Sau bữa trưa, họ thong thả đi bộ tới trường tiểu học của Ôn Thư Bạch.
Vì trường Nhị Trung vốn là trường cấp hai liên thông với tiểu học ấy nên khoảng cách giữa hai nơi cũng không quá xa.
“Không lẽ ở trường tiểu học em cũng có bí mật gì? Đừng nói là đã bắt đầu thầm thích bạn trai từ hồi đó nha?”
“….”
Ôn Thư Bạch liếc anh một cái, tức thì giơ tay đấm cho một cú.
Cố Thư Trì lại càng phấn khích: “Đừng nói là anh đoán trúng rồi đấy?”
“Nếu người đó không đẹp trai bằng anh thì anh sẽ buồn lắm đấy, vì từ nhỏ anh đã vừa bảnh trai lại vừa đáng yêu rồi.”
Thêm một cú đấm nữa.
“Đồ tự luyến. Mặt trắng như ma cà rồng.”
Ôn Thư Bạch lẩm bẩm, nhìn làn da trắng bóc của anh mà thật sự không tìm ra từ nào khác để miêu tả.
Nói rồi cô hất tay anh ra, giả vờ giận dỗi mà bước nhanh về phía trước.
Cố Thư Trì chỉ cần vài bước đã đuổi kịp, vẫn cười hề hề rồi lại nắm lấy tay cô: “Đừng đi nhanh thế chứ, chân anh ngắn không theo kịp đâu.”
Ôn Thư Bạch nghe vậy thì bật cười, định quay lại lườm anh một cái nhưng thấy gương mặt ngốc nghếch đang chờ mình nguôi giận thì lại chẳng nỡ.
Thế là họ tiếp tục nắm tay nhau, đi dọc theo con đường lát đá xưa cũ.
“Em nhớ anh từng nói hồi nhỏ rất được mèo yêu quý.”
“Không lẽ sau lưng em còn nuôi con mèo nào khác nữa hả?”
“Không có, chỉ có mình anh là mèo của em.”
“Vậy thì tốt.”
Nghe có vẻ trẻ con thật, nhưng Ôn Thư Bạch vẫn chiều theo cuộc nói chuyện của anh.
Cô dắt anh đi đến cổng trường. Trường tiểu học này nhỏ hơn trường Nhị Trung một chút. Là trường trong khu dân cư nên toàn dựa vào ngân sách nhà nước, vì vậy cơ sở vật chất cũng chẳng có gì gọi là khang trang. Dù vậy, tường ngoài trông có vẻ đã được sơn sửa lại, cả sân chơi từng lồi lõm giờ cũng thay bằng cỏ nhân tạo và đường chạy mới tinh.
Người ta vẫn nói: “Trường học cứ đợi học sinh tốt nghiệp là được tu sửa”, quả không sai.
Bảo vệ ngồi gật gù buồn ngủ ở cổng, còn cánh cửa xếp thì ngăn họ ở bên ngoài.
Ôn Thư Bạch không lưu số điện thoại của thầy cô nào nên cũng chẳng có ai để nhờ vào cho họ vào trong.
Nhưng trường nhỏ nên chỉ đứng từ ngoài cổng thôi cũng có thể nhìn thấy lũ học trò đang reo hò chạy nhảy trong giờ thể dục.
“Thật ganh tỵ, tụi nhỏ nhìn ai cũng trẻ trung quá.”
Cố Thư Trì nhìn những bóng dáng kia mà buột miệng cảm thán.
“Em thì không ganh tỵ. Em thích bản thân mình của hiện tại hơn.”
Dù cuộc sống bây giờ chẳng phải tốt đẹp gì, nhưng ít ra cô không còn phải đối mặt với tuổi thơ luôn chìm trong mưa gió ấy nữa.
“Hồi đó bố mẹ em chẳng mấy quan tâm, chưa từng đi họp phụ huynh lần nào. Trong lớp có đứa lên tiếng bảo em là đứa không cha không mẹ, giống trẻ mồ côi.”
“Ban đầu em vốn không phải người nhút nhát hay sợ phiền phức nên đã cãi tay đôi với cậu ta, còn làm ầm đến tai cô chủ nhiệm.”
“Em cứ nghĩ mấy bạn trong lớp sẽ bênh em, ai ngờ không chỉ họ bênh cậu ta mà cả cô chủ nhiệm cũng đứng về phía cậu ta. Cô gọi em vào văn phòng chỉ để yêu cầu em nhẫn nhịn bỏ qua.”
Cô thấy chuyện đó thật nực cười, nhưng hồi ấy mãi vẫn không hiểu tại sao mọi chuyện lại thành ra như vậy.
Mãi cho đến một ngày nọ, cô thấy một chiếc xe hơi dừng lại trước cổng trường. Đứng trước cửa xe là một người đàn ông và một người phụ nữ ăn mặc chỉnh tề, họ đang nói chuyện với cô giáo chủ nhiệm.
Cửa sau xe mở toang, bên trong có người đang ngồi.
Cô tò mò bước lại gần xem thì phát hiện người đó chính là thằng bé đã lan truyền tin đồn về cô. Cùng lúc ấy, cậu ta cũng vừa ngẩng đầu nhìn về phía cô.
Đến tận bây giờ, cô vẫn còn nhớ ánh mắt đó.
Cái kiểu nhìn khinh khỉnh, lạnh lùng và đầy miệt thị ấy… lại xuất hiện trên gương mặt của một đứa bé chỉ mới mười tuổi.
Ngay khoảnh khắc ấy, cô sợ hãi đến mức quay đầu bỏ chạy, cứ thế chạy mãi.
Cô chạy đến khi nghĩ rằng chắc đã thoát khỏi ánh mắt đáng sợ ấy, nhưng rồi bên tai lại vang lên tiếng ai đó gọi tên cô.
Cô hoảng hốt quay đầu lại thì thấy chiếc xe hơi ban nãy chạy ngang qua. Cửa kính sau hạ xuống một nửa, thằng bé ngồi trong xe mỉm cười khinh bỉ rồi gọi tên cô.
Lúc đó gió rất lớn, đến mức cô chẳng nghe rõ cậu ta nói gì, nhưng ngay khoảnh khắc xe chạy lướt qua, cô lại nhìn rất rõ khẩu hình miệng của cậu ta:
“Mồ-côi-”
“Tôi không phải là trẻ mồ côi!”
Cô gần như hét lên bằng tất cả sức lực gào về phía cậu ta.
Nhưng tất cả những gì còn lại chỉ là bụi đất tung lên dưới bánh xe.
Chân người thì sao có thể chạy nhanh hơn xe hơi được chứ?
“Em không muốn quay lại nữa. Em không muốn bị gọi là đứa mồ côi thêm lần nào.”
Cô thật sự không chịu nổi cái cảm giác bị bỏ rơi, bị cả thế giới quay lưng ấy nữa.
Nhưng rồi khi lớn lên, cô lại nhận ra cuộc sống của mình… có khác gì trẻ mồ côi đâu? Không cha đoái hoài, không mẹ yêu thương.
Cố Thư Trì liền vòng tay ôm lấy cô, nhẹ nhàng vuốt tóc phía sau đầu cô:
“Em không phải. Em không phải mà.”
“Sau này em sẽ không còn một mình nữa.”
Như vừa tỉnh lại sau một cơn ác mộng kéo dài, Ôn Thư Bạch gục vào lòng anh, th* d*c từng hơi từng hơi.
Một lúc sau, Cố Thư Trì khẽ hỏi: “Vậy còn chị gái em thì sao? Anh nhớ em từng nói chị ấy lấy chồng rồi sang nước ngoài sống?”
Ôn Thư Bạch khẽ động đậy trong lòng anh, rồi ngẩng đầu lên: “Thật ra, tụi em đã nhiều năm không gặp nhau rồi. Lúc đó chị ấy giúp em trả tiền, nhưng chưa bao giờ đòi lại. Bao năm nay chị gần như không về nhà, em thậm chí còn không biết phải liên lạc với chị ấy bằng cách nào.”
Gần như là không có người chị ấy tồn tại vậy.
“Nhưng em không trách chị ấy đâu.”
“Em vẫn nhớ hồi đó lúc chị ấy đang kéo hành lý ra khỏi nhà, lại trùng hợp gặp em đang từ ngoài vào. Chị kéo em ra một góc rồi nói vài câu.”
“Chị nói, nếu có thể đi xa thì hãy đi cho thật xa.”
“Bởi vì bố mẹ em muốn sinh con trai, nhưng kết quả lại sinh ra hai đứa con gái. Ban đầu còn định đem cho người ta, sau đó bị trả về.”
Hồi đó, Ôn Thư Bạch còn ngơ ngác. Chị cô nói sắp phải đi sân bay, không có nhiều thời gian để nói thêm, chỉ bảo rằng mình sẽ đến một nước tên là Bỉ.
“Chị ấy nhét cho em một mảnh giấy, trên đó có mấy dòng tiếng Anh dài loằng ngoằng với một dãy số điện thoại. Em còn chẳng biết Bỉ là nước nào, nhưng vì chị đã nói thế nên em cố ghi nhớ. Vậy nên hôm đó thấy anh cầm chai bia kia, em mới nhận ra chữ tiếng Anh đó.”
“Mảnh giấy đó đã bị bố mẹ em vứt từ lâu rồi. Thành ra bao nhiêu năm nay em cũng không liên lạc được với chị ấy. Cũng không biết chị giờ sống sao. Nhưng bỏ được một cái gánh nặng lớn như tụi em chắc là tự do lắm.”
Cô từng rất khao khát cái nơi đó, cứ nghĩ nơi mà chị gái đã chọn để đi hẳn là tốt lắm. Nếu không thì sao chị ấy lại lấy một người đàn ông nước ngoài tóc vàng, râu rậm?
Chỉ là cô không có bản lĩnh đó nên mới phải đi vòng vòng, tìm cách tránh xa chính gia đình của mình.
Biết bao chiếc ly, chai bia, khung ảnh bị đập vỡ suốt những năm qua, tất cả đều có liên quan đến hai chị em.
Nhưng đến hôm nay, cô không còn muốn truy cứu gì nữa. Chuyện đã qua rồi thì cứ để nó qua. Cô cũng đã bước ra khỏi nó rồi.
“Ở cái trường tiểu học này cũng có không ít chuyện từng xảy ra.”
Ngoài những chuyện đó ra, còn có chuyện đàn mèo hoang từng bị đuổi sạch mà cô đã kể.
Trên thế giới này có quá nhiều sinh linh vô tội đáng thương, nhiều đến mức đôi khi cô không biết là do mình quá đa sầu đa cảm hay thực sự quá nhiều lòng trắc ẩn.
Quá nhiều con người bình thường sống cuộc đời như cỏ rác, vô giá trị trước quyền lực, giống như những con mèo hoang ấy, chỉ có thể mặc cho người ta quyết định số phận.
Chỉ vì một cái vung tay của kẻ có thế, sinh mạng của chúng nhẹ như lông hồng.
Giống như cô và Trình Quản Nguyệt.
Có những chuyện do số phận sắp đặt, nhưng đôi khi còn không bằng một câu nói của người có địa vị.
Ví dụ như Chu Chính Dương, người đến giờ vẫn bặt vô âm tín.
Trên đường về, trong xe bỗng chốc trở nên im lặng, Cố Thư Trì trở nên nghiêm túc lạ thường.
“Anh thấy em thật sự là một người rất phi thường.”
Ôn Thư Bạch quay đầu lại nhìn, trời đông đã sớm tối, nửa khuôn mặt anh ẩn trong bóng tối.
“Em có thể lớn lên an toàn trong hoàn cảnh như vậy, thật sự rất đáng khâm phục.”
“Nhưng đến giờ em chẳng làm được gì cả. Em đâu có giỏi giang như anh, trẻ tuổi mà đã có bao nhiêu thành tựu…”
Nói đến đây, cô lại nhớ tới những năm tháng không mấy sáng sủa của anh.
Thật ra, anh cũng chẳng dễ dàng gì hơn cô.
Cô đành quay lại nói chuyện của mình: “Nếu lúc đó em không gặp được anh, chắc giờ em cũng chẳng biết phải ăn gió Tây ở đâu rồi.”
Cố Thư Trì bật cười: “Không có thành tựu thì sao? Sống khỏe mạnh, sống được đến bây giờ đã là một điều tuyệt vời rồi. Em còn trẻ mà, còn cả một tương lai dài phía trước.”
“Không nghe chị Quản nói sao? Chị ấy đã ổn hơn, em cũng vậy, sau này sẽ càng tốt hơn nữa, đừng lo.”
“Mấy chuyện đó cũng không phải là chuyện gì to tát cả.”
Lúc này Ôn Thư Bạch thấy mắt mình hơi nhòe. Những lời này mà phát ra từ miệng anh đúng là một điều kỳ diệu.
Đời người trải qua bao giông tố, biết kể sao cho hết bằng đôi ba câu?
Nhưng đến lúc mọi chuyện thực sự trôi qua, quay đầu nhìn lại có lẽ chỉ cần vài lời là đủ.
Cũng không phải chuyện gì to tát cả.
Có lẽ trước đây, cô và anh đứng trước những thử thách của cuộc đời, chưa từng nghĩ rằng sẽ có một ngày có thể nhẹ nhàng nói ra như thế.
Nhưng giờ thì khác rồi.
Dù tương lai vẫn còn nhiều gian nan nhưng không sao cả.
Ít nhất từ giây phút này, tay họ đã nắm chặt lấy nhau, đủ để trao cho nhau dũng khí, cùng nhau bước đến ngày mai, rồi cả những ngày mai sau nữa.
Anh xoay vô lăng, quẹo một khúc cua, rồi đổi chủ đề khác:
“Hôm đó mình đi chùa thắp nhang, anh có nghe một câu thấy rất có lý.”
Cố Thư Trì nghiêm túc kể chuyện cho cô nghe.
Năm đó, Cố Thư Trì hai mươi tuổi, một mình sang Đông Nam Á du lịch chỉ để tìm một nơi thư giãn, tĩnh tâm lại.
Ở đó, anh thuê một người bản xứ biết tiếng Anh làm hướng dẫn viên.
Người này không có tên tiếng Anh, vậy nên Cố Thư Trì căn cứ vào cách phát âm tên của anh ta mà gọi là Lin.
Lin là một người đàn ông da ngăm, tóc xoăn, khuôn mặt hiền hòa, cách ăn nói rất có giáo dưỡng. Dù tiếng Anh của anh mang chút giọng địa phương nhưng không hề gây trở ngại khi giao tiếp với Cố Thư Trì.
Vốn dĩ Thư Trì cũng không quá hứng thú với những gì Lin giới thiệu, anh chỉ loanh quanh tự khám phá. Gặp chỗ nào không hiểu thì mới quay sang hỏi Lin. Những phần giới thiệu về văn hóa cổ hay tôn giáo thì anh lại càng không mấy quan tâm.
Ban đầu, anh chẳng tin vào Phật pháp. Nhưng Lin nói ở đây có một ngôi chùa rất linh thiêng, suốt dọc đường cứ kiên nhẫn khuyên anh ghé thăm.
Anh nói rằng bất cứ ai đến đó cũng có thể tìm ra lời giải cho những vướng mắc trong cuộc sống.
Bị Lin thuyết phục mãi, Cố Thư Trì vốn định ra biển lên tàu du ngoạn nhưng rồi đổi kế hoạch, rẽ hướng đến ngôi chùa kia.
Chùa rất rộng, khách đến lễ bái nối đuôi nhau không dứt. Lin mua vài nén hương và vài cây nến, bảo anh vào khấn lễ một chút cũng được.
Nhưng lúc đó anh thật sự không hứng thú với mấy chuyện tâm linh, liền tìm cớ từ chối, để Lin thay anh dâng hương.
Lin là người rất sùng đạo, vậy nên còn bỏ thêm tiền mua nhiều hương hơn, từ tượng Phật ở chính điện bắt đầu quỳ xuống, vái lạy từng bàn một, định lễ hết cả chùa.
Còn Cố Thư Trì thì tự mình đi dạo quanh xem thử.
Lúc đi đến một khu vực, anh bất chợt nghe thấy vài câu tiếng Trung, rồi là tiếng bàn tán râm ran.
Anh theo phản xạ quay đầu lại, thấy đó là một đoàn du lịch. Dẫn đầu là một cô gái trẻ nói tiếng Trung rõ ràng.
Khi ấy cô vừa vẫy lá cờ nhỏ trên tay, vừa dẫn mọi người đi ra cửa, vừa tổng kết lại chuyến tham quan ngôi chùa này.
Chính lúc đó, Cố Thư Trì nghe thấy cô ấy nói một câu như thế này:
“Đức Phật Thích Ca từng nói: Dù bạn gặp ai, đó cũng đều là người bạn cần gặp trong cuộc đời này. Không phải ngẫu nhiên đâu, họ chắc chắn sẽ dạy cho bạn điều gì đó.”
Lúc ấy, anh không mấy để tâm.
Sau đó, vì đợi Lin dâng hương nên anh lỡ mất chuyến tàu theo đúng lịch trình, Cố Thư Trì đành mua lại vé cho ngày hôm sau.
Tối hôm đó, khi vừa quay về khách sạn, anh bất ngờ nhận được tin nhắn từ giáo sư hướng dẫn. Ông rất lo lắng hỏi anh có sao không.
Anh ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì, vừa định nhắn lại bảo mình vẫn ổn thì giáo sư liền gửi ngay cho anh một bản tin - tin về một vụ tàu du lịch chìm, xảy ra đúng thành phố nơi anh đang ở.
Anh sững sờ nhìn chằm chằm vào màn hình, rồi lôi vé tàu đã mua từ sáng ra, đối chiếu từng con số.
Anh không tin vào mắt mình, phải nhìn đi nhìn lại đến ba lần, đối chiếu từng chữ cái, từng số.
Mọi thông tin trên vé trùng khớp hoàn toàn với chiếc tàu gặp nạn trong bản tin.
Bản tin viết rằng: Có hai hành khách may mắn thoát chết vì chưa kịp lên tàu. Còn những người khác thì người chết, người mất tích.
Anh rùng mình, nhớ lại suốt dọc đường Lin đã ra sức khuyên anh đổi kế hoạch.
Sáng hôm sau, anh nhận được một khoản hoàn tiền.
Bên công ty thông báo rằng vì sự cố nghiêm trọng, toàn bộ khu vực đã bị phong tỏa, hai vé anh mua cũng được hoàn lại.
Lin gọi điện đúng giờ hẹn, hỏi anh đã thức chưa, giọng vẫn bình thản như không hề biết chuyện gì.
Cố Thư Trì lập tức chạy ra khỏi khách sạn, nắm chặt lấy tay Lin, liên tục hỏi anh ta có biết hai người may mắn sống sót chính là họ hay không.
Khi ấy Lin chỉ nhẹ nhàng đáp bảo rằng mình đã biết từ lúc xem tin tức ngày hôm qua.
Vì thế, anh quay lại ngôi chùa, thức trắng cả đêm bên trong để tạ ơn Trời Phật đã cứu sống họ.
Cũng vào ngày hôm đó, lần đầu tiên trong đời Cố Thư Trì chủ động mua cả bó hương lớn, trở lại trước chính điện cúi đầu bái lạy.
Lin lại cùng anh lễ đủ cả các bàn thờ.
Nói rằng: Phải cảm ơn vì đã vượt qua kiếp nạn, tránh được một lần sinh tử.
Hôm rời đi, Lin tiễn anh ra sân bay.
Trên đường, Cố Thư Trì bỗng nhớ đến câu nói hôm trước nghe trong chùa, liền dịch sang tiếng Anh rồi hỏi Lin có tin vào điều đó không.
Lin suy nghĩ rất lâu, lâu đến nỗi khiến Thư Trì tưởng mình dịch sai hoặc anh ta không hiểu.
Cho đến khi gần bước qua cổng an ninh ở sân bay, Lin mới trả lời:
“Tôi luôn tin rằng mọi cuộc gặp gỡ trên đời đều có ý nghĩa. Dù lúc đó bạn chưa hiểu người kia đã dạy bạn điều gì thì rồi một ngày nào đó bạn cũng sẽ nhận ra.”
…
Giờ đây, Cố Thư Trì lặp lại nguyên vẹn câu nói đó, kể lại với Ôn Thư Bạch:
“Hôm đó ở chùa, anh nghe được một câu mà anh thấy rất có lý. Cô gái kia nói: Đức Phật Thích Ca từng nói, dù em gặp ai thì người đó cũng là người em nên gặp trong cuộc đời này. Không phải ngẫu nhiên đâu - họ sẽ dạy cho em một điều gì đó.”
“Cho nên đừng nói mấy câu như ‘là vì em gặp anh nên em mới thế này thế kia’.”
“Vì nếu năm ấy không gặp em thì cũng sẽ chẳng có anh của ngày hôm nay và em của bây giờ.”
Cuộc đời cùng lắm cũng chỉ là hành trình để hai con người cùng nhau trưởng thành.
May mà sau những đoạn ký ức tăm tối ấy, họ lại một lần nữa gặp lại nhau dưới ánh mặt trời.
Anh dừng xe trước căn biệt thự, nhẹ nhàng nắm lấy tay cô:
“Mọi cuộc gặp gỡ đều có ý nghĩa.”
“Câu đó lần này đến lượt anh nói.”
Trong những nơi mà họ chẳng thể nhìn thấy, vận mệnh vẫn đang lặng lẽ sắp đặt để họ có thể gặp lại. Mỗi cuộc hội ngộ trong đời đều là một lời chúc phúc đã được chuẩn bị từ rất lâu.
Anh nâng tay cô lên, hôn nhẹ lên mu bàn tay lạnh giá kia:
“Là anh phải nói... may mắn vì đã gặp được em.”
(Hoàn chính văn)