Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm

Chương 115

 27.5 

Lục Thư Thanh đứng trong thư phòng của mẹ, sững người nhìn chằm chặp vào tấm biển "Tùng Phong Tuyết Nhất Âu" được viết bằng Khứ Hà thể.

 

Cuốn sách úp trên bàn vẫn dừng lại ở trang mà mấy hôm trước cậu đang đọc dở, bên dưới có một xấp giấy dày, đó là đề bài lần trước Trương Thái phó giao cho cậu ở Lan đài, Lục Thư Thanh chỉ mới viết được quá nửa, vừa vô thức cầm bút định viết tiếp, cậu đột nhiên khựng lại, cảm thấy hơi mơ hồ, cậu viết xong rồi phải đưa cho ai xem đây?

 

Hàn Lâm viện, Quốc Tử Giám có rất nhiều bậc học giả thông thái uyên thâm, tùy tiện chọn lấy một người, cũng chẳng có ai dám không run rẩy dè dặt mà phê xét bài văn của thế tử.

 

Nhưng Trương Thái phó sẽ không bao giờ xem nữa.

 

Lục Thư Thanh quay mặt nhìn ra ngoài cửa sổ, cặp câu đối treo trên cột trước cửa Đông sương phòng ở đối diện chính là chữ viết của Trương Diên, nét chữ trầm ổn, ngay ngắn chẳng hề giống với Khứ Hà thể chút nào. Bởi vì phủ Chiêu Vương xây trước, còn mẹ cậu vào phủ sau, thế nên trong nhà ngoại trừ Y Bích đài và thư phòng này, chữ của những tấm biển treo trên các cổng sân đều là do Trương Thái phó đề bút, để bày tỏ lòng kính trọng, bao năm nay chỉ sửa chữa và sơn lại, chưa từng thay đổi hay gỡ xuống.

 

Cũng không biết sau này có thay hay không nữa... Cậu đã sắp phải dọn ra khỏi nhà rồi, hạ nhân đang thu dọn những vật dụng thường dùng, chuẩn bị cùng cậu chuyển vào Đông cung.

 

Khi dọn dẹp tủ, thị nữ tìm thấy tập tranh mà năm ngoái Ninh Ninh tặng cho cậu nhân ngày sinh nhật, được mẹ cậu đặt tên là "Thỉnh thoảng thấy anh" — bèn hỏi: "Thế tử, tập tranh này có cần xếp vào rương sách cho người không?"

 

Lục Thư Thanh bước tới, cầm lấy tập tranh với những trang giấy đã hơi nhàu vì bị lật giở quá nhiều lần, ánh mắt rơi trên lời bạt do Trương Thái phó đề mà cậu đã thuộc nằm lòng ở trang cuối. Lời bạt ngắn gọn mà súc tích, bất kể là tranh, tác giả hay nhân vật trong tranh, Trương Diên đều đối xử như một độc bản chính thức, thậm chí còn nghiêm túc hơn cả lời tựa mà Lục Thư Ninh tự viết. Ông khen ngợi Lục Thư Ninh nắm bắt thần thái nhân vật một cách chính xác, khen bố cục và sự tinh luyện ý tưởng trong tranh của em, cũng nhắc tới tình thân đầm ấm lan tỏa trên từng trang giấy.

 

Khi anh em cậu chạy đến Lan đài, nài nỉ Trương Diên viết lời bạt cho tập tranh này, vị Thái phó đầu tóc bạc trắng đã híp đôi mắt mờ, ngồi trước bàn nghiêm túc lật giở, ngắm nghía từng bức tranh một.

 

Khi đó, cậu không ngờ Trương Diên có thể b*n r* một mũi tên nhanh và chuẩn xác như vậy.

 

Lục Thư Thanh buông lỏng tay, quyển sách theo quán tính tự động lật về phía trước vài trang, dừng lại ở một bức tranh vẽ cậu và cô của cậu: Lục Lệnh Chân và cậu sóng vai cưỡi ngựa, bỏ lại phía sau cả một rừng đào nở bạt ngàn trên mỏm Yến Tử.

 

Cậu thẫn thờ nhìn khung cảnh ấy rất lâu, rồi lại lật về trang cuối cùng nơi có lời bạt của Trương Diên, sau đó không do dự xé ra, đưa đến chỗ tim nến, đốt đi sạch sẽ.

 

Khi Tạ Cánh tỉnh lại, hiện ra trước mắt chính là chóp màn lạ lẫm, còn chưa lấy lại ý thức, y đã nghe thấy tiếng Lục Thư Ninh hốt hoảng kêu lên: "Mẹ!"

 

Em đang ghé vào sát bên giường, khoanh tay lật xem một tập tranh về hoa cỏ rất dày. Tạ Cánh nhìn thấy con gái, lập tức quên cả hỏi chuyện bản thân đang ở đâu, chỉ cau mày v**t v* gương mặt em: "Sao con gầy đi rồi?"

 

"Gần đây đều ở trong cung, không thể tùy ý ăn thêm thức ăn hay bánh ngọt mọi lúc như ở nhà, huống chi còn phải đến điện Minh Loan vấn an, đến viện tranh đọc sách, đến Lan đài tìm anh đều phải đi cả một quãng đường dài, ăn thì ít vận động thì nhiều, gầy đi cũng là chuyện thường thôi mà mẹ."

 

Tạ Cánh chậm rãi hỏi: "... Mẹ đang ở trong cung sao?"

 

Lục Thư Ninh gật đầu: "Dạ, mấy ngày nay mẹ vẫn luôn nghỉ ngơi ở thiên điện điện Thần Long, con nghe cung nhân nói là cha đã bế mẹ đến đây đó."

 

Màu lông mày của em đậm hơn Lục Thư Thanh một chút, lại thừa hưởng đôi mắt trái vải của mẹ, khi cau mày, thần thái càng thêm sinh động rực rỡ: "Sao mẹ lại ngã ở ngoài điện vậy, có phải là do mệt mỏi quá không?"

 

Tạ Cánh nghe vậy là biết mọi người đã không nói chuyện Tích Cốt Huyền trong người y cho con gái hay, y bèn thuận theo em, nói: "Mấy ngày nay đã ngủ rồi, giờ mẹ không thấy mệt nữa, con đừng lo. Anh con đâu?"

 

"Hôm nay anh về nhà dọn dẹp đồ đạc rồi, con gọi dì đến kiểm tra cho mẹ, sau đó sai người đi gọi anh."

 

Lục Thư Ninh nói xong thì ôm sách chạy ra ngoài. Không lâu sau màn cửa khẽ động, Ngân Trù mang canh sâm vào, nhỏ giọng nói: "Người tỉnh hẳn chưa, tôi bảo Ninh Ninh đi rồi. Vương phi có chuyện gì muốn hỏi cứ hỏi, chút nữa Thanh Nhi đến đây, chúng lại quấn quít lấy người, có một số việc sẽ không nói rõ được."

 

Tạ Cánh yếu ớt ngồi dậy, nhận lấy chén sứ, múc từng muỗng uống: "Chuyện Tích Cốt Huyền... Hắn biết rồi sao?"

 

Ngân Trù nhăn nhó làm ra vẻ mặt khổ sở, chừng như nhớ đến một ký ức dở khóc dở cười: "Đương nhiên là biết rồi. Sống cùng nhau mười mấy năm, tôi chưa từng thấy điện hạ nổi trận lôi đình như vậy, ngài ấy xách kiếm xông thẳng đến chiếu ngục, may mà có Thanh Nhi liều mình ngăn lại, nói dù thế nào cũng không thể vượt qua quốc pháp để hành tư hình được, lúc đó ngài ấy mới chịu thôi. Sau đó lập tức hạ tử lệnh cho Thượng Thư đài và Hình bộ, yêu cầu nhanh chóng xét xử vụ án Lang Nha Vương thị mưu nghịch giết vua, một khi thu được đầy đủ chứng cứ là xử trảm ngay, không cần chờ đến sau thu."

 

Tạ Cánh không tỏ rõ ý kiến, hồi lâu mới nói: "Lần cuối ta thay chỉ độc là mùng bảy tháng Năm, đến giờ cũng gần hai tháng rồi, cánh tay phải thành ra thế này. Chị và Tần viện phán đều đã xem qua rồi, có còn cứu được hay không?"

 

Ngân Trù đáp ngay: "Tôi đã điều tra cẩn thận qua sách cổ từ trước, cũng đã thương lượng với Thái y viện, nếu muốn hoàn toàn lấy hết phần chỉ độc ra khỏi cánh tay của Vương phi thì không thể tiếp tục dùng cách chữa ngọn chứ không trị gốc như thay chỉ. Nhưng như vậy, độc tố đã thấm sâu vào da thịt cũng sẽ không còn được tơ hút ra, ở lại trong cơ thể, dù có lấy được hết tơ, độc không còn lan rộng nữa, thì phần da thịt này cũng sẽ dần rữa ra, dẫn đến hoại tử."

 

"Cho nên cách hiệu quả nhất, cũng là cách đơn giản trực tiếp nhất —— đó là lấy hết tơ ra trước, sau đó khoét bỏ phần da thịt đã ngấm độc ra là được. May mắn là Vương phi chỉ bị trúng độc ở cẳng tay phải, nếu để giống như Đại Hành hoàng đế..." Ngân Trù tặc lưỡi, rõ ràng đã nghe nói đến trường hợp của Lục Lệnh Chương, "Chỉ sợ sẽ khó cứu."

 

"Nhưng cứu thì đương nhiên là cứu được thôi, chỉ là cái tên của nó đâu phải để gọi cho vui, có chỗ phải khoét sâu đến tận xương, tám chín phần mười là vô cùng đau đớn, cũng khó tránh khỏi để lại vết sẹo lớn, trông sẽ hơi đáng sợ."

 

Tạ Cánh nghe xong thì thở phào một hơi như trút được gánh nặng: "Ta cũng sinh hai đứa con rồi, đau thì đau thôi, chẳng có gì phải sợ cả, chỉ cần lúc dùng dao đừng để bọn trẻ nhìn thấy là được."

 

Ngày mùng một tháng Bảy, năm Cảnh Dụ thứ năm, tân đế đăng cơ ở điện Thần Long, cùng ngày chiêu cáo thiên hạ, tôn sinh mẫu Ngô thị làm Thái hậu, lập trưởng tử Lục Thư Thanh làm Thái tử, nguyên Thái thú Ung Châu Hà Cáo nhậm chức Tả tướng, tổng quản công việc của Thượng Thư đài và lục bộ.

 

Và khi lời cung của Vương Thục, Trương Diên và Trình Văn lần lượt được dâng lên, lại có thêm Hà Cáo làm chứng, chân tướng vụ án ngọc tỷ Lam Điền năm xưa cũng sáng tỏ, nỗi oan mưu nghịch đè nặng lên Trần quận Tạ thị cuối cùng cũng được rửa sạch. Lục Lệnh Tùng đích thân phá hủy thứ "đồ giả" kia, tuyên bố trước mặt trăm quan rằng kể từ nay chỉ có Hòa Thị Bích mới sở hữu hiệu lực ngang với ngọc tỷ truyền quốc tối cao.

 

Tổ trạch cùng ruộng đất và các tài sản khác của nhà họ Tạ cũng được hoàn trả đầy đủ, Tạ Tuấn trở về ngõ Ô Y, bắt tay kiểm kê gia sản, đồng thời liên lạc lại với thân thích ở quận Trần và Diêu thị, bù đắp cho nhau.

 

Lục Lệnh Tùng lại lệnh cho Lễ bộ truy phong cho Tạ Dực hai chữ "Văn Giới", vợ chồng Tạ Dực và Tạ Duyễn được quy táng tại núi Mang ở thành Lạc Dương. Người ta thường nói "Sinh ở Tô Hàng, chết chôn Bắc Mang", núi Mang là vùng đất địa linh nhân kiệt, từ xưa trung thần lương tướng đều lấy việc gửi lại xương cốt tại đây, nằm bên các bậc thánh hiền thiên cổ làm vinh dự lớn lao nhất.

 

Thế nhưng sau khi bàn bạc cùng Tạ Tuấn, Tạ Cánh đã dâng sớ khấu tạ thiên ân, khước từ vinh quang này, chỉ mong được đưa song thân và anh chị về mộ tổ tại quận Trần để an táng, ở bên cạnh cố nhân ở nhà cũ, bầu bạn cùng tùng bách và núi non, nguyện không bao giờ bước chân lên thiên tử đường nữa.

 

Lục Lệnh Tùng cũng không cưỡng cầu, chỉ dùng bút mực đỏ phê lên tấu chương của y năm chữ: "Như Tạ khanh mong muốn."

 

Cùng tấu chương trở về thiên điện còn có một vị nội giám lạ mặt, gã tự giới thiệu, nói rằng mình vừa được Ngô thị tuyển chọn, sai tới điện Thần Long hầu hạ: "Bên dưới chọn lọc ra mấy phong hiệu cho công chúa, nhưng bệ hạ xem qua đều không thấy vừa ý, vậy nên đã sai tiểu nhân tới đây, mong Vương phi chọn cho hai chữ."

 

Vừa nói xong, nội giám đã nhận ra mình lỡ lời, lúng túng cười trừ, gã thầm mắng bản thân ngu xuẩn, lẽ ra phải gọi Tạ Cánh là "Tạ đại nhân" mới đúng, dù sao người ta cũng còn giữ chức quan chính thức.

 

Thật ra không chỉ mỗi gã bối rối với cách xưng hô. Trong ngoài kinh thành, đám thân sĩ đại tộc lão luyện nhất trong việc đoán ý đế vương và bắt mạch gió cung đình cũng đã âm thầm bàn luận chuyện này chín chín tám mươi mốt lần rồi.

 

Dựa theo tình hình ngày xảy ra biến cố ở đảo Bát Quái, giữa bệ hạ và Tạ Cánh thật ra không giống như mối quan hệ lửa nước khó dung mà hai người đã thể hiện suốt hơn một năm nay. Nhưng so với những chuyện lớn như phủ Tướng hành thích vua, Trương Thái phó mưu nghịch, thì vấn đề này chẳng tính là chuyện lạ lùng gì.

 

Mà điều kì lạ là sau khi chính biến được dẹp yên, thái độ của bệ hạ đối với y lại rất khác thường. Hắn tuyên bố giải oan cho nhà họ Tạ, ban vinh dự được quy táng ở Bắc Mang, nghiêm trị họ Vương, nhưng lại không kết tội Tạ Cánh, rõ ràng đã thừa nhận việc y cam chịu khuất nhục, lui tới dưới mái hiên phủ Tướng suốt bấy lâu, vì chuyện kia mà tất tả ngược xuôi cũng chỉ là kế tạm thời, nhẫn nhục gánh vác nỗi khổ mà thôi.

 

Song, bệ hạ không chỉ chậm chạp chưa có bất kỳ động thái lập hậu nào, mà còn ban chỉ cho phép Tạ Cánh "trở về ở tại phủ Chiêu Vương", điều này quả thực rất đáng suy ngẫm.

 

Nếu Tạ Cánh tiếp tục ở lại thiên điện điện Thần Long, vậy thì chính là Nam viên di ái, tình nghĩa sâu đậm, thiếu mỗi một thánh chỉ sắc phong nữa thôi, y sẽ trở thành Trung cung dưới một người trên vạn người, đây chỉ là chuyện sớm muộn.

 

Còn nếu bệ hạ để Tạ Cánh dọn về ngõ Ô Y, thế thì cũng dễ hiểu thôi, chẳng qua là tiền duyên đã dứt, cuộc hôn nhân này kết thúc tại đây, từ nay y sẽ hoàn toàn tách khỏi hoàng gia, chỉ còn là một viên quan bình thường trong hàng vạn triều thần.

 

Thế nhưng hắn lại lệnh cho Tạ Cánh trở về phủ Chiêu Vương. Đó là nơi nào? Đó là "Vương phủ", là "tiềm để", là danh xưng thay thế cho những thứ bị vứt bỏ và quên lãng bởi thời đại cũ. Chính thê của thiên tử, mẫu thân của Đông cung mà lại bị gọi là "Vương phi", chuyện này vốn dĩ đã là một điều kỳ lạ khó hiểu. Vương đã không còn, vậy "Vương phi" từ đâu mà ra? Rốt cuộc bệ hạ muốn lập hậu mới, hay chỉ là nhất thời chưa nghĩ ra nên xử trí Tạ Cánh thế nào, chẳng ai có thể nhìn thấu được.

 

Tạ Cánh lại hoàn toàn không để ý đến cách xưng hô nhạy cảm này, y trầm ngâm hồi lâu, rồi viết lên giấy hai chữ, đưa cho nội giám nói: "Giữ tâm tĩnh để thấu hiểu bản chất là 'Minh'; sống thanh thản, hòa hợp với trời đất là 'Di', ngươi đưa cho bệ hạ xem thử có được hay không."

 

Ngày hôm sau, tiền điện truyền tin tới, chọn ngày cử hành lễ sắc phong Đông cung và công chúa Minh Di.

 

Nghi thức đăng cơ của tân đế thì giản lược đến mức gần như không có gì, chỉ cần tế trời, bái tông miếu là coi như xong. Nhưng bệ hạ lại cực kỳ xem trọng danh vị của Thái tử và công chúa, nghi lễ trang nghiêm long trọng, quyết tâm để cho cả thiên hạ thấy rõ sự quý trọng sâu sắc mà họ nhận được, cũng như địa vị cao quý và vững chắc của họ.

 

Mấy ngày Tạ Cánh mê man, Ngân Trù đã cho y uống rất nhiều thuốc bổ, nay tinh thần của y đã khá lên, lại chuẩn bị rời cung trở về Vương phủ, cô bèn đề nghị nên tranh thủ giải độc, không nên kéo dài thêm.

 

Tạ Cánh cũng không có ý kiến gì: "Chị nói lúc nào thì làm lúc ấy, chết sớm siêu sinh sớm."

 

Ngân Trù nghiêm túc phản bác: "Phỉ phui ngay, không cho phép nói gở."

 

Cô liếc trộm sắc mặt Tạ Cánh, do dự một lúc, cuối cùng vẫn nhỏ giọng hỏi: "Có cần báo cho bệ hạ biết, để ngài ấy đến bên cạnh người không?"

 

Ban đầu Tạ Cánh chẳng có phản ứng gì, thậm chí còn hơi khó hiểu, mãi đến khi nhận ra "bệ hạ" mà cô nói là ai, y mới chậm chạp "À" một tiếng: "Có cần thiết không?"

 

Vẻ mặt Ngân Trù phức tạp: "Việc này chẳng nhẹ nhàng hơn so với nạo xương trị độc là bao, dù có ma phi tán, cũng không thể hoàn toàn mất hết cảm giác đau. Nếu như có bệ hạ ở bên, Vương phi sẽ dễ chịu hơn ít nhiều."

 

Tạ Cánh ngẩn người suy nghĩ một lúc rồi lắc đầu, nói: "Nếu đã đau đến thế, lại để cho người khác nhìn thấy thì cũng khiến thêm một người đau mà thôi."

 

Ngân Trù đành chịu, cô ngồi xuống bên cạnh y, hỏi: "Khó khăn lắm mới kết thúc được mọi chuyện, có thể đoàn tụ với các con, sao Vương phi lại không muốn ở lại trong cung?"

 

Tạ Cánh im lặng rất lâu mới nở nụ cười nhàn nhạt: "Không phải ta không muốn. Đương nhiên ta hy vọng được ở bên hắn, ta vĩnh viễn sẽ không rời xa hắn."

 

Y gục đầu xuống, nói nhỏ: "Chỉ là ta và hắn đều cần một chút thời gian để tỉnh táo lại, suy nghĩ thấu đáo vài chuyện. Nếu không làm vậy, chẳng lẽ ta cứ thế xem như chẳng có chuyện gì xảy ra, phớt lờ hết thảy sự sống và cái chết đang ngăn cách giữa chúng ta, không có lấy một gánh nặng nào mà vào cung bầu bạn cùng hắn, thân mật cùng hắn hay sao? Cả ta và Tử Phụng, chẳng ai muốn như thế cả."

 

Ngân Trù thở dài: "Tôi không hiểu chữ tình, cũng chẳng nên xen vào nói lý. Chỉ có điều, sống chết là ải khó mà bệ hạ và Vương phi nên cùng nhau vượt qua, tuyệt đối không nên để nó biến thành bức tường ngăn cách giữa hai người."

 

Tạ Cánh ở lại thiên điện cùng con trai và con gái vài ngày, bắt đầu nhịp sống đều đặn, ăn uống thanh đạm. Khoảng thời gian đầu khi Lục Thư Thanh và Lục Thư Ninh chính thức chuyển vào cung ở, mọi chuyện đều bắt đầu vào nề nếp, vô cùng ổn định. Cả hai giờ đây đã trưởng thành, có lẽ vì phải nếm trải cảnh loạn ly quá sớm nên đều thấu hiểu thế sự, không ai hỏi mẹ mình rằng tại sao người không thể mãi ở lại cung Thái Sơ?

 

Hậu quả của khoảng thời gian bình lặng và nhàn nhã quá mức ấy chính là vào đêm Ngân Trù chuẩn bị giải độc Tích Cốt Huyền, Tạ Cánh đã phải tốn không ít công sức mới dụ được hai đứa trẻ rời đi mà không để chúng sinh nghi.

 

Sau lưng được kê mấy chiếc gối mềm, y nằm ngửa ra, cả người lún sâu xuống nệm, nửa người trên không mặc áo, cả cánh tay phải để lộ ra ngoài màn giường.

 

Lúc nhỏ khi nghe người ta kể chuyện, Tạ Cánh chỉ cảm thấy trong lúc cười nói, chuyện cạo xương trị thương cũng chỉ là một giai thoại mà thôi, hôm nay mới biết Quan Vũ* quả thật thần dũng đến nhường nào. Ngân Trù dùng một con dao nhỏ và sắc bén để khoét thịt, dù xuống tay nhanh gọn dứt khoát, nhưng "liệu pháp" này về cơ bản chẳng khác nào lăng trì. Khi cảm nhận rõ ràng miếng thịt bị khoét ra, cùng với từng lớp da thịt rời khỏi xương cốt, Tạ Cánh không kìm chế được nữa mà kêu gào thảm thiết.

 

(*) Quan Vũ, hay Quan Công, tự Vân Trường, là một vị tướng nổi tiếng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục Hán

 

Trong lúc mê man, y chợt nhớ đến vết sẹo kéo dài từ vai xuống lưng của Lục Lệnh Tùng, dù khoảnh khắc ấy chỉ thoáng qua trong chốc lát, nhưng cuối cùng cũng chẳng thể thuyên giảm phần nào nỗi đau.

 

Cánh tay không giống phần thân trên có thể dễ dàng được áo quần che phủ, Tạ Cánh thật sự không sợ đau, không sợ nước da trắng như tuyết không tì vết của mình bị hủy hoại, cũng không sợ những vết sẹo xấu xí dữ tợn. Nhưng về sau, mỗi lần duỗi tay chạm vào Lục Lệnh Tùng hay ôm lấy các con, vết sẹo ấy sẽ nhắc nhở họ thêm một lần về nỗi khổ sở mà bản thân đã từng trải qua, điều đó ắt hẳn sẽ khiến đôi bên đều mệt mỏi rã rời, quả thật rất khó xử.

 

Mặc kệ những lời mê sảng mà Tạ Cánh thốt lên khi đầu óc hỗn loạn, hay những tiếng van xin yếu ớt khi y suýt ngất đi rồi lại bị cơn đau giục tỉnh, Ngân Trù đều phớt lờ như không nghe, sắc mặt cô không hề thay đổi, tiếp tục xuống tay, bởi vì cô biết rõ, chỉ có kết thúc nhanh gọn có thể mới giúp y bớt phải chịu cơn đau giày vò.

 

Trong không gian mờ ảo, những hình ảnh trước mắt tối tăm hơn nhiều so với bên trong phòng. Tầm mắt của Tạ Cánh rơi lên tấm màn lụa mỏng nhẹ, y trông thấy góc nghiêng gương mặt bình tĩnh không gợn sóng của Ngân Trù, thấy cả Tần viện phán cùng mấy vị thái y, những người hầu bưng thuốc —— và bóng dáng cao lớn đứng ngay bên cạnh cửa.

 

Điện Thần Long dù vô cùng rộng lớn, nhưng tẩm điện của hoàng đế và thiên điện cách nhau chỉ hơn mười bước chân. Thế nhưng những ngày qua, Lục Lệnh Tùng chưa từng sai người đến hỏi thăm lấy một câu, cũng chưa từng xuất hiện trước mặt Tạ Cánh, như thể căn phòng bên cạnh hoàn toàn trống rỗng, không hề có sự hiện diện của y.

 

Thái độ "hờ hững" và "làm lơ" có chủ đích này đã phần nào xoa dịu nỗi bất an của Tạ Cánh khi sống trong điện Thần Long. Tuy rằng có những lúc thả hồn bay xa, y vẫn không thể kìm lòng mà nghĩ đến Lục Lệnh Tùng, từ những cuộc trò chuyện của các con và cung nhân, y thường cố đoán xem liệu rằng chuyện triều chính có đang quá nặng nhọc hay không, có cần thận trọng trước việc cân bằng giữa các thế lực mới và cũ hay không, liệu có khó để hắn thích nghi với ngai vàng hay không...

 

Chỉ một bước gần mà như ngàn dặm xa, tưởng chừng xem nhau như người lạ, vì sao bây giờ lại muốn đến đây?

 

Khi Tạ Cánh còn gắng gượng giữ được chút tỉnh táo, Lục Lệnh Tùng vẫn đứng ở chỗ cũ, không hề động đậy. Mà trong khoảnh trước khi hoàn toàn mất ý thức, mí mắt nặng trĩu sắp sửa khép lại, y chỉ kịp nhìn thấy hắn xoay người bước đi, bóng dáng cao ngất biến mất bên ngoài điện.
Bình Luận (0)
Comment