên Anh ngửa đầu uống cạn ly, cười buồn:
“Nhớ quá rõ cũng chưa chắc là điều hay. Có những cơn ác mộng, dù muốn quên cũng chẳng thể quên nổi.”
Rồi chàng tự rót thêm một ly Đồ Tô, lần này không pha nước, cứ thế đổ thẳng vào cổ họng.
“Thôi đừng nhắc chuyện xưa nữa, nói điều may mắn đi.” Bảo Châu nâng chén, cười nhẹ. “Hai ta liên thủ, chắc chắn sẽ thắng. Có phải không?”
Lý Nguyên Anh nhìn muội, trong mắt như gợn sóng ngầm:
“Phải, muội là sao may của huynh. Lần nào muội cũng đến đúng lúc, mang theo vận tốt. Chỉ cần muội ở bên, ta có niềm tin sẽ vượt qua tất cả.”
Huynh muội chẳng còn giữ kẽ, rượu qua tay chẳng đếm, uống đến khi Lý Nguyên Anh kẻ khó ngủ lâu năm cũng say lả như kẻ mộng du.
Bảo Châu không nhớ mình ngủ khi nào, chỉ biết sáng hôm sau tỉnh dậy, mình vẫn nằm bên huynh trên chiếc sập gấm, chưa từng trở về phòng riêng.
Đêm ấy, họ ngủ chung một gian tẩm điện, say trong giấc mộng, như thể quay lại thuở thơ ấu vô lo dưới bóng mẫu thân.
Mãi đến lúc mặt trời mới vừa ló rạng, tiếng hét thất thanh của thị nữ vang lên, khiến cả hai giật mình tỉnh giấc.
Lý Nguyên Anh mở mắt, trước mặt là một vùng đỏ thẫm. Mùi máu nồng nặc xộc lên mũi. Dưới đất, máu loang như suối, vài xác người ngã gục, đầu lìa khỏi cổ, nằm ngổn ngang giữa sảnh điện.
“Bảo Châu!” – chàng bật dậy, gọi lớn, lao về phía mỹ nhân vẫn còn nằm bất động trên sập. Đế giày trượt lên vũng máu đông, suýt nữa ngã sấp, nhưng vẫn lảo đảo tới bên muội muội.
Bảo Châu còn chưa tỉnh hẳn, mơ màng đưa tay che đầu, giọng ngái ngủ lẩm bẩm:
“Cho muội ngủ thêm một chút… đâu cần gấp gáp lên đường sớm vậy…”
Bên ngoài, nghe tiếng thị nữ thất thanh, đám túc vệ hoảng hốt đạp cửa xông vào. Khi thấy cảnh tượng trong tẩm điện, ai nấy đều chết đứng: máu đọng thành vũng, xác người nằm rải rác giữa điện, đầu mình đôi ngả, cảnh tượng rợn người chưa từng thấy.
Bọn họ canh gác suốt đêm, vậy mà không nghe thấy bất kỳ động tĩnh nào. Mãi đến khi nội thị và thị nữ vào theo lệ thường buổi sớm để hầu hạ, mới phát hiện dị trạng.
Thích khách đã chết cả, nhưng may thay, Thiều Vương và công chúa vẫn bình an vô sự. Ai nấy đều thở phào, lòng bàn tay thấm đẫm mồ hôi lạnh.
Biết muội muội không hề hấn, Lý Nguyên Anh mới trút được hơi thở, cả thân thể như rút hết sức lực, ngồi phệt xuống nền gạch lạnh. Đám nội thị cố gắng trấn tĩnh, len lỏi giữa xác chết, dìu chủ nhân đứng dậy.
Giữa cảnh hỗn loạn, Bảo Châu cũng lồm cồm ngồi dậy, vừa thấy trước mắt toàn máu và xác, sắc mặt lập tức trắng bệch, cơn say tan biến ngay tức khắc.
Hoắc Thất Lang trong tay còn cầm cây chổi cán dài, vừa chạy tới, vừa thở hổn hển. Thấy huynh muội hai người vẫn còn sống, nàng mới buông lòng lo lắng đang đè nặng trong ngực.
Nàng ngồi thụp xuống bên mấy cái xác, xem xét kỹ. Năm kẻ xấu số đã lạnh ngắt, vết chém nơi cổ dứt khoát, sạch sẽ, tất cả đều trúng một nhát chí mạng. Trên nét mặt vẫn mang vẻ mơ màng, như thể còn chưa kịp tỉnh mộng đã bị đưa xuống âm ti.
Mấy bà vú cũng chạy đến. Lệ phu nhân vừa nghe nói đêm qua huynh muội bí mật đàm đạo, Hoắc Thất Lang không túc trực trong điện như thường lệ, liền giận dữ mắng cho đám túc vệ một trận:
“Các ngươi đều điếc cả sao? Người chết đầy sàn, vậy mà không nghe nổi nửa tiếng động. Thất Lang mới không ở một đêm, liền để xảy ra họa lớn thế này. Để các ngươi canh gác chi bằng dán hai tấm môn thần lên cửa còn hơn!”
Bọn túc vệ bị mắng đến cúi đầu rạp xuống, trong lòng vừa hổ thẹn vừa rối bời. Nếu như thích khách võ nghệ cao cường, lẻn vào có thể không gây tiếng động. Nhưng giết năm người một cách gọn ghẽ đến thế, lại chẳng có lấy chút xao động nào, thì quả là chuyện hoang đường. Huống hồ đêm qua Thất Lang không ở đây, vậy ai là người gi.ết ch.ết thích khách?
Chuyện này thực sự khó mà tưởng nổi.
Rất nhanh, có người tra ra dấu vết thích khách lẻn vào. Bọn chúng trèo lên một gốc hòe lớn phía sau điện, từ cành cây bò lên mái ngói, xốc mái mà chui xuống. Huynh muội sau khi uống say đã ngủ mê mệt, mà khi ấy lũ quạ canh giữ ngoài điện cũng đã bay đi từ sớm. Không có tầng phòng ngự nào cao hơn, đương nhiên chẳng ai phát hiện.
Lệ phu nhân biết Thiều Vương sợ máu, vội sai người dọn dẹp, khiêng thi thể ra ngoài, lại gọi nội thị lau sạch những vết máu vương trên nền đá.
Lý Nguyên Anh được đưa tới sau bức bình phong, uống hai ngụm canh giải rượu, gắng trấn tĩnh tâm thần. Thấy Hoắc Thất Lang mặt đầy trầm tư nghi hoặc, chàng khẽ hỏi:
“Ngươi định dùng cây chổi đó để nghênh chiến với thích khách à?”
Hoắc Thất Lang lắc đầu:
“Không, không phải vậy.”
Bảo Châu lúc ấy đã ngồi dậy, như người mộng du, khẽ hỏi:
“Là ai đã giết thích khách? Có thể đoán được từ dấu vết chăng?”
Hoắc Thất Lang đáp:
“Chém một nhát là đầu lìa khỏi cổ, năm người chẳng kịp kêu lên tiếng nào. Trên giang hồ, có vài kẻ có thể làm được chuyện này, đếm đi đếm lại cũng chỉ ba người. Nhưng…” — nàng giơ cao cây chổi trong tay, — “ta tỉnh dậy, liền thấy thứ này để bên gối. Thủ pháp ấy, chắc chắn là người xuất thân từ Tàn Dương Viện.”
“Dựa vào đâu mà đoán được?” — Bảo Châu hỏi.
Hoắc Thất Lang thở dài:
“Chỗ chúng ta luyện nghệ, không có kẻ hầu người hạ, ai thua trong luyện tập thì phải quét sân. Ta thường là đứa thua nhiều nhất, việc chổi quét phần lớn đều đến tay ta làm. Ném cây chổi này ở đây, rõ ràng là châm chọc ta học chưa đến nơi đến chốn, canh phòng sơ hở. Kẻ đó sau khi giết người vẫn còn nhàn tản quay lại trêu ta, vậy mà ta cũng như đám túc vệ kia, chẳng hề hay biết.”
Bảo Châu nghe xong, ngây người một lúc, rồi bỗng thấy cả người lạnh buốt. Gáy sau tê dại, tim đập thình thịch, từng sợi lông trên người đều dựng đứng.
Bảo Châu theo bản năng đưa tay chạm bên hông, nơi nàng luôn mang theo thanh dao găm, rồi chầm chậm đứng dậy, bước quanh tẩm điện, lặng lẽ tìm kiếm manh mối.
Kẻ sát thủ kia ra tay không một tiếng động, chỉ trong chớp mắt đã lấy mạng năm người, đến mức đối phương không kịp hét, cũng chẳng kịp vùng vẫy, đầu lìa khỏi cổ. Với thủ đoạn thần quỷ khó dò như thế, muốn truy vết e là việc khó như hái sao trên trời.
Thế nhưng, khi đi ngang qua chiếc sập, ánh mắt nàng thoáng nhìn thấy một vệt chu sa đỏ thắm ở bên gối. Nhìn qua thì tựa như vệt máu vương, nhưng đến gần xem kỹ, hóa ra lại là một nụ mai đỏ chưa nở, bé nhỏ mà rực rỡ như máu cạn trên đầu ngón tay.
Ngón tay Bảo Châu khẽ run lên. Nàng cúi xuống, nhặt đóa hồng mai lên, chỉ trong thoáng chốc, như bị sấm nổ bên tai, một tia sáng xẹt ngang óc, khiến nàng hoàn toàn tỉnh táo.
Tâm tư trong phút chốc như vườn xuân trăm hoa cùng nở, rồi chớp mắt lại hóa lửa giận lan khắp đồng khô. Bảo Châu quăng đóa mai đi, tức tối lao ra giữa sân, chỉ tay lên trời, đạp chân xuống đất mà quát lớn:
“Đồ lòng lang dạ thú, mặt chuột gan cáo, khốn kiếp hết thuốc chữa! Trên đầu mọc nhọt, chân chảy mủ, dám giả chết hù dọa người ta! Quỷ chết đói địa phủ còn chẳng thèm thu, ngươi chán sống rồi phải không? Gạt gẫm lão nương thế này, có ngày Phật Tổ cũng phải đánh sét mà đốt ngươi ra tro! Giả vờ giả vịt làm chi, ngày trước ta còn thương hại ngươi như em ruột, hóa ra ngươi thông đồng với ma quỷ mà giấu ta! Trên đời có chuột thì còn có da, người mà không có mặt mũi thì còn ra thể thống gì? Còn cái đồ giả thần giả thánh kia nữa… hai đứa các ngươi, thật là…”
Khắp phủ vương gia, mấy trăm người lặng ngắt như tờ. Thị vệ, tỳ nữ, kẻ hầu người hạ, ai nấy đứng yên như tượng, không dám thở mạnh, chỉ lặng lẽ lắng nghe một vị công chúa ngọc quý đang bắc loa quát tháo như mụ hàng cá đầu chợ.
Hoắc Thất Lang thì há hốc miệng, hết cả lời:
“Quỷ thần khó dò thật… Đây chẳng phải là chân truyền từ sư bá Thanh Dương của Kim Câu Tần sao?”
Nàng lẩm bẩm, rồi lại cười khổ:
“Hứa nhị thật biết giữ lễ, nằm trong quan bảy ngày chưa đủ, còn phải bò dậy bổ thêm một đao mới yên lòng.”
Lý Nguyên Anh nghe đến mặt mày co giật, huyệt Thái Dương giật giật, cố nhẫn nhịn. Nhưng đến khi Bảo Châu mắng tới đoạn “Ngươi có phải là dương suy thận yếu không?” thì cuối cùng cũng nhịn không nổi, bèn quát lớn:
“Trói muội ấy lại lôi vào cho ta!”
Thị vệ nghe lệnh, nhưng chẳng ai dám manh động với công chúa cao quý. Thị nữ thì càng không có đủ sức. Cuối cùng vẫn là Hoắc Thất Lang ra tay, nửa dỗ dành nửa cưỡng ép, mới lôi được con hổ đang nổi giận đùng đùng kia trở vào trong phòng.
Lý Nguyên Anh đè muội muội xuống giường, lấy chăn trùm kín, ngăn nàng tiếp tục phun ra “hương thơm bốn cõi”. Quay đầu nhìn lại, thấy Hoắc Thất Lang mặt đỏ bừng vì nhịn cười, chàng liền nghiến răng, giận đến nổi gân xanh, mắng to:
“Muội vốn là đoan trang dịu dàng, hiền thục nết na! Tất cả đều do đám ‘danh môn chính phái’ Tàn Dương Viện các ngươi dọc đường dạy hư hết!”