-Đăng tại truyện yy. pro-
Tại vị trí trung tâm của hẻm núi có một cái khe sâu không thấy đáy. Tuy linh khí ở nơi này tương đối dồi dào, nhưng lại không phát hiện ra bất kỳ loại tài nguyên đặc thù nào, được cái, loại hoàn cảnh đặc thù ấy lại cực kỳ thích hợp để độc hạt tu luyện.
Bởi vậy, đối với tu sĩ có đồng tham độc hạt, nơi này chính là địa điểm cực kỳ lý tưởng để gia tăng công pháp, có thể nói, bản thân khe sâu ấy đã chính là một loại tài nguyên thượng đẳng rồi.
Vào ban đêm, Lý Thủy Đạo, Hạ Nhược Tuyết và Lý Minh Nguyệt trực tiếp xuất phát từ Thiên Trì bảo, mỗi người đều vận dụng một loại phương pháp phi độn khác nhau.
Lý Thủy Đạo và Lý Minh Nguyệt lựa chọn phi hành trên không trung, trong khi Hạ Nhược Tuyết lại hóa thành một luồng huyết quang bay là là sát mặt đất, đi xuyên qua rừng rậm rạp, lặng lẽ tiến lên.
Trời còn chưa sáng, ba người đã tới Thiên Hạt cốc. Bọn họ dành trọn một đêm đi thăm dò địa hình, sau đó xác định địa điểm mai phục tại một sơn cốc bí ẩn.
Trong sơn cốc, nước chảy róc rách, thảm thực vật rậm rạp tốt tươi...
Sau khi trời sáng, một mình Hạ Nhược Tuyết đi tới An Gia Bảo tìm hiểu tin tức. Nàng cần xác định lộ tuyến tuần phòng, thời gian giao ban của tu sĩ An gia, cùng với tin tức về từ đường của gia tộc bọn họ, cũng như sắp tới An gia này có cử hành tế tự hay không, thậm chí cả phương pháp cụ thể để trà trộn vào An gia nữa...
Những chuyện này khá chi tiết và tường tận, nhưng đều là những tin tức mà nhóm thị nữ phàm nhân của An gia có thể biết được, và pháp thuật Huyễn Hóa Mê Hồn hoàn toàn có thể làm bọn họ phun ra hết thảy những gì mình biết.
Còn Lý Thủy Đạo và Lý Minh Nguyệt ở lại trong sơn cốc, bắt đầu bố trí trận pháp. Chỉ thấy Lý Minh Nguyệt lấy ra một mảnh lụa, phía trên vẽ trận đồ tinh xảo. Nàng dùng ngón tay nhẹ nhàng chạm vào tấm lụa, bắt đầu giảng giải cho Lý Thủy Đạo nghe về phương pháp bố trận cùng với trận lý của "Lưu Thủy Huyễn Ảnh trận".
Lý Thủy Đạo chỉ nghe một chút đã hiểu thông, hiển nhiên tạo nghệ trận đạo của hắn đã vượt ngoài dự đoán của Lý Minh Nguyệt.
Sau khi thỏa thuận xong, Lý Minh Nguyệt giao cho Lý Thủy Đạo một bó trận kỳ, trực tiếp buông tay để hắn đi bày trận. Lý Thủy Đạo cầm bó trận kỳ có phong cách cổ xưa nọ trong tay, nhanh chóng đi cắm mỗi một cây trận kỳ xuống vị trí đã được đánh dấu trên trận đồ.
Sau một lát, trong sơn cốc đã cắm đầy trận kỳ.
Cũng may, địa thế mà bọn họ lựa chọn tương đối bí mật, nếu đây là một khu đất trống tương đối rộng mở, chỉ e người khác vừa liếc mắt một cái đã có thể nhìn ra bọn họ đang bày trận mai phục ở chỗ này rồi.
Sau khi Lý Thủy Đạo cắm xong trận kỳ, Lý Minh Nguyệt đi tới kiểm tra sơ bộ một phen. Chỉ thấy nàng liên tiếp gật đầu, khen không dứt miệng.
Kiểm tra xong, Lý Minh Nguyệt lại lấy từ trong túi trữ vật ra một sợi pháp tuyến [1] bằng ngọc dài và một cái trận bàn.
Ngay sau đó, nàng lập tức phi độn tới khắp nơi trong sơn cốc, thân thể linh hoạt giống như một con tinh linh nhẹ nhàng bay múa. Sợi pháp tuyến bằng ngọc xuyên qua mỗi một cây trận kỳ, tới cuối cùng mới dừng lại trên một cái trận bàn.
Trận bàn này chính là phần hạch tâm mấu chốt của Lưu Thủy Huyễn Ảnh Trận. Bọn họ có thể bố trí thành công loại trận pháp lâm thời này trong một hoặc hai ngày ngắn ngủi hay không, toàn bộ đều dựa vào cái trận bàn này.
Trên thực tế, nếu dùng trận đồ và pháp khí trận đạo, bọn họ có thể hoàn thành quá trình này nhanh hơn là dùng loại khí cụ bày trận như trận bàn.
Lấy ví dụ như Tàng Kiếm Băng Liên trong tay Lý Thủy Đạo chẳng hạn, nó có thể vây khốn kẻ địch vào trong kiếm trận rồi giết chết chỉ trong nháy mắt, nhưng pháp khí trận đạo cần tiêu hao pháp lực của bản thân người sử dụng, bởi vậy luận về uy lực, thì nó là yếu nhất.
Loại có uy lực hơi mạnh hơn một chút là trận pháp lâm thời dùng trận bàn bố trí, thứ nó tiêu hao chính là linh lực ẩn chứa bến trong linh thạch.
Còn loại có uy lực mạnh nhất, đương nhiên là trận pháp vĩnh cửu được bố trí dựa vào địa thế núi sông và mượn dùng linh mạch. Bởi vậy thứ thúc đẩy trận pháp chính là uy lực của thiên địa, muốn lấy lực phá trận cũng đồng nghĩa với đang đối kháng với thiên địa.
Lý Minh Nguyệt nắm một cái trận bàn được làm bằng bạc trong tay, trực tiếp khảm linh thạch lên trên, sau đó đánh ra một đạo pháp quyết.
Một mảnh linh quang nhanh chóng lưu chuyển trong sơn cốc, ngay sau đó, tất cả trận kỳ đều giấu kín đi, hoàn toàn biến mất trước mắt hai người.
Lý Thủy Đạo và Lý Minh Nguyệt liếc nhìn nhau, cả hai đều nhìn thấy niềm vui sướng vì đã bày trận thành công trong mắt đối phương.
Lý Minh Nguyệt lại thúc giục trận pháp, một luồng linh quang chớp động, linh khí nhẹ nhàng lưu động thông suốt qua những tiết điểm.
Rất nhanh, bóng dáng bọn họ đã bị Lưu Thủy Huyễn Ảnh Trận vây quanh, lập tức biến mất trong ảo trận.
Sau khi bố trí Lưu Thủy Huyễn Ảnh trận thành công, bọn họ lại bắt đầu bố trí "Ngũ Hành Vụ Ẩn Trận".
Lý Minh Nguyệt lập tức lấy ra một phiến đá bằng mã não, mặt trên có khắc đồ án ngũ hành, đây chính là trận bàn của Ngũ Hành Vụ Ẩn Trận.
Ngũ Hành Vụ Ẩn Trận được bố trí bên ngoài sơn cốc, một khi kích phát, nó sẽ phun ra lượng lớn sương trắng, biến thành một mảnh sương mù bao phủ phạm vi mười dặm xung quanh khu núi rừng này.
Hai người dùng tới hai ngày một đêm mới hoàn toàn bố trí xong hai loại trận pháp này.
Lúc ấy đã là chạng vạng tối...
Hạ Nhược Tuyết vừa trở về, nàng khẽ gật đầu với Lý Thủy Đạo, nói: "Đêm nay có thể hành động."
"Không bằng ngươi hãy nghỉ ngơi một chút đi, ngươi đã quá mệt mỏi rồi." Lý Minh Nguyệt nhìn Lý Thủy Đạo với vẻ mặt quan tâm nói.
Lý Thủy Đạo lắc đầu: "Cần rèn sắt khi còn nóng, huống chi hai loại trận pháp này chỉ là trận pháp tạm thời, kéo dài càng lâu càng dễ xảy ra vấn đề. Chúng ta phải hành động ngay trong đêm nay."
Sau đó, hai người Lý Thủy Đạo lập tức hóa thành hai luồng độn quang lặng yên rời đi... Gần đến vị trí An Gia Bảo, Hạ Nhược Tuyết lấy từ trong túi trữ vật ra một bộ y phục của hạ nhân đã chuẩn bị sẵn từ trước.
Hai người nhanh chóng thay y phục. Hạ Nhược Tuyết mặc một bộ đồ của nha hoàn, trong khi Lý Thủy Đạo hóa trang thành một tiểu tư [2].
apptruyen
-----------------
[1] : Trong hình học, pháp tuyến là một đối tượng như đường thẳng, tia hoặc vectơ, vuông góc với một đối tượng nhất định.
[2] : Tiểu tư nghĩa là người hầu nam còn trẻ.