Thi thể của Tiêu Thừa Sách được đưa về Lan Lăng, Tiêu gia chọn ngày lành tháng tốt để hạ táng.
Thái hoàng thái hậu vì muốn an ủi con gái duy nhất, đã thỉnh cầu Tống Hành ban thêm thực ấp cho hoàng cô Đại trưởng công chúa Tống Vi Lan, đồng thời thăng chức cho thứ tử của nàng, Tiêu Thừa Cảnh, thành quan tứ phẩm ở kinh thành.
Tống Hành thuở nhỏ từng được vị hoàng cô này che chở, giữa hai người vốn có chút tình thân. Lại thêm Thái hoàng thái hậu nhiều ngày qua vì chuyện này mà phiền muộn, hắn bất đắc dĩ phải đồng ý. Tuy nhiên, vì Tiêu Thừa Cảnh tư chất tầm thường nên chỉ được ban một chức quan nhàn tản.
Tống Vi Lan chỉ còn duy nhất người con trai này, không dám mơ ước xa vời. Nàng chỉ mong con mình có thể bình an sống đến cuối đời. Một chức quan tứ phẩm an nhàn, vừa có không ít bổng lộc, vừa tránh xa vòng xoáy quyền lực, đủ để bảo toàn cho hắn, sao nàng có thể không hài lòng?
Tiêu Thừa Cảnh từ Lan Lăng lên đường đến Lạc Dương nhậm chức. Tống Vi Lan nhận được ý chỉ của Thái hoàng thái hậu, theo hắn cùng đến Lạc Dương, tạm thời trú tại cung của Thái hoàng thái hậu.
Tình hình chiến sự ở tiền tuyến ngày càng căng thẳng, Tống Hành không có tâm tư để ý đến những chuyện khác. Ngay cả yến tiệc tiếp đón cũng bỏ qua, chỉ gặp Tống Vi Lan và Tiêu Thừa Cảnh mỗi một lần tại cung Thái hoàng thái hậu.
Đêm ấy, hai mẹ con họ nhắc đến Tiêu Thừa Sách, không khỏi đau đớn khôn cùng, khóc đến nước mắt giàn giụa.
Giờ khắc này, họ dường như không phải là Thái hoàng thái hậu và Đại trưởng công chúa cao quý, mà chỉ là người bà, người mẹ mất đi người cháu, người con của mình.
Sơ Vũ nhìn cảnh tượng này, mắt cũng đỏ hoe. Nàng kìm nén nước mắt, cẩn thận mang khăn đến cho hai người lau mặt, nhẫn nại khuyên nhủ hồi lâu. Mãi đến lúc ấy, họ mới ngừng khóc.
Gần đây, ngoài nỗi lo vì chiến sự và thiên tai, trong lòng Tống Hành bỗng dâng lên một dự cảm không mấy rõ ràng, những cảm xúc khó tả đó khiến hắn ăn không ngon, ngủ không yên. Chỉ khi được gặp được nàng, giai nhân hắn luôn đặt nơi đầu trái tim, hắn mới cảm thấy nhẹ nhõm phần nào.
Thế nhưng, từ đầu xuân đến nay, nàng không chỉ cố ý tránh hắn mỗi ngày mà còn không thèm nói chuyện với hắn. Dù là trên giường, hắn hành xử khép nép, trăm phương ngàn kế lấy lòng, nàng vẫn chẳng dành cho hắn sắc mặt cùng nụ cười dễ coi.
Nàng vốn là người dịu dàng, tính tình mềm mại, nhưng nếu bị hắn ép quá, nàng cũng sẽ tức giận, đấm thình thịch vào ngực, vào vai hắn, mở miệng mắng hắn không phải người.
Tống Hành lại vô cùng thích bộ dạng nàng như vậy, khi không còn là tảng đá vô tri trước mặt hắn. Mỗi lần như thế, hắn đều mặt dày đưa mặt lại gần, để nàng đánh vào mặt cũng không sao, chỉ cần nàng chú ý nhẹ tay, đừng để ai nhận ra là được.
Nếu có người để ý, chắc hẳn họ sẽ nhận thấy rằng, tuy mỗi ngày Dương Thượng nghi đều bận rộn công vụ nhưng phần lớn thời gian vẫn giữ được tâm trạng khá tốt. Thân hình vốn gầy guộc của nàng giờ đã có phần đầy đặn hơn, khuôn mặt cũng tròn trịa hẳn ra.
Ngược lại, vị Thánh thượng cường tráng khôi ngô, có lẽ vì lao tâm quốc sự, thường xuyên cau mày trước mặt quần thần, thân hình dường như gầy đi vài phần.
Mãi đến khi sứ giả nước Ngụy đến cầu hòa, hàng chân mày của Tống Hành mới tạm giãn ra, tiếp sứ giả nước Ngụy tại Minh Đường.
Vị Võ An hầu Thẩm Kính An, người đã công phá hai trấn Trấn Hải và Tuyên Hấp, một tướng tài thành danh khá muộn, cũng là người hắn rất muốn gặp. Hắn bèn đặt điều kiện gặp người này để đồng ý hòa đàm.
Sứ giả lập tức phi ngựa hồi báo về Biện Châu.
Ngay đêm hôm đó, Giang Tiều triệu Thẩm Kính An vào cung.
Đã hơn năm mươi tuổi mới có được một vị tướng kiệt xuất như vậy, nếu lần này y gặp bất trắc, Giang Tiều biết đi đâu để tìm một người thay thế y nữa đây?
Thẩm Kính An nhìn ra vẻ khó xử của Giang Tiều, liền mở lời trước: “Thánh thượng có điều gì xin cứ nói thẳng.”
Giang Tiều nghe vậy, hàng mày đang nhíu lại càng siết chặt hơn: “Tống Hành muốn khanh đến Lạc Dương hòa đàm.”
Lạc Dương. Đúng lúc y cũng dự định đến nơi ấy, vừa hay nhân cơ hội đưa Nhị nương sớm trở về nước Ngụy, để y có thể bảo vệ nàng chu toàn.
Thẩm Kính An đoán được Giang Triều e ngại điều gì, lập tức ôm quyền trần tình:
“Thánh thượng không cần lo lắng cho thần. Cổ nhân có câu: “Lưỡng quốc giao binh bất trảm lai sứ”. Cho dù quốc quân nước Triệu có hận thần vì đã lấy mạng Tiêu Thừa Sách, phế đi một cánh tay của Tiết Phụng, thì cũng chỉ có thể đường đường chính chính lấy mạng thần trên chiến trường. Chẳng nhẽ hắn lại hạ mình thực hiện những hành động ti tiện ngay trong địa giới nước Triệu?”
Dứt lời, Giang Tiều vẫn còn do dự. Ông ta từng có giao tình sâu đậm với Tống Lâm, nhưng lại không mấy quen thuộc với tính cách của con trai ông ta, vị quốc quân hiện tại. Nếu người đang tại vị là Tống Lâm, ông ta sẽ không ngần ngại phái Thẩm Kính An đi hòa đàm. Nhưng với một Tống Hành có tiếng là ngoan độc, nhẫn tâm, ông ta khó mà yên lòng được.
Thẩm Kính An nhìn thấy trên mặt ông ta vẫn còn nét lưỡng lự và kiêng dè, nhưng cuối cùng vẫn quỳ gối xuống, chân thành nói: “Vị quốc quân nước Triệu kia tuy thủ đoạn tàn nhẫn, nhưng cũng không phải hạng tiểu nhân đê hèn. Dân chúng Bắc địa đã hết lòng ủng hộ phụ tử bọn họ, trong tay hắn cũng có không ít lương tướng trung thành quy thuận, hẳn là phẩm tính cũng có chỗ tương đồng. Thánh thượng cứ an tâm, thần đi chuyến này nhất định không phụ sự ủy thác, mang theo hòa ước trở về Biện Châu bình an vô sự.”
Giang Tiều thấy y đã quyết ý ra đi, cuối cùng cũng hạ quyết tâm, cúi người đỡ y đứng dậy, cao giọng nói:
“Tri Dật chưa bao giờ khiến trẫm thất vọng, trẫm tự nhiên tin tưởng khanh. Chỉ là, ngoại nhân đều nói tiểu tử Tống Hành lòng dạ thâm sâu, không giống như phụ thân hắn, hào sảng cương trực. Chuyến đi này, khanh nhất định phải thật cẩn thận.”
Thẩm Kính An lại dập đầu cảm tạ ba lần, lúc này mới chịu đứng lên.
Ngoài cửa sổ, ánh trăng đã lên đến đỉnh trời, còn chưa đến giờ cài then đóng cửa. Giang Tiều liền gọi y ngồi xuống, tự tay rót một chén trà, lại hỏi thăm về đứa cháu gái lưu lạc bên ngoài của y.
Chuyện đưa người từ cung Triệu quốc về hẳn nhiên không thể giấu giếm. Nếu giờ vì chỉ vì tránh nghi ngờ mà che đậy, sau này có lời đồn không hay, ngược lại khó bề biện giải, chỉ làm mối quan hệ quân thần thêm xa cách.
Nghĩ vậy, Thẩm Kính An đặt chén trà xuống, nói thật: “Thần thay mặt cháu gái Nhị nương của thần cảm tạ Thánh thượng đã quan tâm. Thú thật với Thánh thượng, cháu gái thần hiện đang làm nữ quan trong cung Triệu quốc. Chuyến này thần cũng muốn đón nàng về Ngụy quốc. Nếu Thánh thượng không yên tâm, thần có thể an trí nàng nơi khác, không để nàng ở lại phủ của thần.”
Giang Tiều nghe vậy, có ý ban ơn để hắn một lòng trung thành với Ngụy quốc, bèn nói: “Cháu gái khanh lưu lạc bên ngoài bao năm, hẳn chịu không ít khổ sở. Trẫm sao nhẫn tâm để các khanh chia cắt thân nhân? Nếu Tri Dật tin tưởng nàng, tất nhiên có thể để nàng ở lại phủ chăm sóc.”
Thẩm Kính An vừa nghe xong, lập tức lại muốn quỳ xuống tạ ơn, nhưng Giang Tiều nhanh chóng khoát tay ngăn lại, ra hiệu không cần đa lễ. Sau khi cùng y uống trà, trò chuyện đôi câu, ông ta mới sai nội thị tiễn Thẩm Kính An xuất cung.
Thẩm Kính An ra khỏi hoàng cung, lên ngựa trở về phủ.
Gió xuân về đêm mát lành sảng khoái, Thẩm Kính An thuận tay mở cửa sổ, lấy ra miếng đệm đầu gối do chính tay Lý Lệnh Nghi may, nhìn về hướng núi Kính Đình, ôm chiếc đệm trong tay, vuốt ve hết lần này đến lần khác.
Không hiểu sao, lòng y bỗng bình yên lạ thường. Thậm chí y có một linh cảm rằng, chuyến này trở về từ Triệu quốc, chẳng bao lâu nữa y sẽ gặp được nàng.
Tối đó thu xếp hành trang xong xuôi, sáng sớm hôm sau, trong buổi thiết triều, Giang Tiều ban cho Thẩm Kính An một ngàn tinh binh tháp tùng, hẹn giờ Thìn ngày kế tiếp sẽ cùng khởi hành từ Biện Châu, lên đường đến Lạc Dương bàn chuyện hòa đàm.
Ba ngày sau khi Thẩm Kính An xuất phát, Tống Hành nhận được một phong mật báo.
Mọi thông tin về cuộc đời của Thẩm Kính An, dù nhỏ nhặt đến đâu, đều bị ẩn sĩ đào bới đến tận gốc rễ. So với con đường công danh của hắn, Tống Hành lại quan tâm hơn đến quãng thời gian Thẩm Kính An sống tại Tấn Châu.
Không ngờ, hắn lại chính là cậu của Dương Sở Âm.
Hai người họ tuy không có quan hệ máu mủ, nhưng tình cảm giữa hắn và mẫu thân nàng lại thân thiết như chị em ruột thịt cùng mẹ sinh ra.
Tống Hành không sao dùng lời để diễn tả tâm trạng của mình lúc này.
Bên tai hắn dường như lại vang vọng những lời cay nghiệt mà nàng thốt ra ngày hôm đó: Anh trai nàng từng cứu em trai hắn, còn hắn thì lấy oán trả ân, lại còn cưỡng đoạt nàng.
Còn giờ thì a cữu nàng lại đoạt mạng trưởng tử của hoàng cô hắn…
Đây có tính là báo ứng không?
Tống Hành lặng lẽ đốt tờ thư ấy trên giá nến, vị trí hai bên thái dương bắt đầu co giật.
Nếu nàng biết chuyện này, nhớ lại trên đời mình còn có một người cậu, liệu nàng có bất chấp tất cả mà rời bỏ hắn, rời xa nơi này?
Cơn đau ở trán ngày càng lan rộng. Tống Hành khép mắt đầy thống khổ.
Đây là hoàng thành nước Triệu. Chỉ cần hắn không thả nàng đi, cả đời nàng đừng mong bước ra khỏi thành Tử Vi dù chỉ nửa bước. Hắn thực sự không cần phải lo lắng đến vậy. Nhưng, hắn lại chẳng khống chế được bản thân, không thể ngừng nghĩ đến điều này.
Trên đời này, ngoài nàng ra, không còn ai có thể xoa dịu nỗi đau cùng cảm xúc hỗn loạn trong lòng hắn lúc này.
Cục Thượng nghi.
Thi Yến Vi dùng xong bữa tối, mang một ít công việc còn dang dở trở về phòng xử lý.
Ngòi bút trong tay không ngừng di chuyển, bỗng nghe ngoài bậu cửa sổ truyền đến tiếng mèo kêu.
Nghe tiếng ấy, nàng liền nhận ra đó là con mèo mướp lông vàng hôm nọ.
Nàng liền đặt cây bút lông sói xuống, lấy ra mấy miếng cá khô đã nhờ người ở ngự thiện phòng làm riêng, nhoẻn cười bước ra ngoài.
Dưới ánh trăng, bóng dáng một người một mèo đổ dài trên nền đất.
Thi Yến Vi vuốt ve bộ lông mềm mại của nó, rồi khẽ gãi gãi vùng đầu và phần lông mềm nơi cổ. Con mèo sau khi ăn no liền ở lại lâu hơn thường lệ, để nàng thỏa thích vỗ về.
Phía sau, từ lúc nào đã xuất hiện một bóng người cao lớn. Thi Yến Vi hoàn toàn không hay biết, đợi đến lúc con mèo mướp rời đi, nàng quay người định về, lúc này mới bắt gặp hắn.
Ý cười trên mặt lập tức đông cứng chỉ trong nháy mắt. Thi Yến Vi làm như không thấy, đi thẳng vào phòng.
Tống Hành theo sau nàng bước vào, còn chưa kịp khép cửa, hắn đã nôn nóng ôm chầm lấy nàng từ đằng sau.
Thi Yến Vi vốn cho rằng hắn tìm đến là để phát tiết, tự biết chống cự cũng vô ích, nên chẳng buồn phản kháng, chỉ xem bản thân như một khối gỗ, giọng điệu lạnh lùng: “Thánh thượng làm nhanh cho xong, thần còn công vụ còn chưa xử lý hết.”
“Âm Nương, chỉ cần kỳ hạn năm năm chưa trọn, nàng sẽ không rời khỏi trẫm, đúng không?”
Thi Yến Vi không hiểu tại sao hắn đột nhiên hỏi như vậy. Dù nàng muốn rời đi, nhưng đất dưới chân này chẳng phải vẫn là đất của vương triều hay sao? Không có sự cho phép của hắn, nàng làm sao thoát ra được?
Có lẽ hắn lại phát điên, thay đổi cách thăm dò ý nghĩ chân thật trong lòng nàng. Nàng đành phải tùy tiện đối đáp cho qua, miễn cưỡng thốt ra hai chữ: “Sẽ không.”
“Trẫm đã biết Âm Nương nhất định là người giữ lời, không nỡ đối xử tàn nhẫn với trẫm như thế.” Từng lời của Tống Hành như lời tự nhủ, vừa nói vừa xoay người nàng lại, bế bổng nàng lên, nâng nàng ngang tầm rồi cúi xuống, chiếm lấy phiến môi mềm mại, đỏ như chu sa.
Suốt bốn tháng qua, hắn chịu khó học hỏi, tham khảo không ít sách vở tạp thư, không còn giống như trước đây, chỉ biết dùng sức mà chẳng quan tâm đến cảm nhận của nàng. Giờ đây, hắn làm mọi thứ bài bản hơn, hiếm khi khiến nàng bộc lộ vẻ đau đớn.
Nếu hắn có thể khiến nàng thỏa mãn, thỉnh thoảng nàng cũng sẽ mở lòng từ bi, thưởng cho hắn vài tiếng ngâm khẽ.
Tống Hành đặt nàng lên bàn, rời khỏi đôi môi nàng, rồi cúi người xuống. Sự khô rát trong miệng hắn dịu lại, cơn đau đầu cũng dần thuyên giảm.
Không biết tự lúc nào, cả hai đã nằm trên giường La Hán. Tống Hành ôm lấy nàng, hỏi: “Nếu nàng thích con mèo đó, sao không giữ nó ở viện của mình, như vậy sẽ được gặp nó thường xuyên hơn?”
Đôi mắt Thi Yến Vi phủ một màn sương mờ, hơi thở ngắt quãng, đáp lời từng chút một: “Nó quen tự do ngoài kia rồi. Nếu thực sự muốn ở lại đây, nó tự khắc sẽ không rời đi. Nó không chịu ở, tức là nó không muốn. Ta mà ép buộc, dù lấy danh nghĩa vì nó, cũng chỉ là mặc kệ ý nguyện của nó, thế thì khác nào nhốt nó vào một cái lồng lớn hơn.”
Tống Hành thừa hiểu ý tứ trong lời nói của nàng. Hôm nay nàng chịu nói với hắn nhiều như thế, chẳng qua là mượn chuyện mèo để bóng gió, chỉ trích hành động của hắn mà thôi.
“Âm Nương, trẫm thật lòng thích nàng. Chỉ cần nàng muốn, trẫm có thể lập nàng…”
Nhưng chưa đợi hắn nói hết, Thi Yến Vi đã dứt khoát ngắt lời: “Ta không muốn. Mong Thánh thượng đừng quên giao ước giữa hai ta.”
Hắn cố gắng níu giữ, nhưng thứ muốn giữ lại lại không cách nào giữ được. Ngay nơi lồng ngực, vết sẹo nàng để lại bỗng trở nên ngứa ngáy, đau rát. Tống Hành đặt tay nàng lên vết sẹo ấy, siết chặt eo nàng, nói khẽ: “Được, trẫm giữ lời. Trẫm sẽ không hỏi nữa.”
Bàn tay nàng cảm nhận được từng nhịp tim hắn, bình ổn, vững vàng. Thi Yến Vi thấy phiền, muốn rút tay lại, nhưng Tống Hành cố chấp không cho, còn dùng một tay áp chặt bàn tay mềm mại của nàng, ánh mắt lộ rõ vẻ cầu xin.
“Âm Nương, tin trẫm lần này được không? Trẫm sẽ thay đổi vì nàng. Trẫm sẽ không thua kém Trần Nhượng, mọi điều nàng muốn, trẫm đều sẽ dâng lên bằng cả hai tay.”
Nhịp tim hắn không hề tăng lên, chứng tỏ hắn không hề nói dối. Nhưng điều nàng muốn không phải kỳ trân dị bảo, cũng chẳng phải quyền thế hay danh lợi, mà là tự do, vừa vặn lại thứ hắn không thể cho nàng.
Thi Yến Vi đờ đẫn để hắn giữ tay mình, không đáp một lời.
Khoảnh khắc đó, nàng thoáng thấy trong ánh mắt Tống Hành là vẻ thống thiết, bi thương.
Chỉ là thoáng qua rất nhanh, nhưng nàng biết mình không nhìn nhầm.
Biểu cảm ấy, trước đây nàng từng có vô số lần. Hắn cũng từng thấy, nhưng lại chọn cách ngó lơ, vì thế, điều nàng đáp lại hắn cũng chỉ là sự phớt lờ.
Tống Hành suy nghĩ rối bời, tâm sự nặng nề, nhất thời lơ đãng, phản ứng chậm mất nửa nhịp.
Thi Yến Vi dường như cũng không nhận ra, chỉ đẩy vai hắn, giục hắn mau rời đi.
Tống Hành mặt dày quấn lấy nàng, lại vòng tay ôm lấy lưng nàng, dò hỏi: “Âm Nương, ngày mai không cần thượng triều, trẫm ở lại đây canh giấc cho nàng có được không?”
Thi Yến Vi dần mất kiên nhẫn, đưa tay vỗ nhẹ lên mặt hắn, nuốt lại lời muốn đuổi cổ hắn đi, chỉ nói: “Thánh thượng nếu còn muốn có lần sau, thì tốt nhất đừng nói thêm gì nữa.”
Nói xong, nàng bày ra vẻ ghét bỏ kéo tay áo hắn ra, đứng dậy rời khỏi người hắn.
Tống Hành muốn nói lại thôi, sợ làm nàng phật ý. Mấy ngày nay, khó khăn lắm mới khiến nàng chịu nói nhiều hơn với hắn một chút. Nếu lần sau nàng lại không thèm đoái hoài gì đến hắn, chẳng phải bao công sức đều sẽ đổ sông đổ biển hay sao?
Nghĩ vậy, Tống Hành đành nén lại cơn bực còn chưa kịp bùng phát, quay về điện Triều Nguyên đi thẳng vào phòng tắm, ngâm mình trong nước lạnh, tự tìm cách giải tỏa.
Mấy ngày sau, sứ đoàn nước Ngụy đặt chân đến Lạc Dương.
Lưu Thượng cung vốn có ấn tượng tốt về Thi Yến Vi, nhận xét nàng vừa chịu khó vừa chu đáo, nên việc tiếp đãi sứ đoàn vẫn giao cho nàng cùng Dao Tư tán đồng phụ trách, thêm Dư Tư khách hỗ trợ quản lý và đối chiếu thông tin quan khách.
Hôm sau, dạ yến được tổ chức tại điện Cam Lộ trong cung Thượng Dương.
Cuộc hòa đàm diễn ra khá suôn sẻ. Ước chừng thêm một, hai ngày nữa là hiệp ước có thể ký kết, sơ bộ đề ra là hai bên đình chiến mười năm, mở rộng giao thương.
Thẩm Kính An tự biết công tư không thể lẫn lộn, vì vậy tại Minh Đường, y không nhắc đến Nhị nương trước mặt Tống Hành.
Tuy nhiên, yến tiệc đêm nay không bàn chính sự, lại có quan viên hai nước làm chứng, đây hẳn là thời cơ tốt để đề cập đến chuyện đó.
Từ lời nói đến sinh hoạt hàng ngày của Tống Hành đều được Ký Cư lang ghi chép lại, còn của Thái hoàng thái hậu thì do nữ quan thuộc cục Thượng nghi phụ trách. Theo lý, việc này không cần đến tay Thượng nghi làm. Chẳng qua Nguyễn Tư tịch gặp kỳ nguyệt sự, thân thể không khỏe. Thi Yến Vi thấy vậy liền giúp nàng đảm nhận công việc này.
Nhân lúc Thái hoàng thái hậu chưa lên tiếng, Thi Yến Vi thò nhẹ nửa cái đầu ra từ sau tấm bình phong, nhanh chóng quan sát mọi người trong phòng một lượt, cuối cùng ánh mắt dừng lại trên người Tống Hành.
Hắn vận một bộ cổn phục màu đen tuyền mười hai chương văn, trên đầu đội mũ miện có rèm châu bằng bạch ngọc che khuất nửa khuôn mặt, khiến người ta không nhìn rõ biểu cảm hay dung mạo của hắn. Bộ y phục trang trọng ấy càng tôn thêm vẻ uy nghiêm, không giận tự uy, chỉ cần nhìn thoáng qua cũng khiến người ta sinh lòng áp lực.
Tống Hành chưa bao giờ ăn mặc như vậy trước mặt Thi Yến Vi. Mỗi lần đến tìm, hắn đều thay thường phục và búi tóc gọn gàng, có lẽ vì sợ nàng sẽ thêm phần sợ hãi và kháng cự, khó lòng thích ứng được.
Đôi mắt trong veo của Thi Yến Vi chỉ lướt qua người hắn, dừng lại trên bộ cổn miện đế vương mới tinh, rồi chẳng còn hứng thú nhìn thêm. [1]
[1]
[1] Cổn Miện (袞冕), hay Miện phục (冕服) là lễ phục cao cấp nhất dành cho nam giới ở Đông Á cổ đại. Nó chủ yếu bao gồm “quan” (冠, vương miện), “thượng y” (上衣, áo khoác, thường là màu đen), “hạ thường”(下裳, váy dưới, màu đỏ nhạt), cũng như các thành phần pha phụ kiện khác. Nguồn chú thích: Wikipedia.Thái hoàng thái hậu ngồi bên trái Tống Hành, dáng vẻ từ bi hiền hậu, che giấu rất khéo cảm xúc bên trong. Trong lòng bà vẫn ôm hận vì Thẩm Kính An đã lấy mạng Tiêu Thừa Sách, nhưng để giữ gìn đại cục, bà không thể biểu hiện chút tiêu cực nào ra ngoài.
Thi Yến Vi dõi theo từng lời nói, hành động của Thái hoàng thái hậu, lòng chợt nhớ lại mấy ngày trước bà vì đau lòng quá độ mà nằm liệt trên giường. Nay phải đối diện với người đã giết cháu trai mình, mà vẫn có thể tỏ ra hòa nhã như thế, quả thực không dễ dàng gì.
Sau một lát, từ trên đại điện truyền đến tiếng đối thoại giữa Tống Hành và sứ thần nước Ngụy. Sau khi đôi bên trao đổi, Thái hoàng thái hậu nhẹ nhàng mỉm cười, nhắc đến việc Cao Tổ hoàng đế và Thánh nhân nước Ngụy từng là đồng liêu, rồi hỏi thăm Thánh nhân nước Ngụy hiện nay có được mạnh khỏe hay không.
Thi Yến Vi cầm bút chấm mực, ghi chép lại từng lời nói và hành động của Thái hoàng thái hậu lên tờ giấy Tuyên Thành.
Sứ thần nước Ngụy đáp lại, rồi một nam lang khoác trường bào cổ tròn màu đỏ tía đứng dậy, khom tay hành lễ với Tống Hành.
“Mỗ có một cháu gái lưu lạc nhiều năm ở nước Triệu, nay đã ở trong thành Tử Vi của Thánh nhân. Kính xin Thánh nhân khai ân, cho phép mỗ đưa nàng về nước Ngụy.”
Lời vừa dứt, sắc mặt Tống Hành lập tức lạnh đi. Bàn tay lớn giấu dưới ống tay áo rộng siết chặt thành quyền, hiển nhiên không ngờ rằng sau bao năm, đối phương vẫn còn nhớ đến nàng, thậm chí không tiếc hao tổn sức người sức của để tìm bằng được tung tích nàng.
Thi Yến Vi không hề biết cháu gái mà đối phương nhắc đến chính là nàng. Nàng chỉ coi đây như một câu chuyện tìm thân nhân, thầm cầu mong cô gái kia quả thực đang ở thành Tử Vi, để có thể sớm ngày đoàn tụ với gia đình, không phải cô độc trong thâm cung làm nô tỳ nữa.
Thái hoàng thái hậu cũng không ngờ cháu gái mà người kia nhắc tới lại chính là Dương nương tử, người khiến Nhị lang của bà mê mẩn. Thấy Tống Hành mãi không trả lời, bà còn tưởng rằng hắn không muốn bận tâm đến những chuyện lặt vặt trong cung, bèn tạm thời đè nén sát tâm đối với kẻ bên dưới, làm bộ ôn hòa, nói:
“Huyết thống tình thâm không thể đoạn tuyệt. Nếu đúng như Vũ An hầu nói, cháu gái đáng thương của ngươi thực sự đang ở trong thành Tử Vi, lão thân sẽ cho phép nàng theo ngươi, hồi hương về nước Ngụy.”
“Không được!” Tống Hành bất ngờ quát lớn, ánh mắt sắc bén nhìn chằm chằm đối phương, giọng nói trầm lãnh, cứng rắn, tựa như đối phương đã chạm đến giới hạn của hắn.
Nếu không phải vì Tống Hành phản ứng mạnh mẽ đến như vậy, có lẽ Thẩm Kính An vẫn chưa dám chắc Tống Hành có ý chiếm giữ Nhị nương. Nhưng nay hắn lại bộc lộ sự nóng nảy trước mặt mọi người, điều này gần như khẳng định hành vi tội lỗi mà hắn phạm phải đối với Nhị nương.
Nhị nương chắc chắn không tự nguyện ở lại bên hắn, nếu không, hắn cần gì phải sợ nàng rời đi cùng người thân?
Thẩm Kính An nghĩ đến khả năng cao là Nhị nương đã bị tên súc sinh này chiếm đoạt, ngọn lửa giận trong lòng bừng lên mãnh liệt. Nhưng vì thể diện của hai nước, y tạm thời không vạch trần: “Cháu gái của mỗ đã mất cha mẹ, không có huynh trưởng, cũng không được trưởng bối quan tâm. Đương nhiên phải theo mỗ trở về. Trên đời lẽ nào lại có chuyện chia rẽ cốt nhục tình thân? Huống hồ, Trung Nguyên xưa nay trị quốc bằng chữ hiếu. Vừa rồi Thái hoàng thái hậu cũng đã đồng ý, sao Thánh thượng lại trái ý Thái hoàng thái hậu, chẳng lẽ là muốn xem nhẹ đạo hiếu sao?”
Thấy hai người đang ở thế giương cung bạt kiếm, lúc này Thái hoàng thái hậu mới cảm nhận được vấn đề. Đôi mày điểm bạc của bà khẽ nhíu lại, giọng trầm xuống, đứng ra hòa giải: “Thánh thượng! Thánh thượng có lẽ là uống nhiều rượu rồi. Người đâu, đi nấu canh giải rượu đưa tới.”
Vừa nói, Thái hoàng thái hậu vừa quay sang nhìn Thẩm Kính An, như muốn xác nhận điều gì, rồi bình tĩnh hỏi: “Không biết cháu gái mà Vũ An hầu nhắc đến họ tên là gì? Năm nay bao nhiêu tuổi? Sinh ngày tháng nào?”
“Khởi bẩm Thái hoàng thái hậu, cháu gái của mỗ họ Dương, tên là Sở Âm, xếp thứ hai trong nhà, hai mươi mốt tuổi, sinh ngày hai mươi mốt tháng ba. Quê ở Hoằng Nông, năm sáu tuổi phụ thân qua đời, theo mẫu thân về ở nhà mẹ đẻ tại Tấn Châu. Ba năm sau, mỗ rời nhà nhập ngũ. Theo mỗ điều tra, một năm sau khi mỗ rời nhà, a tỷ mang Nhị nương đến Văn Thủy mưu sinh. Cho đến năm ngoái, nàng nhập cung Triệu quốc làm nữ quan, chính là Dương Thượng nghi ở cục Thượng nghi hiện nay.”
Những lời của hắn như sấm sét vang vọng trong đầu Thi Yến Vi, khiến nàng lòng dạ dậy sóng. Mọi thứ xung quanh dường như lặng đi, chỉ còn giọng hắn văng vẳng bên tai.
Hắn chính là cậu của nguyên thân. Hắn muốn đưa nàng rời khỏi nước Triệu, đến sống tại nước Ngụy.
Năm ngoái nước Ngụy chiếm được Tuyên Hấp, hiện nay Tuyên Hấp đã thuộc về nước Ngụy.
Nếu nàng có thể theo cậu của nguyên thân trở lại nước Ngụy thì sẽ có cơ hội đến Tuyên Châu tìm công chúa Tuyên Thành, Lý Lệnh Nghi.
Cảm xúc bùng nổ khiến nàng gần như quên mất việc lắng nghe những lời tiếp theo của Thái hoàng thái hậu.
Chỉ mơ hồ nghe được Thái hoàng thái hậu sai người đi tìm nàng.
Nhưng ngay khoảnh khắc tiếp theo, Tống Hành vốn đang ngồi ngay ngắn trên long ỷ đột nhiên giống như mất trí, lớn tiếng quát, ngăn lại cung nhân.
“Không được đi! Không có trẫm…”
Lời hắn còn chưa dứt, từ sau bình phong vang lên một giọng nữ trong trẻo.
“Thái hoàng thái hậu không cần sai người nữa, Dương thị Sở Âm đang ở đây.”
Thi Yến Vi bước ra từ sau bình phong, chậm rãi đến trước mặt Thẩm Kính An. Như người sắp chết đuối vớ được cọng rơm, nàng lập tức khom mình hành lễ, gọi một tiếng:
“A cữu.”
Nàng xuất hiện ở đây từ khi nào?!
Ngọn lửa giận dữ bùng lên dữ dội, khiến đầu Tống Hành như muốn nổ tung. Hắn giận đến phát cuồng, bàn tay trái đặt lên chuôi kiếm, định đá tung án thư trước mặt, trực tiếp lao đến giết chết Thẩm Kính An.
Thái hoàng thái hậu kịp thời quát lớn, ngăn hắn lại, Trương nội thị phía sau cũng nhận ra tình hình không ổn, vội vàng bước tới giữ chặt tay Tống Hành. Người trong đại điện ai nấy đều cảm nhận được sát khí tỏa ra từ vị hoàng đế trẻ tuổi, băn khoăn liệu có nên tìm cớ nhanh chóng rời khỏi nơi này. Lúc này, Thái hoàng thái hậu đứng chắn trước mặt Tống Hành, nói với các quan thần: “Vũ An hầu tìm lại cháu gái đã thất lạc nhiều năm, quả là chuyện đáng mừng. Chư vị nếu đã dùng đủ rượu thịt, không còn chuyện gì cần bàn thì dạ yến hôm nay đến đây là kết thúc, mời về cho.”
Chúng nhân như được đại xá, lập tức hành lễ lui ra, đè nén nỗi sợ trong lòng, lần lượt rời khỏi đại điện.