Chương thứ tư của 《Vọng Nguyệt Bút Ký》 viết: “Đi cũng nhớ người, ngồi cũng nhớ người.”
Dạo này Công chúa ăn không ngon, ngủ không yên, mỗi ngày việc nàng làm nhiều nhất chính là ngồi trước cửa sổ, ngắm hoa hải đường ngoài kia mà thở dài.
Bởi vì Phò mã được phái đến Ngô Trung để chủ trì khoa thi của các châu thuộc Giang Nam Đạo.
Chuyến đi này kéo dài tận một tháng.
Công chúa vẫn còn nhớ đêm trước ngày Phò mã lên đường, hai người thắp nến, tựa vào chiếc trường kỷ bằng gỗ hoa nam, trò chuyện thật lâu. Nàng nép vào lòng Phò mã, quyến luyến không rời: “Ta có thể đi cùng chàng không?”
“Không thể.” Phò mã vô tình từ chối: “Ta đi làm giám khảo, đâu có chuyện giám khảo dẫn theo gia quyến?”
Các giám khảo của Quan Nội Đạo, Hà Nam Đạo, Hà Đông Đạo do Lễ bộ phái đi đều không mang theo gia quyến. Hơn nữa, Giang Nam Đạo là nơi phồn hoa nhất Đại Chu, nhân tài tụ hội, Phò mã đoán mình sẽ bận đến mức chân không chạm đất, ở cũng phải ở trong cống viện, căn bản không có thời gian để chăm sóc Công chúa.
Công chúa vốn hiểu chuyện, nàng ấm ức đáp: “Không đi thì thôi vậy.”
Bộ dạng tủi thân của nàng vừa đáng thương vừa đáng yêu, khiến Phò mã không khỏi rung động. Hắn cúi xuống, đặt một nụ hôn lên trán nàng: “Chỉ một tháng thôi, một tháng sau, ta sẽ về.”
“Một tháng, ba mươi ngày.” Công chúa đếm trên đầu ngón tay: “Vậy ta không được gặp chàng trong vòng ba mươi ngày rồi.”
Càng nghĩ, nàng càng cảm thấy ba mươi ngày quá dài. Nàng ôm lấy vòng eo gầy của Phò mã, dựa vào lòng hắn, lưu luyến nói: “Ba mươi ngày, dài quá đi. Trừ lần chàng đi thi điện thí, chúng ta chưa từng xa nhau lâu như vậy.”
Phò mã cười: “Minh Nguyệt Châu, nàng cứ quấn lấy ta mãi, không thấy chán sao?”
“Không chán.” Công chúa ôm chặt hắn hơn: “Một chút cũng không chán.”
Bỗng nhiên, nàng sực nhận ra điều gì đó, ngẩng đầu đầy uất ức, lẩm bẩm: “Chẳng lẽ chàng chán ta rồi sao?”
Phò mã giật mình, vội cúi đầu, lại đặt một nụ hôn lên môi nàng. Hắn hôn rất dịu dàng, tựa như đang trân quý bảo vật vô giá nhất. Khi ngẩng đầu lên, giọng hắn ôn hòa: “Minh Nguyệt Châu, sao ta có thể chán nàng được kia chứ?”
Hắn thở dài một hơi: “Ta chỉ sợ nàng chán ta thôi.”
“Sao lại nghĩ như vậy?”
Phò mã thoáng ngập ngừng, nhưng rồi vẫn mở lời: “Ta nghĩ, có lẽ trước đây nàng chưa từng gặp ai thật sự xuất sắc, cho nên mới thích ta. Nhưng bây giờ thì khác rồi. Nàng mở y quán, mời rất nhiều danh y về khám bệnh miễn phí cho người nghèo, nàng không còn là tiểu thư khuê các suốt ngày quanh quẩn trong chốn thâm môn nữa. Nàng sẽ dần nhận ra, ta cũng chẳng có gì tốt đẹp.”
Từ trước đến nay, Phò mã chưa từng bộc lộ sự lo lắng của mình với Công chúa. Nghe hắn nói vậy, nàng không nhịn được bật cười: “Chàng thật sự nghĩ thế sao?”
Phò mã gật đầu: “Từ khi nàng mở y quán, tiếp xúc với nhiều người hơn, ta liền nghĩ vậy. Nhưng ta không thể bắt nàng ngày ngày ở nhà chờ ta về. Nàng có ước mơ của riêng mình, ta sẽ không ngăn cản nàng.”
Ước mơ của Công chúa vẫn luôn là thương xót muôn dân, mong sao muôn dân đều ấm no. Ngoài y quán, nàng còn dự định mở một thư viện miễn phí, chuyên dạy chữ cho những đứa trẻ không có điều kiện đi học. Mỗi năm tiền lụa nàng nhận được từ thực ấp nhiều, đến mức chẳng thể dùng hết, nên nàng muốn lấy từ dân, dùng cho dân.
Công chúa ngẩng đầu nhìn Phò mã, quả nhiên trong đáy mắt hắn lộ ra nét bồn chồn bất an. Hắn thực sự đang sợ hãi, sợ rằng sau khi nàng nhìn thấy thế giới rộng lớn hơn, nàng sẽ không còn thích hắn nữa. Công chúa khẽ thở dài, nâng mặt hắn lên, hôn nhẹ lên môi hắn rồi nói: “Ai bảo ta chưa từng gặp nam tử xuất sắc? Đại Chu có bao nhiêu công tử tuấn mỹ tài giỏi, ta đều đã gặp qua.”
Nàng nhìn vào mắt hắn, điềm đạm nói: “Nhưng trong lòng ta, chàng là tốt nhất. Dù bao nhiêu năm trôi qua, dù ta có gặp bao nhiêu người, Thập Thất lang, chàng vẫn là người tốt nhất.”
Lòng Phò mã chợt nóng ran, hắn dè dặt hỏi: “Thật sao?”
Công chúa kiên định gật đầu: “Ta không giống chàng, nói lời không giữ lời. Rõ ràng đã hứa sẽ trở về, vậy mà lại…”
Giọng nàng nhỏ dần, mắt cũng cụp xuống. Nàng chớp mắt, rúc vào lòng hắn, như thể sợ mất đi hắn một lần nữa, tay nàng siết chặt lấy hắn: “Lại không làm được, chỉ biết lấy một ngàn con châu chấu cỏ để dỗ dành ta… Ta không giống chàng. Ta đã nói chàng là người tốt nhất trong lòng ta, thì chàng chính là người tốt nhất. Ta nói ta sẽ mãi mãi thích chàng, thì sẽ mãi mãi thích chàng. Ta giữ lời hơn chàng nhiều.”
Phò mã chỉ cảm thấy vành mắt cay xè. Hắn giả vờ dụi mắt, lau đi giọt lệ vương trên khóe mi, rồi ôm chặt lấy Công chúa, hôn lên mái tóc nàng: “Ừ, Công chúa giữ lời hơn ta.”
Công chúa bật cười, nàng tựa vào lòng hắn, kéo tay hắn lại, nghịch ngợm vu.ốt ve từng ngón tay. Đột nhiên nhớ ra điều gì đó, nàng bèn hỏi: “Đúng rồi, ta nghe nói khi các quan viên kinh thành xuống địa phương công cán, quan viên nơi đó thường sẽ mời danh kỹ địa phương đến hầu rượu. Có thật vậy không?”
Phò mã có vẻ sững sờ: “Hình như là vậy…”
Đặc biệt là vùng Ngô Trung, nơi đó xa hoa trụy lạc, hoan lạc phóng túng, quan viên trong triều khi đến Ngô Trung làm việc, trên đường còn mời danh kỹ bầu bạn, coi như một chuyện phong nhã.
Công chúa bĩu môi, nói: “Thật ra ta nghĩ, những danh kỹ ấy chưa chắc đã muốn hầu hạ bọn họ, chẳng qua bị quyền thế ép buộc mà thôi. Lần này chàng đến Ngô Trung, đám quan địa phương tự xưng phong lưu kia nhất định sẽ tìm đủ cách nịnh nọt chàng, đến lúc đó, chàng không được đáp ứng bọn họ đâu đấy nhé.”
Nghĩ đến đây, lòng nàng bỗng dâng lên chút chua xót, liền nắm lấy tay Phò mã, cúi đầu cắn nhẹ lên mu bàn tay hắn.
Nàng không dùng lực, chỉ để lại một dấu răng nhợt nhạt. Phò mã thở dài: “Nàng cắn ở đây thì có ích gì chứ?”
“Ừm?”
Phò mã nói: “Chỗ này chỉ cần vạt tay áo che lại là chẳng ai nhìn thấy, nếu muốn cắn thì phải chọn chỗ nào người khác có thể trông thấy.”
Công chúa khựng lại, nhìn về phía cần cổ trắng nõn như ngọc của Phò mã.
Nàng nói: “Không phải chàng muốn… Nhưng lần trước ta để lại dấu trên cổ chàng, báo hại chàng bị quan viên Lễ bộ cười nhạo suốt mười ngày, chuyện này còn lan khắp Trường An nữa đấy.”
Phò mã mặt không đổi sắc: “Bị chê cười vẫn hơn là bị những quan viên không biết điều kia tìm cách nịnh bợ.”
Công chúa lập tức hiểu ý: “Chàng nói thật đấy chứ? Không được hối hận.”
“Không hối hận.”
Lần này Phò mã không hề tránh né, ngược lại còn bày ra bộ dáng mặc nàng muốn làm gì thì làm. Công chúa đảo mắt một vòng, cười khẽ: “Lần này, không hôn nữa.”
“Hửm?”
“Lần trước ta lưu lại quá nhiều vết, mệt muốn chết.” Nàng ngửa đầu: “Lần này, để lại một dấu là được rồi.”
Nàng mài răng, chậm rãi nghiêng đầu, cắn lên cổ Phò mã, lưu lại một dấu răng nhàn nhạt.
Thế nhưng, hắn ngay cả chân mày cũng không nhíu lại. Công chúa ngắm nghía dấu vết kia, hài lòng nói: “Như vậy, đám quan viên không biết điều ấy sẽ hiểu, rốt cuộc chàng là người của ai!”
Lời còn chưa dứt, bỗng cảm thấy trời đất đảo lộn, lúc hoàn hồn thì đã bị Phò mã đè xuống, hắn trầm giọng nói: “Là người của nàng, Thập Thất lang vĩnh viễn là của Minh Nguyệt Châu.”
Lời còn chưa dứt, viền mắt hắn chợt đỏ lên. Công chúa ngạc nhiên: “Thập Thất lang, chàng sao thế?”
Phò mã vùi đầu vào cổ nàng, hít hà hương thơm vấn vít trên người nàng, thì thầm: “Không nỡ xa nàng… Ta không nỡ rời xa Minh Nguyệt Châu…”
Công chúa vừa cảm động lại vừa trách yêu: “Vậy lúc ta nói sẽ theo chàng đến Ngô Trung, chàng lại không chịu.”
“Không nỡ là một chuyện, làm việc lại là chuyện khác.” Phò mã dịu dàng hôn lên trán Công chúa: “Minh Nguyệt Châu, đến lúc đó ta sẽ không có thời gian ở bên nàng đâu.”
“Ta biết.” Công chúa vòng tay ôm lấy cổ hắn, e lệ nói: “Chỉ là quá không nỡ xa chàng, nên làm nũng một chút thôi… Thật ra, ta sẽ không đi.”
Lúc nói lời này, đôi mắt nàng trong veo lấp lánh, tựa như lưu ly sáng rỡ. Hàng mi Phò mã khẽ run, muôn vàn lời muốn nói đều hóa thành một nụ hôn sâu đậu trên môi nàng.
Ánh nến trong song cửa không biết đã tắt từ lúc nào, trong màn trướng đỏ thắm, đôi phu thê trẻ lưu luyến không rời, thỏ thẻ tâm tình, mãi đến tận canh khuya vẫn chưa dừng lại.
–
Hôm sau, Phò mã cùng một tiểu lại của Lễ bộ lên xe ngựa, khởi hành đến Ngô Trung.
Khi trông thấy Phò mã, tiểu lại Lễ bộ đã trợn tròn mắt. Hóa ra, sau lần cổ hắn in đầy dấu vết đỏ thắm, thì lần này, trên làn da trắng như ngọc lại có thêm một dấu răng hằn sâu.
Tiểu lại Lễ bộ: “……”
Nhưng khác với lần trước, Phò mã không hề lúng túng đến mức phải dùng sách che chắn, cuối cùng đỏ bừng cả mặt. Lần này, hắn chẳng những thản nhiên, không hề che giấu, thậm chí còn tỏ vẻ như muốn để tất cả mọi người nhìn thấy.
Tiểu lại Lễ bộ thầm nghĩ: Kỳ thực là để đám quan viên Ngô Trung thấy thì đúng hơn.
Quả nhiên, chiêu này của Công chúa vô cùng hữu hiệu. Hơn nữa, lần này nàng đã quyết tâm, cắn rất mạnh, đến tận khi Phò mã đặt chân đến Ngô Trung, dấu răng trên cổ vẫn chưa tan.
Các quan viên địa phương vừa trông thấy liền vô cùng thức thời, không mời danh kỹ đến hầu rượu.
Phò mã cũng chẳng cần lên tiếng từ chối nữa.
–
Phò mã rời đi nửa tháng, Công chúa nhớ nhung đến mức ăn không ngon, ngủ không yên. Khi Diên Hi Đế biết chuyện, liền triệu nàng vào cung tụ họp.
Tuy giữa Hoàng đế và Công chúa không có quan hệ huyết thống, nhưng chẳng hiểu sao, hắn lại cảm thấy vô cùng thân thiết với nàng, thậm chí còn hơn hẳn những tông thất họ Lý.
Hai người cùng chơi cờ, song tâm trí Công chúa không yên, chỉ trong thời gian chưa hết một nén hương nàng đã thua sạch. Diên Hi Đế mỉm cười nói: “Nếu Công chúa nhớ Phò mã đến vậy, thì hãy đến Ngô Trung đi. Trẫm sẽ ban chỉ, để Phò mã có thể chuyên tâm bầu bạn với Công chúa.”
Công chúa thoáng vui mừng, nhưng rồi lại lắc đầu: “Thôi vậy.”
Diên Hi Đế lấy làm lạ: “Vì sao?”
Công chúa đáp: “Chàng đến đó là để tuyển chọn nhân tài cho Đại Chu. Huống hồ, kỳ châu thí ở Giang Nam Đạo quan trọng bậc nào, sao ta có thể khiến chàng phân tâm vì mình chứ?”
Diên Hi Đế thoáng sững người, sau đó bật cười: “Quả thật trẫm chưa từng nghĩ đến điều này.”
Trước đây, ấn tượng của hắn về Công chúa chỉ dừng lại ở thân phận thê tử của Phò mã, cùng với danh nghĩa con gái nuôi mà tổ mẫu thu nhận trước khi băng hà. Nhưng càng tiếp xúc, hắn lại càng cảm thấy nàng là người khiến người khác không khỏi ngạc nhiên. Rõ ràng nàng sở hữu thực ấp ba nghìn hộ, vậy mà chẳng hề xa hoa phung phí như những vương công quý tộc khác. Trong phủ không hề lập thuộc quan, cũng chẳng nuôi nấng hàng trăm nô bộc, chỉ có mấy tỳ nữ hầu hạ. Hơn nữa, nàng còn thường xuyên phát cháo, mở y quán cứu tế dân chúng ở Trường An, tận tâm tận lực giúp đỡ bách tính.
Hành động ấy, đúng là đã khiến người ta phải kính phục.
Diên Hi Đế chân thành nói: “Công chúa một lòng vì nước như vậy, quả là phúc của Đại Chu.”
Công chúa có chút ngượng ngùng, dịu giọng đáp: “Công chúa Đại Chu được muôn dân phụng dưỡng, tất nhiên phải hồi đáp muôn dân. Đây là lời dạy của mẫu thân, Chẩm Nguyệt không dám quên.”
Diên Hi Đế gật đầu, cảm thán: “Đỗ phu nhân đúng là người thấu tình đạt lý.”
Công chúa nghe xong không nói gì thêm, chỉ khẽ mỉm cười. Một lát sau, nàng mới lên tiếng: “Chẩm Nguyệt muốn lập một thư viện ở Trường An, mong bệ hạ ân chuẩn.”
–
Diên Hi Đế không có lý do gì để không ân chuẩn. Thế nên, suốt nửa tháng sau đó, Công chúa bận rộn với việc lập thư viện. Ban ngày công việc cuốn lấy nàng, song khi đêm xuống, trong khoảnh khắc tĩnh lặng, nàng lại nhớ đến Phò mã.
Nhớ người khi bước dưới gốc hải đường, nhớ người khi ngồi bên song cửa ngắm trăng sáng, đúng là đi cũng nhớ người, ngồi cũng nhớ người.
Tối nay, nàng lại tựa bên khung cửa, chống cằm nhìn ra ngoài, đắm mình trong ánh trăng vằng vặc. Bất chợt, tiếng vó ngựa dồn dập vang lên, làm kinh động cả đàn yến đậu trên gốc hoa hải đường. Chúng cất cánh bay lên, xao xác giữa màn đêm.
Công chúa vội đứng dậy ra xem, song cánh cửa gỗ chạm trổ chưa kịp mở đã bị người từ bên ngoài đẩy mạnh. Ngay sau đó, một vòng tay rắn rỏi đã ôm chặt lấy nàng.
Người thanh niên phong trần mỏi mệt vùi mặt vào mái tóc nàng, thủ thỉ nói: “Minh Nguyệt Châu…”
Công chúa sửng sốt: “Chẳng phải ba ngày nữa chàng mới về sao? Sao lại trở về sớm thế này?”
“Minh Nguyệt Châu, ta nhớ nàng…” Phò mã ôm nàng thật chặt, tham lam hít lấy hương hoa nhài thoang thoảng trên mái tóc: “Đợi không nổi nữa, nên cưỡi ngựa về trước.”
Công chúa vừa vui mừng, lại vừa lo lắng: “Chàng bỏ mặc những người khác ở Lễ bộ mà về trước, liệu có ổn không?”
“Không sao.” Phò mã đáp: “Họ đều đã có gia đình, đương nhiên hiểu được lòng ta.”
Hắn không nói với Công chúa rằng, những ngày ở Ngô Trung, hắn một lòng dốc sức cho kỳ châu thí, nhưng mỗi đêm nhàn rỗi, hắn lại ngẩn ngơ nhìn ánh trăng treo trên cao, cứ thế lặng lẽ ngắm nhìn suốt một canh giờ.
Những viên tiểu lại của Lễ bộ chẳng hiểu vì sao hắn lại mê mẩn vầng trăng đến vậy, nhưng chỉ có hắn mới biết, qua ánh trăng ấy, hắn có thể trông thấy dung nhan thoát tục của nàng, thấy bóng hình mảnh mai đã kéo hắn ra khỏi cõi A Tu La khổ ải.
Vậy nên, câu “đi cũng nhớ người, ngồi cũng nhớ người” dường như đâu chỉ dùng để nói về Công chúa. Kỳ thực, chẳng phải chính Phò mã cũng rơi vào tình cảnh đó hay sao?
Về sau, các tiểu lại của Lễ bộ đã quen với điều này. Mỗi khi công vụ xong xuôi, họ còn chủ động thúc giục hắn mau chóng hồi kinh, đoàn tụ cùng Công chúa.
Công chúa nghe xong, nhướng mày: “Họ nói vậy thật sao?”
“Ừ.”
“Không ai trêu chàng sợ vợ à?”
“Ai dám?”
Công chúa khẽ cười, kiễng chân nhìn lên cổ Phò mã. Dấu răng hôm trước nay đã hoàn toàn biến mất. Phò mã cất giọng trầm ấm: “Nếu nàng muốn lưu lại, có thể cắn thêm một dấu nữa.”
Công chúa cười duyên: “Chàng có phải đi Ngô Trung nữa đâu, ta để lại dấu vết làm gì?” Nàng ngừng một chút, giọng nàng nhỏ dần: “Hơn nữa, ta đâu nỡ chứ…”
Nói đến đây, nàng tựa vào lòng Phò mã, đôi má ửng hồng. Trong khoảnh khắc ấy, cõi lòng Phò mã rung lên, hắn nâng khuôn mặt nàng, dịu dàng đặt một nụ hôn xuống.
Bên song cửa, đàn yến bị đánh thức ríu rít nhảy nhót. Nhưng không biết từ lúc nào, bầy yến đã bay đi, cửa sổ cũng khép lại, để lại trong phòng một khoảng không tràn ngập xuân sắc triền miên.
–
Từng trang từng trang trong “Vọng Nguyệt Bút Ký” đều là những nét bút thấm đượm tình ý giữa Công chúa và Phò mã. Chẳng hạn như câu “Cầm sắc hòa minh, lưỡng tâm tương khế” [1] thuật lại rằng Công chúa tinh thông cổ cầm, [2] nên Phò mã đích thân chế tác một cây cổ cầm, làm lễ vật sinh thần tặng nàng.
[1] “Cầm sắc hòa minh”: “Cầm” (瑶琴) và “sắt” (瑟) đều là nhạc cụ cổ xưa của Trung Hoa, tượng trưng cho sự hòa hợp giữa hai âm thanh. Câu này ý chỉ sự hòa hợp giữa vợ chồng, giống như hai loại nhạc cụ hòa quyện thành một khúc nhạc êm đềm. “Lưỡng tâm tương khế” (兩心相契): “Lưỡng tâm” là hai trái tim, “tương khế” là ăn ý, hòa hợp với nhau. Câu này diễn tả sự đồng lòng, gắn kết sâu sắc giữa hai người trong tình yêu và hôn nhân.
[2] Cổ cầm (古琴): Cổ cầm là một loại nhạc cụ Trung Quốc thuộc bộ dây dạng gảy gồm có 7 dây. Chú thích hình ảnh đặt ở cuối chương.
Khi nhận được cổ cầm, Công chúa vừa kinh ngạc vừa vui mừng khôn xiết, từ đó trong phủ hai người, thường xuyên vang vọng tiếng cầm tiêu hòa tấu.
Lại như câu “Phượng hoàng đài thượng, phượng hoàng du”, [3] kể chuyện Công chúa và Phò mã du ngoạn Phượng Hoàng Sơn. Vì y phục phiền hà khi leo núi, Công chúa bèn thay sang Hồ phục nam trang, cùng Phò mã trèo lên đỉnh núi.
[3] Hai câu thơ trích từ bài “Đăng Kim Lăng Phụng Hoàng đài” (Lên đài Phụng Hoàng ở Kim Lăng) của tác giả Lý Bạch.
Dịch nghĩa: Trên đài Phụng Hoàng đã từng có phụng hoàng qua lại.
Nguồn chú thích: thivien
Đi đến lưng chừng núi, Công chúa thấm mệt, Phò mã liền cúi xuống cõng nàng, từng bước từng bước men theo bậc đá mà đi.
Nàng nép vào lưng hắn, lúc thì lau mồ hôi, lúc lại nhỏ nhẹ hỏi hắn có mệt hay không. Phò mã chỉ cười, bảo rằng không mệt. Lúc hai người đang tình thâm ý thiết, bất chợt gặp được một lão hủ nho. Lão lắc đầu, nghiêm mặt nói: “Hai nam tử lại có cử chỉ như vậy, thật là mất hết thể thống!”
Công chúa bật cười, tinh nghịch nhìn lão: “Hai nam tử đâu ra chứ? Chẳng lẽ lão tiên sinh không nhận ra, trước mặt ngài đây là một đôi phượng hoàng sao?”
Lời vừa dứt, lão nho đỏ mặt tía tai.
Lại có đoạn: “Chèo thuyền ra giữa dòng, bên đầm sen gợn sóng” ghi lại mùa hạ năm ấy, Công chúa cùng Phò mã ngồi thuyền nhỏ giữa hồ, bốn bề phủ kín lá sen xanh biếc, những đóa sen hồng tầng tầng lớp lớp, khoe sắc đua hương. Công chúa hái một đóa sen, đặt bên gương mặt tuấn mỹ như ngọc tạc của Phò mã, khẽ cười: “Hoa sen tuy đẹp, nhưng không thể sánh bằng Phò mã.”
Phò mã chẳng lấy làm bận tâm, ngược lại còn cầm đóa sen cài lên mái tóc nàng, dịu dàng nói: “Cũng chẳng thể sánh bằng Công chúa.”
–
Lật đến trang cuối cùng của cuốn “Vọng Nguyệt Bút Ký”, trên đó ghi rằng: “May mắn được gặp được quân, luân hồi mãi kề cận.”
Lý Doanh thẹn quá hóa giận, vội khép sách lại, rồi ném thẳng vào lòng Thôi Tuần: “Chàng xem đi!”
Thôi Tuần điềm nhiên đáp: “Ta xem rồi.”
Nàng tức tối nói: “Cuốn sách này chẳng những lan truyền khắp Trường An, mà còn truyền đến tận Tây Vực! Đúng là bọn đạo tặc đáng ghét!”
Mấy ngày trước, Thôi phủ bị trộm viếng thăm. Khi đó, Lý Doanh và Thôi Tuần đang thả đèn Khổng Minh bên ngoài, trong phủ không có một ai. Kẻ trộm lẻn vào phòng ngủ của hai người, bị gia nhân phát giác nên vội vàng bỏ trốn. Trước khi đi, gã còn tiện tay lấy mất một quyển bút ký mà Lý Doanh từng viết.
Đúng vậy, cuốn “Vọng Nguyệt Bút Ký” thực ra chính là do nàng chấp bút.
Ban đầu, nàng chỉ muốn lưu lại những khoảnh khắc đáng nhớ giữa mình và Thôi Tuần. Mọi thứ giữa họ đều quá đỗi tốt đẹp, nàng không nỡ để thời gian phủ mờ ký ức, nên mỗi ngày đều ghi chép lại, đặt tên là “Vọng Nguyệt Bút Ký”.
Chữ “Vọng” lấy từ tên Thôi Vọng Thư, chữ “Nguyệt” ý chỉ Minh Nguyệt Châu, vì vậy hai chữ “Vọng Nguyệt” hàm chứa tên của hai người họ.
Nào ngờ, tên đạo tặc kia không trộm thứ gì khác, lại cố tình lấy đi cuốn bút ký này!
Nếu chỉ có vậy thì cũng đành chịu, nhưng trớ trêu thay, tên trộm ấy lại là một tên thô thiển nhưng biết đọc sách. Gã lật xem vài trang, nhận thấy từng câu từng chữ trong đó đều chan chứa tình cảm chân tình, thắm thiết, liền đem bán với giá cao cho một thương nhân chuyên kinh doanh sách vở.
Lão chủ hiệu sách đọc qua liền thấy được tiềm năng để khai thác. Huống hồ, vợ chồng Công chúa Vạn An vốn nổi danh tình sâu ý nặng khắp Đại Chu, bách tính ai nấy đều tò mò về cuộc sống của đôi vợ chồng trẻ này. Vì thế, lão chủ tiệm chỉnh sửa đôi chút, rồi cho khắc in dưới danh nghĩa dã sử, kế đó bày bán rầm rộ.
Về sau, dù đã bắt được tên trộm cùng lão chủ hiệu sách, nhưng những bản in khắc gỗ đã lan truyền khắp nơi, không thể thu hồi hết được.
Lý Doanh ôm mặt than trời: “Ta không cần biết! Chàng phải thu hồi toàn bộ cuốn sách này! Mất mặt chết đi được!”
Thôi Tuần bất đắc dĩ nói: “Dân chúng đều nghĩ đây chỉ là dã sử. Nếu bây giờ huy động lực lượng lớn thu hồi, e rằng họ càng tin là thật.”
Lý Doanh suýt phát khóc: “Vậy phải làm sao đây?”
Ngày đầu tiên “Vọng Nguyệt Bút Ký” lan truyền khắp Trường An, nàng xấu hổ đến mức suốt bảy ngày không dám bước chân ra khỏi cửa, sợ bị người ta chê cười. Nàng rầu rĩ than thở: “Giờ thì cả Đại Chu đều biết rồi.”
Thế nhưng, Thôi Tuần chỉ mỉm cười.
Lý Doanh trừng mắt nhìn hắn: “Chàng còn cười được sao?”
Thôi Tuần nói: “Ta thấy từ triều đình đến dân gian, chẳng ai xem chuyện này là trò cười, ngược lại còn cho rằng đó là một giai thoại đẹp.”
Lý Doanh bán tín bán nghi: “Thật sao?”
“Thật.” Thôi Tuần gật đầu: “Nếu bây giờ nàng bước ra ngoài, liền có thể nghe thấy.”
Lý Doanh hơi do dự, Thôi Tuần lại cười nói: “Minh Nguyệt Châu, phu thê ân ái, tình thâm nghĩa trọng thì có gì đáng để xấu hổ? Trước kia nàng luôn giấu kín cuốn bút ký này, chẳng cho ta xem. Nếu nàng cho ta đọc sớm, có khi ta đã thêm vào vài chuyện thú vị rồi.”
Lý Doanh lập tức đỏ mặt, cúi đầu im lặng.
Thôi Tuần nắm lấy tay nàng, nhẹ giọng nói: “Viết tiếp đi, Minh Nguyệt Châu. Chúng ta cùng viết, chúng ta còn cả một đời để viết tiếp cơ mà.”
Lý Doanh ngẩng đầu, đôi mắt lấp lánh nhìn Thôi Tuần, khóe môi cũng cong lên. Nàng đáp: “Ừm!”
–
Bên bờ sông Nại, cuốn “Vọng Nguyệt Bút Ký” đã được lật đến trang cuối cùng.
Một giọng nữ trong trẻo cất lên như tiếng ngọc va vào nhau: “Sao ta cứ cảm thấy, Thôi Vọng Thư luôn bắt nạt Minh Nguyệt Châu vậy?”
“Thật sao? Nhưng xem ra, Minh Nguyệt Châu mới là người bắt nạt hắn nhiều hơn.”
“Chàng có còn là a gia của Minh Nguyệt Châu không đấy? Sao cứ bênh vực Thôi Vọng Thư mãi thế?”
“Linh Diệp, nàng chưa từng nghe thấy câu “giả câm giả điếc mới được làm nhạc phụ” sao? Vợ chồng người ta tình thâm ý trọng, nàng đừng bận tâm nữa.”
“Không, ta vẫn cảm thấy…”
Nhân gian rì rầm to nhỏ, bên bờ sông Nại, cũng là những lời tỉ tê không dứt.
–
Xuân qua thu đến, năm tháng luân hồi.
Trong thư viện tĩnh lặng, một nữ sinh vận váy trắng đứng trước giá sách cao ngất.
Đây rõ ràng là một tân sinh viên năm nhất, khuôn mặt còn mang nét ngây thơ, ngơ ngác. Cô rút ra một quyển 《Chu sử》, lật mở, chăm chú đọc.
Dù đã rất quen thuộc với sử sách triều Chu, nhưng mỗi lần đọc lại, cô vẫn bị cuốn hút bởi những trang sử huy hoàng rực rỡ, thời đại thiên hạ quy phục, vạn quốc triều cống.
Công chúa Vĩnh An Lý Doanh, Hoàng đế Thánh Tông Lý Tắc, Nữ đế một đời Khương Linh Diệp, Phò mã Đô úy Bùi Hành, Công chúa Vạn An Đỗ Chẩm Nguyệt, từng nhân vật phong lưu giữa thời thịnh thế dần hiện ra trước mắt cô qua từng trang sách.
Và hơn cả, cô say mê nhất vị thần tử cô độc từng lẻ loi giữa gió tuyết, Liên Hoa Lang, Thôi Tuần.
Cô xem qua một lần nữa phần ghi chép về cuộc đời Thôi Tuần, rồi mới thở dài, cất 《Chu sử》 trở lại giá sách.
Đúng lúc ấy, ánh mắt cô bỗng bị một quyển cổ thư ố vàng thu hút.
Cô lẩm nhẩm: “《Vọng Nguyệt Bút Ký》?”
Là sách gì vậy?
Cô không biết nữa, nhưng không hiểu sao trong lòng lại dâng lên một cảm giác quen thuộc đến lạ kỳ.
Cô đưa tay, định rút cuốn sách ra.
Nhưng đồng thời, một bàn tay khác cũng vươn tới.
Đầu ngón tay hai người chạm nhau, cả hai đều sững lại.
Nữ sinh váy trắng ngẩng đầu, đập vào mắt nàng là một đôi mắt đào hoa mê hoặc lòng người, một gương mặt tuyệt mỹ thanh nhã như đóa sen.
Từng mảnh ghép của quá khứ lần lượt hiện về: mặt nạ đầu thú trong hội đèn Thượng Nguyên, tuyết trắng mai đỏ ở chùa Tây Minh, món đường phấn của Phúc Mãn Đường, thuyền đêm thổi sáo giữa dòng Quế Giang, tất cả đồng loạt tái hiện trước mắt hai người.
“Cùng chàng chính là uyên ương, chớ hỏi nhân gian có lối về.”
Cô nhìn anh, khẽ mỉm cười: “Chàng đến rồi?”
Anh cũng nhìn cô, nụ cười dịu dàng như gió xuân: “Ừ, ta đến rồi.”
*
Chú thích hình ảnh:
[2] Cổ cầm: