Đứa trẻ có nhũ danh Minh Nguyệt Châu ấy được Hoàng đế ban tên là Lý Doanh, phong hiệu công chúa Vĩnh An, nhận đất phong tại quận Quảng Lăng, sủng ái vô ngần.
Trước kia, Khương Linh Diệp vẫn cho rằng mình không phải người thích trẻ con. Nàng không giống a tỷ của mình, mỗi khi nhìn thấy những đứa bé đáng yêu đều không nhịn được mà trêu đùa đôi chút. Nàng không thích như vậy. Nàng mong muốn có một đứa con vì điều đó có thể giúp ích cho con đường thăng tiến của nàng, ngoài ra không còn ý niệm nào khác.
Thế nhưng, mọi thứ đã thay đổi từ khi nàng hoài thai Lý Doanh, đến lúc hạ sinh con bé, tâm tư nàng lại càng đổi khác. Lý Doanh vô cùng ngoan ngoãn, hiểu chuyện, ban đêm rất ít quấy khóc, để nàng có thể ngủ một giấc trọn vẹn. Mỗi khi trông thấy Khương Linh Diệp và Hoàng đế, cô bé đều nhoẻn miệng cười, còn biết giơ đôi tay bé xíu đòi bế, như thể từ trong tiềm thức đã biết bọn họ chính là a nương, a gia của mình, thông minh đến lạ thường.
Bởi vậy, làm sao Khương Linh Diệp có thể không thương yêu Lý Doanh đến tận xương tủy? Giờ đây, dù có phải dùng mạng mình để đổi lấy mạng con bé, nàng cũng chẳng hề do dự.
Sự cưng chiều Hoàng đế dành cho Lý Doanh cũng vượt xa tất thảy những hoàng tử, công chúa khác. Năm Lý Doanh tròn ba tuổi, trong cung có lần tổ chức xem Na Hí. [1] Nhạc sư mang mặt nạ quỷ quái nhảy múa trước mặt Hoàng đế. Ban đầu, Lý Doanh vẫn ngồi trong lòng Hoàng đế chăm chú xem, nào ngờ đột nhiên bị dọa đến bật khóc nức nở. Hoàng đế định dỗ dành cô bé, thế nhưng Lý Doanh chỉ lau nước mắt, bặm môi nhảy xuống từ lòng Hoàng đế, dù còn thút thít, dù vẫn sợ hãi, nhưng vẫn dũng cảm dang hai cánh tay bé nhỏ, chắn trước mặt nhạc sư, òa khóc mà nói:
“Muốn ăn thì ăn ta, đừng ăn a gia của ta!”
[1]
Chúng thần trong điện nghe vậy đều cười vang vì lời trẻ thơ ngây ngô, chỉ riêng Hoàng đế, nụ cười trên môi hắn đã giấu đi cặp mắt đỏ hoe.
Có lẽ hắn chợt nhớ đến chuyện cũ thuở nhỏ, khi mẫu thân bị sát hại, hắn bị cướp đi, Tiết Thái hậu chưa từng thật lòng yêu thương hắn. Tất cả mọi người đều kính sợ hắn, lấy lòng hắn, nhưng chưa từng có ai, trong lúc hắn gặp nguy hiểm, nguyện đứng ra che chở, thậm chí chết vì hắn.
Vậy mà đứa trẻ ba tuổi này lại làm được.
Bé nguyện chết vì hắn, chỉ bởi vì hắn là a gia của bé, chứ không phải vì hắn là Hoàng đế Đại Chu.
Từ đó, Hoàng đế càng thêm thương yêu Lý Doanh, trong khi Lý Doanh cũng vô cùng hiếu thuận. A nương nàng mắc bệnh đau đầu, nàng liền chuyên tâm đọc y thư, học cách làm túi hương để giúp người giảm bớt cơn đau. A gia phiền muộn vì chuyện triều chính, nàng bèn lặng lẽ ở bên, cùng ông đánh cờ giải khuây. Nhờ có Lý Doanh, Hoàng đế và Khương Linh Diệp cũng dần trút bỏ khúc mắc, thử toàn tâm toàn ý tin tưởng lẫn nhau.
Nhưng ai có thể ngờ rằng, cũng chính vì Lý Doanh, hai người họ càng lúc càng xa cách, cuối cùng trở mặt thành thù.
Trong thần điện Thần Long, Nữ đế đã tuổi già sức yếu tựa người trên trường kỷ, hồi tưởng những chuyện cũ. Bà nhớ khi vừa vào cung, mình đã hao tâm tổn trí thế nào để quyến rũ ông, nhớ những ngày hai người dò xét lẫn nhau, vừa nghi kỵ vừa rung động. Nhớ đến khoảnh khắc bộc bạch lòng mình, cả hai hết mực tin tưởng đối phương. Suốt mười sáu năm sóng gió, bà và ông kề vai sát cánh, cùng nhau trừ bỏ Tiết Thái hậu, cùng nhau hoạch định tân chính, trấn áp thế gia, nâng đỡ hàn môn, đẩy hoàng quyền lên đỉnh cao chưa từng có.
Bà cũng nhớ đến khoảng thời gian sau khi Lý Doanh qua đời, hai người bất hòa từ đây, đến cuối cùng, bà không còn gọi ông là “Tam lang”, ông cũng không gọi bà là “Linh Diệp” nữa, mà chỉ xưng hô với nhau bằng “Thánh nhân” và “Hoàng hậu”. Suốt mười năm ấy, bà đề phòng ông, mà ông cũng đề phòng bà, vợ chồng một thuở, đồng sàng dị mộng.
Có lẽ, chỉ khi gần đất xa trời con người mới hồi tưởng lại những chuyện xưa mà bản thân không muốn nghĩ đến nhất.
Quần thần cùng Hoàng thái tôn Lý Trưng đang xin ý kiến về chuyện hậu sự của Nữ đế. Khi bàn đến nơi an táng, Thượng thư Bộ Lễ Lương Bình cẩn trọng hỏi: “Bệ hạ, người có muốn hợp táng với Minh Hoàng Đế ở lăng Tây Định hay không?”
Từ khi lên ngôi, Nữ đế chưa từng nhắc đến chuyện hợp táng cùng Minh Hoàng Đế, nhưng cũng không cho xây dựng lăng mộ riêng, quần thần không đoán được tâm tư của bà, nhưng nay đại hạn đã gần kề, bọn họ buộc phải hỏi cho rõ.
Nữ đế không đáp, chỉ thất thần thật lâu, sau đó mới thốt lên: “Minh Hoàng Đế, ông ấy còn muốn gặp trẫm sao?”
Vấn đề này, ngay cả Lương Bình cũng không biết phải trả lời thế nào. Nếu xét về công, Nữ đế đã dốc hết tâm sức, củng cố thành quả của tân chính, đưa Đại Chu bước vào thời thịnh thế. Nhưng nếu xét về tư, bà là ngoại tộc, ngồi lên hoàng vị nhà Lý, đại sát các hoàng tử của Minh Hoàng Đế. Vậy nên, Lương Bình cũng không rõ, Minh Hoàng Đế có thực sự muốn gặp Nữ đế hay không.
Có lẽ chính sự im lặng của Lương Bình đã khiến Nữ đế cười khổ, nụ cười ấy chất chứa bao cay đắng. Thấy bà như vậy, Lương Bình càng không dám lên tiếng. Ngược lại, Lý Trưng bỗng mở lời: “Tôn nhi nghĩ, Minh Hoàng Đế hẳn là muốn gặp bệ hạ.”
Nữ đế nhìn sang hắn, Lý Trưng chầm chậm nói: “Minh Hoàng Đế đăng cơ khi còn niên thiếu, tru diệt gian thần, chấp chưởng quyền binh, thúc đẩy tân chính. Mỗi bước đi đều vô cùng gian nan, nhưng mỗi bước đi ấy đều thấy ánh sáng nơi cuối đường. Có thể nói, Minh Hoàng Đế chính là vị quân vương có công trạng lớn nhất kể từ khi Đại Chu khai quốc đến nay.”
Từ trước đến nay, người mà Lý Trưng kính phục nhất chính là ông nội mình. Hắn tiếp tục: “Minh Hoàng Đế trời sinh thông tuệ, lẽ nào người lại không đoán trước được những chuyện sẽ xảy ra sau khi băng hà? Nhưng dù thế, người vẫn chọn giao phó Đại Chu cho bệ hạ, vì người tin rằng bệ hạ chính là người thích hợp nhất. Bệ hạ có thể tiếp nối lý tưởng trị quốc của người. Nay đã ba mươi sáu năm trôi qua kể từ khi Minh Hoàng Đế băng hà, Đại Chu thanh bình thịnh trị, vạn quốc triều bái, man di không dám xâm phạm. Điều đó đủ để chứng minh rằng sự phó thác của Minh Hoàng Đế là chính xác.”
Tân chính Thái Xương, đó là tâm huyết cả đời của Thái Xương Đế, kết tinh tất cả lý tưởng và hoài bão của người. Về phần Nữ đế, bà đã kế thừa và phát huy tâm huyết ấy. Cuối cùng, Lý Trưng nói: “Nếu Minh Hoàng Đế có thể thấy Đại Chu hôm nay, sao người lại không muốn gặp bệ hạ chứ?”
Nghe vậy, Nữ đế không nói gì thêm, chỉ từ từ khép mắt lại: “Thôi vậy, bất kể ông ấy có muốn gặp trẫm hay không, trẫm cũng sẽ đến lăng Tây Định, hợp táng cùng ông ấy.”
“Năm mười lăm tuổi trẫm tiến cung, mười sáu tuổi trở thành phi tần của ông ấy. Giờ đây, trẫm đã tám mươi tuổi, còn ông ấy, đã rời xa trẫm ba mươi sáu năm rồi. Từng ấy năm trôi qua, tóc xanh hóa bạc, nhưng trẫm vẫn nhớ như in lần đầu tiên nhìn thấy ông ấy…” Giọng Nữ đế càng lúc càng nhỏ, như đang chìm trong ký ức xa xăm, dường như đang nhớ lại thiếu nữ tuyệt sắc từng quỳ phục dưới đất trong Tê Phượng các, len lén ngước mắt nhìn vị thiếu niên đế vương năm nào. Bà lẩm bẩm: “Dưới hoàng tuyền, trẫm và ông ấy, phu thê một đời, ân ân oán oán, cứ để đó rồi cùng thanh toán cho rõ ràng…”
–
Bên bờ sông Nại, người lái đò đội nón trúc nằm trên bãi cát vàng. Vành nón che khuất gương mặt ông, khiến người ta chẳng thể nhìn rõ biểu cảm.
Không ai biết giờ phút này ông đang nghĩ gì, là về đế quốc hùng mạnh từng được mình cai trị, về người thê tử từng tâm đầu ý hợp, hay về đứa con gái suýt nữa đã chết dưới tay mình?
Người chèo đò kéo nón xuống thấp hơn một chút, sau đó nhắm mắt lại. Trong cơn mơ hồ, ông dường như quay về năm Thái Xương thứ ba mươi, ngày mùng sáu tháng Mười.
Khi trông thấy thi thể Lý Doanh được vớt lên từ hồ sen, nỗi đau đớn đến tột cùng khiến ông không thể đứng vững. Trước tiếng khóc xé gan xé ruột của Khương Linh Diệp, trong đầu ông chỉ có một câu hỏi:
Vì sao lại thế này?
Rõ ràng ông đã sai Kim Di ngăn cản Kế Thanh Dương, tại sao Lý Doanh vẫn rơi xuống nước chết đuối?
Rốt cuộc là đã sai ở đâu?
Khương Linh Diệp vì mất con mà đổ bệnh chỉ sau một đêm, nhưng ông nào có khá hơn? Trong thời gian dưỡng bệnh tại điện Thần Long, ông cứ hết lần này đến lần khác nhớ lại quãng thời gian từ nhỏ đến lớn của Lý Doanh. Nhớ khi nàng ba tuổi, từng đứng chắn trước mặt nhạc sư đeo mặt nạ quỷ, non nớt kêu lên: “Muốn ăn thì ăn ta, đừng ăn a gia của ta!”
Trong lòng ông vừa hối hận, vừa đau đớn đến mức chẳng thể nuốt nổi một ngụm thuốc. Khi ông còn đang cố tìm hiểu nguyên do cái chết của Lý Doanh, Kế Thanh Dương đã ám sát ông.
Điện Thần Long canh phòng nghiêm ngặt, Kế Thanh Dương nào phải đối thủ của đám Kim Ngô Vệ? Y bị bắt giữ, đôi mắt đỏ ngầu, phẫn nộ trừng ông: “Thánh nhân muốn biết vì sao công chúa chết đúng không? Công chúa… là do Thánh nhân hại chết!”
“Ngươi nói bậy!” Thái Xương Đế không chịu đối diện với sự thật, kịch liệt ho khan, lưỡi kiếm trong tay đặt sát cổ Kế Thanh Dương: “Rõ ràng trẫm đã sai Kim Di ngăn ngươi lại, không đời nào Minh Nguyệt Châu là do trẫm hại chết?!”
Kế Thanh Dương cận kề cái chết, thế nhưng chẳng chút sợ hãi, chỉ cười lạnh: “Đúng là Thánh nhân đã sai Kim Di báo tin cho ta, thế nhưng công chúa vẫn chết chìm dưới nước. Thánh nhân có muốn biết vì sao không?”
Kế Thanh Dương gằn từng câu từng chữ: “Bởi vì công chúa… nàng tự nguyện tìm đến cái chết!”
Thái Xương Đế sững sờ, Kế Thanh Dương tiếp tục: “Công chúa đã biết Thánh nhân muốn giết nàng. Vì tân chính nên Thánh nhân định hy sinh chính con gái ruột của mình, còn công chúa, nàng đã thành toàn cho Thánh nhân!”
Một chữ “thành toàn“ khiến sắc mặt Thái Xương Đế tái nhợt, nửa lời cũng chẳng thốt nên nổi.
Kế Thanh Dương vẫn chưa dừng lại: “Công chúa không muốn Thánh nhân mang tiếng giết con nên nàng mới tự vẫn! Ha ha… ngay cả khi chết, nàng vẫn nghĩ cho Thánh nhân, nhưng Thánh nhân thì sao, người lại muốn giết nàng! Rốt cuộc công chúa đã làm sai điều gì? Nếu Thánh nhân đã muốn lấy mạng nàng, vậy thì vì sao ban đầu lại sinh ra nàng? Vì sao phải đợi đến khi nàng trở thành viên minh châu rực rỡ nhất Đại Chu mới đoạt lại mạng sống của nàng? Chẳng lẽ sự yêu thương mà Thánh nhân dành cho nàng bấy lâu nay chỉ là giả dối? Chẳng lẽ mười sáu năm nuông chiều như trân bảo, chỉ để nàng bước lên bữa tiệc tử vong này hay sao?”
Nói đến đây, Kế Thanh Dương bật khóc tức tưởi: “Nhưng ngay cả khi Thánh nhân bắt nàng đến dự bữa tiệc ấy, công chúa vẫn cam tâm tình nguyện rời đi. Nàng còn dặn thần, đừng ngăn cản nàng… Đây là con đường mà chính nàng đã chọn… Nàng bình thản đối mặt với cái chết, dùng chính sinh mạng của mình để thành toàn cho tân chính của Thánh nhân… Thánh nhân, người không xứng đáng có một nữ nhi như công chúa!”
Thái Xương Đế phun ra một ngụm máu tươi, loang lổ trên mặt đất.
Ông nắm chặt chuôi kiếm, ngón tay run rẩy. Kế Thanh Dương nhắm mắt lại, nếu Thái Xương Đế muốn giết y, vậy thì đúng ý y rồi, nếu thế, y sẽ xuống hoàng tuyền bầu bạn với Lý Doanh.
Thế nhưng, Thái Xương Đế lại cắt đứt dây trói, quát lớn: “Người đâu!”
Kim Ngô Vệ bị lui ra ngoài đồng loạt ùa vào. Một nhóm người vội vàng đỡ lấy Thái Xương Đế, một nhóm khác áp chế Kế Thanh Dương. Nhưng Thái Xương Đế chỉ mệt mỏi phất tay: “Thả hắn ra.”
“Thánh nhân…”
“Trẫm nói, thả hắn ra!”
Kim Ngô Vệ không hiểu nổi, Kế Thanh Dương cũng không hiểu nổi. Thái Xương Đế nhắm mắt, giọng điệu chậm rãi: “Kế Thanh Dương, ngươi đi đi, ngươi không giết được trẫm đâu.”
Ông nói: “Nhưng sự nhẫn nại của trẫm có giới hạn, đừng thử thách giới hạn đó thêm lần nào nữa.”
Ông mở mắt, lạnh lùng ra lệnh: “Áp giải xuống! Nếu còn dám hành thích lần nữa, giết không tha!”
–
Kế Thanh Dương bị trục xuất khỏi hoàng cung, lòng đầy căm phẫn, luôn muốn tìm cơ hội để lẻn vào cung hành thích, thế nhưng, cung Đại Minh phòng vệ nghiêm ngặt, y không sao đột nhập được.
Một năm trời lang thang ngoài cung, một ngày kia, trong cơn say túy lúy, y bỗng nhớ lại lời Lý Doanh từng nói. Trước khi chết, nàng đã dặn y hãy trở thành một người chính trực, được người đời tôn kính
Chứ đừng phung phí thời gian và sinh mạng chỉ để ám sát phụ thân nàng.
Kế Thanh Dương chợt ngộ ra. Từ đó, một mình một ngựa, cầm kiếm hành tẩu khắp nhân gian.
Ba mươi năm sau, trong đại lao của Sát Sự Thính, Kim Di cung khai với Thôi Tuần rằng chính Kế Thanh Dương đã giết Lý Doanh, còn ông ta thì giết Kế Thanh Dương. Nhưng lời khai ấy chỉ là bịa đặt, chẳng qua muốn kéo Thôi Tuần xuống nước trước lúc chết mà thôi.
Kế Thanh Dương đã rời đi tận chân trời góc bể nhưng bên trong cung Đại Minh, Thái Xương Đế vì hai chữ “thành toàn” của y mà đau đớn khôn nguôi. Ngày qua ngày chìm trong giày vò và hối hận, thân thể ông mỗi lúc một suy nhược, cuối cùng, mười năm sau, băng hà trong điện Thần Long.
Hồn ông trở về Địa phủ, qua lời kể của Thập Điện Diêm La, ông mới hay, vì gây ra huyết án Thái Xương nên linh hồn Lý Doanh đã bị giam cầm vĩnh viễn trong vòng lặp luân hồi. Để cứu con gái thoát khỏi bể khổ, ông từ bỏ cơ hội thành tán tiên, cam nguyện trở thành người lái đò bên bờ sông Nại Hà, dùng chính mình để chuộc tội thay nàng.
Nhớ đến cảnh Lý Doanh cô độc dưới hồ sen, Thái Xương Đế cầu xin Thập Điện Diêm Vương cho ông trở về nhân gian một lần.
Khi ấy, Lý Doanh đã bị giam cầm dưới hồ suốt mười năm. Ngày qua ngày, nàng chịu đựng bóng tối vô biên và sự tĩnh lặng vĩnh hằng. Ông cố ý đổi giọng, khẽ gọi tên nàng.
Dưới đáy hồ, Lý Doanh mừng rỡ vô cùng: “Ai đó?”
“Ta là… quỷ sai của Địa phủ.”
“Nếu ngài là quỷ sai, liệu có thể đưa ta đi cùng không?” Lý Doanh khẩn cầu, giọng nói tràn đầy tuyệt vọng: “Ta không muốn ở lại đây nữa… Nơi này tối quá… Ta muốn đi đầu thai.”
Ông ngập ngừng giây lát, rồi nói: “Cô không thể đầu thai.”
“Vì sao ta không thể đầu thai?”
Giọng Lý Doanh đã nghẹn lại, có lẽ vì đã khóc quá nhiều. Hiển nhiên, nàng đã chẳng còn chịu nổi sự tăm tối và cô tịch dưới đáy hồ này nữa.
Thái Xương Đế lặng im hồi lâu, cuối cùng thốt ra lời đã được chuẩn bị từ trước: “Cô bị chết oan, trước khi tìm được hung thủ, cô sẽ không thể đầu thai.”
“Ta chết oan… Phải tìm ra hung thủ thì mới được đầu thai, đúng không?”
“Đúng vậy. Sẽ có một ngày, cô sẽ rời khỏi hồ sen này. Khi đó, nếu tìm ra kẻ đã giết mình, cô đương nhiên có thể đầu thai chuyển thế.”
Lời nói của ông khiến cõi lòng Lý Doanh le lói chút hy vọng. Chỉ cần tìm được kẻ đã giết nàng, nàng sẽ được đầu thai chuyển thế.
Lý do Thái Xương Đế quay lại nơi này chính là để gieo cho nàng một niềm hy vọng. Chỉ khi có hy vọng, nàng mới có thể tiếp tục chống chọi.
Ông hiểu rõ con gái của mình, cũng đặt trọn niềm tin ở nàng.
Quả nhiên, Lý Doanh đã không còn tuyệt vọng như trước nữa. Nàng khẽ bảo: “Vậy ngài có thể ở lại trò chuyện với ta một lúc không? Ta cô độc lắm.”
“Được.”
Thái Xương Đế ngồi bên hồ, cùng Lý Doanh trò chuyện hồi lâu.
Nàng nhắc đến a nương, nhắc đến a gia, về tình yêu sâu đậm nàng dành cho cha mẹ. Trong từng lời nói, tràn ngập sự lưu luyến và nhớ thương đối với hai người.
Bên bờ hồ, Thái Xương Đế nước mắt tuôn trào.
Ông gắng sức kiềm nén cảm xúc, kể cho nàng nghe thật nhiều điều: về Vong Tử Thành, về hình dáng Địa phủ, về núi Bàn Trủng, cửa ngõ vào Địa phủ.
Đến khi trời gần sáng, ông vẫn không thể không rời đi.
Lý Doanh ngóng trông hỏi ông: “Vậy sau này liệu ta có thể gặp lại ngài không?”
Thái Xương Đế trầm mặc một lát, đáp: “Có lẽ vậy.”
Ông khẽ gọi: “Minh Nguyệt Châu.”
Lý Doanh sững người.
Ông dừng lại một chút, rồi nói: “Cô là đứa con gái tốt nhất của a nương và a gia cô. Một ngày nào đó, cô sẽ đạt được điều cô mong muốn.”
–
Rời khỏi hồ sen, Thái Xương Đế lại đến điện Thần Long. Khương Linh Diệp cùng Bồ Tát Bảo đang ở đó, dường như bà đang chuẩn bị đưa Bồ Tát Bảo lên triều. Điện Thần Long đã được thắp sáng, cửa điện dán tranh thần môn. Hai vị thần môn trên cửa chợt hiện ra. Khi trông thấy Thái Xương Đế, hai vị thần lưỡng lự một thoáng, nhưng vẫn không dám ngăn cản.
Ấy vậy mà Thái Xương Đế lại không bước vào, chỉ đứng từ xa nhìn ngọn đèn rực sáng trong điện Thần Long, sau đó xoay người rời đi.
Từ đó, là hai mươi năm đưa đò qua sông.
Ông cũng lại gặp nữ nhi của mình. Minh Nguyệt Châu đã thoát khỏi luân hồi, cùng lang quân nàng yêu chuyển sinh sang kiếp khác. Còn ông thì vẫn ở bên bờ sông Nại Hà, chống sào đưa đò. Chuyến đò ấy, lại kéo dài thêm mười sáu năm.
Thái Xương Đế chợt nghe thấy một tràng bước chân khẽ vọng đến. Ông bỏ nón trúc che mặt xuống, đứng lên.
–
Chuông tang ở cung Đại Minh vang lên, bên bờ sông Nại Hà, mái tóc bạc hóa thành suối tơ xanh. Khương Linh Diệp từng bước từng bước đi về phía người lái đò bên bờ sông Nại Hà, mắt ánh lệ nhưng lại nở nụ cười: “Tam lang.”
Thái Xương Đế lặng lẽ nhìn bà, yết hầu khẽ động, rồi cũng mỉm cười: “Linh Diệp.”
Chỉ bốn chữ, đã thắng vạn lời.
Sáu mươi năm ân oán tình thù, trong khoảnh khắc nhìn nhau, hóa thành hư không.
Bên bờ sông, chỉ còn tiếng thì thầm, khe khẽ:
“Tam lang, Bồ Tát Bảo ở đâu?”
“Ở… Huyết Bồn Khổ Giới.”
Sau một tiếng thở dài, Khương Linh Diệp vươn tay cầm lấy cây sào trúc: “Ở đây… có thiếu một bà lão chèo đò không?”
“Thiếu.”
“Là chèo thế này sao?”
“Phải.”
“Vậy còn chờ gì nữa?” Khương Linh Diệp cười tinh nghịch, như khi bà đốt tấu chương trong điện Thần Long năm xưa: “Ông lão chèo đò và bà lão chèo đò, cùng đi đón vong linh qua sông thôi.”