Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm

Chương 121

 29.1 — Hiện tại 

Cuối đông, noãn các điện Thần Long.

 

Tiếng đàn tỳ bà dồn dập vang lên từ phía bên kia màn thêu, tuy kỹ nghệ tinh xảo nhưng người gảy đàn lại chẳng dốc lòng, giai điệu không đều đặn, lúc có lúc không. Cung nhân đứng đợi bên ngoài rèm, đến khi tiếng đàn dừng hẳn mới lên tiếng bẩm báo: "Tiểu công chúa đã dậy rồi ạ."

 

Tạ Cánh đặt cây tỳ bà trên người xuống, đứng dậy khỏi tháp, chậm rãi bước về phía phòng ngủ. Mấy ngày nay y luôn ở lại điện Thần Long, chỉ bảo người kê thêm một chiếc giường trong noãn các để nghỉ ngơi, dường như không muốn rời khỏi nơi này dù chỉ nửa bước.

 

Vài hôm trước Tiêu Dao vào cung tìm y, nói rằng dạo này dạo này âm thanh của cây đàn tỳ bà thân cháy mà nàng quý nhất không còn chuẩn xác, chẳng rõ có phải do trục dây bị mòn rồi hay không, mong Tạ Cánh dành chút thời gian chỉnh lại giúp. Nào ngờ chỉ vừa đặt tay lên đàn, y đã phát hiện tiếng đàn vẫn réo rắt như nước, không hề gãy nốt hay lệch âm, bèn hiểu ngay Tiêu Dao chỉ là cố ý kiếm cớ cho y có việc làm, để tâm trí khuây khỏa đôi phần mà thôi.

 

Theo lý mà nói, Hoàng đế còn đang ôm bệnh chưa tỉnh, trong cung làm sao dám vọng tiếng tấu nhạc? Nhưng người gảy đàn ấy lại là Trung cung đích thân hầu hạ thuốc thang, mấy ngày đêm cực nhọc không thể ngủ yên, khúc nhạc mà y tấu tràn ngập nỗi u uất phiền muộn, ngay cả các cung nhân thân cận nghe vào cũng đau lòng đứt ruột, tự nhiên chẳng ai dám mở miệng dị nghị.

 

Thời gian này Lục Thư Ninh đều ở bên cạnh mẹ, em vừa rời khỏi giường, ngồi xuống trước bàn gương, mấy vị thượng cung đang hầu hạ em rửa mặt, người hầu cầm mâm son đựng trâm cài tóc và vòng tay đứng bên cạnh.

 

Tạ Cánh bước đến nhìn, phát hiện trong số đó còn có chiếc trâm vàng kiểu "giá vẹt" mà ngày đó Vương thị ban thưởng cho Lục Thư Ninh

 

Y chau mày, vươn tay chỉ vào nó, nó: "Cất cái này vào đi."

 

Cung nhân đang định lấy ra thì Lục Thư Ninh bỗng nâng tay lên, kéo góc áo của mẹ mình lại, lắc đầu với y.

 

Tạ Cánh bèn quỳ ngồi xuống bên cạnh em, nửa khuôn mặt chiếu lên mặt gương, y đưa mắt nhìn con gái: "Vì sao?"

 

Lục Thư Ninh nhìn cung nhân đang chải đầu cho mình, người nọ hiểu ý bèn khom người lui ra. Em nhìn sang Tạ Cánh, chân thành nói: "Khi Vương Thái hậu ban thưởng thứ này cho con, quả thực là bà ấy không có ý tốt, nhưng chủ ý thì lại không sai. Về sau con ở trong cung, tuy rằng luôn có chí thân bên cạnh bầu bạn, nhưng chiếc trâm giá vẹt này lúc nào cũng ở ngay trước mắt, liên tục nhắc nhở con rằng, con đã không còn là con gái của phòng thu chi ở phủ Thái thú nơi biên cương, không được tùy tiện dựa dẫm, nũng nịu với cha mẹ nữa."

 

Tạ Cánh sững sờ, ánh mắt rơi xuống chiếc trâm vàng kia, dưới ánh bình minh rực rỡ, đây là lần đầu tiên y cẩn thận quan sát món trang sức khiến mình buồn nôn ấy — sợi xích buộc trên cổ chân vẹt là thứ có thể nhìn thấy được; còn những quy tắc, khuôn mẫu mà một cô công chúa hoàng gia bắt buộc phải tuân theo lại là những xiềng xích vô hình.

 

"Trước khi rời khỏi Ung Châu, mẹ từng nói với con, có những con đường mà con nhất định phải tự mình bước qua. Cô đã ở điện Minh Loan đến năm mười lăm tuổi, rồi lại ở điện Hàm Chương đến năm hai mươi ba tuổi, cuối cùng cũng tự mình bước ra được. Đợi đến một ngày nào đó, khi con đã trưởng thành, có thể một mình rời khỏi hoàng cung, lúc ấy con sẽ nói lời từ biệt cây trâm vàng này."

 

Nghe xong lời em nói, phản ứng đầu tiên của Tạ Cánh là hốt hoảng, kết cục của "vị công chúa rời khỏi cung Thái Sơ" khiến y không rét mà run, khi Lục Thư Ninh bày tỏ cách nhìn của em về sự tự do, Tạ Cánh chợt hoảng sợ phát hiện, điều đầu tiên xuất hiện trong đầu y lại chính là nghĩ cách giữ con gái ở lại.

 

Y mới chỉ ba mươi mốt tuổi, còn xa mới đến cái tuổi phải sợ chim non bay khỏi tổ rồi không quay về nữa, chẳng qua là trong lòng vẫn còn sợ hãi mà thôi.

 

Nhưng rồi y lại không kìm được mà tự hỏi: Vào khoảnh khắc này, khi nhìn con gái mình, liệu có phải y đang tìm kiếm bóng dáng của một người khác thông qua em hay không? Liệu y có thật sự coi em là "Lục Thư Ninh" độc nhất vô nhị không, hay chỉ đang lấy em làm hình bóng thay thế cho một người đã khuất có đôi mắt, hàng mày hao hao em? Việc cưng chiều thậm chí là bao bọc quá mức ấy, có bao nhiêu phần là đang cố bù đắp vì áy náy với người đã mất? Rốt cuộc y có tư cách gì để không cho phép con gái được rời đi chỉ vì sợ đánh mất em?

 

Bấy giờ, Lục Thư Ninh đưa tay vào tay áo, lấy ra một vật đưa tới trước mặt Tạ Cánh, kéo y trở về thực tại.

 

"Thật ra, mẹ có thể không cần phải cho đi mọi thứ giống như trước đây nữa. Khi chúng ta rời khỏi nhà, một miếng cơm, một chén nước, lửa than chỉ đủ sưởi ấm một người, sợi bông chỉ đủ may một bộ quần áo, tất cả những thứ ấy mẹ đều nhường cho con, nhưng càng được mẹ che chở, con càng cảm thấy trăn trở, con cứ luôn nghĩ, phải làm sao mới có thể để mẹ đối xử với bản thân mình tốt hơn một chút đây?"

 

Nằm trong lòng bàn tay của Lục Thư Ninh, chính là miếng ngọc trắng trong cặp ngọc mà Tạ Cánh tự tay khắc, là độ vật thuộc về y. Mùa xuân năm ngoái khi họ lên đường về kinh, chỉ sợ khó có ngày đoàn viên, trong khoảnh khắc nản chí ngã lòng, y đã giao lại miếng ngọc cho Lục Thư Ninh.

 

"Ngày giờ này, chúng ta đã không còn phải lo đói rét cơ hàn nữa, nhưng con luôn cảm thấy mẹ vẫn cứ như xưa vậy, trong lòng chất đầy nỗi buồn, nặng nề tâm sự. Anh nói với con rằng khi anh còn nhỏ, mẹ rất hay cười, con không tin nên đi hỏi cha, mới biết đúng thật là như vậy, thế mà con lại chưa thấy được mấy lần."

 

"Nếu miếng ngọc này đã là vật mà mẹ khắc tặng cha và bản thân mình, con nghĩ tốt nhất vẫn nên trả về cho chủ cũ. Chỉ mong khi nhìn thấy nó, mẹ có thể nghĩ đến cảm giác khi tự tay trao tặng một món quà là như thế nào, sau đó sống thật lâu cùng với cảm giác ấy."

 

Dứt lời, Lục Thư Ninh bèn cẩn thận vuốt thẳng những sợi tua dưới miếng ngọc, rồi tự tay buộc nó vào thắt lưng của Tạ Cánh. Sau khi làm xong việc nhỏ ấy, vẻ mãn nguyện hiện rõ trên gương mặt em, như thể đang được đắm mình trong vầng trăng sáng, bàn chân treo lơ lửng trên ba nghìn trượng giữa không trung, dù biển tu la có cuồn cuộn sóng dữ, cũng chẳng thể chạm vào đóa hoa sen thêu trên mũi giày em.

 

Tạ Cánh thoáng giật mình, vô thức đưa tay phải lên v**t v* khuôn mặt của Lục Thư Ninh. Không ngờ ống tay áo trượt xuống, để lộ vết thương Tích Cốt Huyền để lại trên cẳng tay ra trước mắt hai người.

 

Y cuống quít muốn che lại, nhưng Lục Thư Ninh chỉ nắm lấy cổ tay y, kéo tay áo lên tận khuỷu tay rồi kề sát mặt lại, nhẹ nhàng tựa lên vết sẹo gồ ghề, im lặng không nói gì.

 

Đối với Tạ Cánh, việc Lục Thư Ninh đang làm giống như một kiểu bố thí — đem quả thiện trao trả cho "người mẹ" mà em là tín đồ trung thành nhất, cũng là tín đồ sa lầy sâu nhất.

 

Cái tên mà năm xưa Lục Lệnh Tùng lấy cho con gái họ dường như đã mang một ý nghĩa khác. Em không may mắn có được một cuộc đời yên ổn thanh bình, nhưng lại sở hữu một trái tim sáng trong như gương.

 

Tạ Cánh nhặt chiếc lược lên, ôm đầu Lục Thư Ninh lại, để em tựa lên đầu gối mình, rồi thật từ tốn, chậm rãi chải chuốt mái tóc đen mượt của em.

 

Hạ tuần tháng chạp, trong thời khắc chuyển giao sang năm mới, Kim Lăng đổ một trận tuyết lớn.

 

Tính ra thì đây cũng sẽ là trận tuyết cuối cùng của năm Cảnh Dụ. Chẳng mấy chốc nữa, khi năm cũ trôi qua, triều đình đổi niên hiệu, niên hiệu của tiên đế rồi cũng sẽ hoàn toàn trở thành quá khứ.

 

Sáng sớm hôm ấy, cổng chính chùa Linh Cốc ở phía Đông kinh thành đóng chặt không tiếp khách. Chỉ mở cửa hông đón vào hai cỗ xe ngựa giản dị. Một vị phu nhân đầu tóc bạc trắng bước xuống khỏi xe ngựa phía trước, còn người xuống từ xe ngựa đằng sau là một mỹ nhân trẻ tuổi, y bước lên hai bước, nhanh chóng theo sau.

 

Vốn dĩ, nếu nói đến nơi danh tiếng lẫy lừng nhất trong kinh thành, ngôi chùa được hàng vạn thiện nam tín nữ tôn sùng thì không nơi nào sánh bằng chùa Kê Minh – đứng đầu trong "Bốn trăm tám mươi chùa Nam triều". Dù chùa Linh Cốc cũng là danh sơn cổ tự, nhưng suy cho cùng vẫn có phần kém thế hơn. Mà những năm nay, chùa Kê Minh đã trở thành nơi "giam lỏng" của Tiêu thị đã qua đời, còn khách quen ở chùa Linh Cốc là Ngô Thái phi lại được tôn làm Thái hậu đương triều, hương khói trong chùa cũng nhờ đó mà thịnh vượng hẳn lên.

 

Trong thiền viện, lớp tuyết mỏng đã được quét dồn về hai bên. Tạ Cánh đỡ lấy khuỷu tay của Ngô thị, né tránh mặt băng, cẩn thận dìu bà bước vào chùa: "Đường lát đá trơn trượt, mẫu thân bước đi cẩn thận."

 

Trụ trì đã đứng chờ trước bình phong từ trước, vừa thấy hai người đến liền bước lên, niệm một tiếng "A Di Đà Phật", rồi nói: "Điện Vô Lượng đã được quét dọn sạch sẽ, mời hai vị quý nhân dời bước."

 

Điện Vô Lượng được đặt tên theo pho tượng Phật Vô Lượng Thọ thờ phụng bên trong, toàn điện không dùng đến một cây gỗ hay một chiếc đinh nào, mà hoàn toàn được xây nên bằng gạch đá, bởi vậy còn được gọi là "điện Vô Lương*". Tạ Cánh sống ở Kim Lăng đã hơn mười năm, nhưng đây là lần đầu tiên y đặt chân đến nơi này. Sở dĩ có chuyến đi ngày hôm nay, là bởi khi Ngô thị đến chăm sóc Lục Lệnh Tùng, bà đã chủ động rủ Tạ Cánh đang đứng hầu bên cạnh cùng mình đến chùa.

 

(*) Lương () là xà nhà

 

Ngô thị nhắm mắt lại, khép tay đặt trước ngực, quỳ xuống bồ đoàn hồi lâu rồi mà vẫn không nói lời nào. Tạ Cánh cũng không quấy rầy, chỉ đành dâng hương theo bà, y hít sâu một hơi, chợt phát hiện ra điều bản thân muốn phát nguyện quá nhiều, tức thì chẳng biết nên bắt đầu từ đâu, trong lòng trống rỗng.

 

Mãi lâu sau, Ngô thị bỗng lên tiếng hỏi: "Con cho rằng mẹ đến là để cầu Phật Đà phù hộ, mong Tử Phụng mau chóng tỉnh lại, có phải không?"

 

Tạ Cánh mở mắt ra, đối diện với ánh nhìn hiền hòa dịu dàng của bà, y khẽ gật đầu xem như thừa nhận.

 

Thế nhưng Ngô thị lại mỉm cười: "Mẹ đến là để trả lễ."

 

"Từ mùa xuân năm đầu Cảnh Dụ, lần đầu mẹ đặt chân đến đây, tới giờ đã gần tròn năm năm rồi. Mẹ đã đến rất nhiều lần, gần như lần nào cũng đều có Thanh Nhi đi cùng, cũng có một hai lần là Chân Chân theo mẹ đến. Mẹ đã từng khấn xin Phật Tổ, cầu cho Tử Phụng ra chiến trường mà không phải chịu khổ từ đao thương, cầu cho con và Ninh Ninh đi xa thuận buồm xuôi gió, cũng từng cầu cho Chân Chân sớm ngày trở về bên mẹ."

 

"Mỗi lần phát nguyện xong, mẹ lại sớm tối quỳ trong Phật đường ở Tây cung, lòng nóng như lửa đốt vì mãi chẳng thấy linh; đến khi nguyện thành, Tử Phụng khải hoàn hồi triều, mẹ con các con cũng về kinh, mẹ lại vội vàng mừng rỡ chạy đến trả lễ. Cứ lặp đi lặp lại như thế, lúc thì hoan hỷ tột độ, lúc lại ưu sầu khôn xiết, bị giày vò đến mức chỉ thiếu điều phát điên lên thôi."

 

"Huống chi, thần linh cũng có lúc không hiển linh, mẹ chỉ muốn hỏi vì sao Chân Chân của mẹ mãi chẳng thể quay về, nhưng Quan Âm Đại Sĩ lại chẳng chịu hé môi, chỉ ban cho mẹ một bài thiền kệ."

 

"Lòng mẹ vẫn còn chút hy vọng gặp may, thế nên lần này khi Tử Phụng xuất chinh, mẹ vẫn tiếp tục phát nguyện. Nhưng còn chưa đợi được Tử Phụng trở về, mẹ đã thấy đứa trẻ họ Tạ một mình quay lại Kim Lăng rồi. Mẹ lập tức triệu nó vào cung, hỏi rốt cuộc là quận Trần hay Ung Châu xảy ra chuyện, bảo nó không cần giấu diếm, cứ nói hết cho mẹ nghe. Sinh ly tử biệt, âm mưu dương mưu mẹ đều đã trải qua cả rồi, chẳng còn chuyện gì có thể khiến mẹ không chịu đựng nổi nữa."

 

Tạ Cánh sững người, hoàn toàn không biết rằng hóa ra bà từng gặp Tạ Tuấn.

 

"Nó kể lại đầu đuôi mọi chuyện, lúc ấy mẹ mới hay, Tử Phụng đi tìm Chân Chân là đánh cược mạng sống mà đi, con đi tìm Tử Phụng, cũng đã ôm quyết định theo cùng."

 

"Khi đó mẹ đã nghĩ, nếu như đến cả vợ chồng con cũng không về được, cháu trai và cháu gái của mẹ còn có thể nương nhờ cạnh ai đây? Tiêu thị khống chế phụ hoàng của Tử Phụng và anh em nó, Vương thị khống chế tiên đế, mưu đồ vì mẫu tộc, mẹ chưa bao giờ cậy nhờ gia đình mình, nhà họ Ngô cũng chưa từng lợi dụng mẹ, đôi bên đều chẳng vì lòng riêng. Đến lúc đó, cho dù có phải đứng ra che chở, hậu thuẫn cho các cháu, mẹ cũng không thẹn với lương tâm."

 

"Lần này mẹ đến lễ tạ thần, không phải là để tạ ơn Phật Tổ đã bảo vệ con và Tử Phụng về kinh, mà là để tạ tội với thần linh vì mẹ đã không thành tâm — trước kia không thể, về sau lại chẳng muốn thành. Từ hôm nay trở đi, mẹ sẽ không cầu chư Phật nữa, chỉ cầu ở chính mình."

 

Tạ Cánh chợt hiểu ra, vì sao rõ ràng biết y không hề muốn, Ngô thị vẫn cố chấp dẫn y ra ngoài một chuyến. Thì ra là bà muốn giúp y gỡ bỏ tảng đá đè nặng trong lòng.

 

Y có thể "thần chắn giết thần, Phật chắn giết Phật", dốc toàn lực che chở trước mặt các con, vì những người thân yêu mà không từ bất cứ thủ đoạn nào. Nhưng điều đó không có nghĩa là y không cần chỗ dựa. Sự phán xét của ôn lương cung kiệm trong nội tâm chỉ tạm thời lắng xuống chứ chưa từng biến mất. Mỗi khi đêm dài buông xuống, ở nơi không người, vào khoảnh khắc tự kiểm điểm bản thân mình, nó sẽ dằn xé y gấp bội lần.

 

"Chi Vô, mẹ đã ở cung Thái Sơ suốt bốn mươi năm rồi, con có biết vì sao cung điện này lại khiến thiên hạ kinh sợ không? Chẳng lẽ chỉ vì tường cao lớp lớp, điện các hoang lạnh hay sao? Không phải! Là vì ở nơi đó có người mưu tính người, người lừa gạt người, người phản bội người, người giết hại người! Gạch ngói chỉ là vật chết, còn con người mới là vật sống! Phải làm sao thì con mới không sợ hãi nơi này chứ?"

 

"Không cần con phải trở thành kẻ mưu mô, lừa lọc, phản bội hay kẻ nắm giữ quyền sinh sát," bà ngẩng mặt nhìn pho tượng Phật Vô Lượng trang nghiêm, "Mà cần con phải giống như chư vị Thần Phật ở trên kia, thu hết tất cả vào đáy mắt, giữ cho lòng dạ sáng trong."

 

Bà nắm lấy tay Tạ Cánh, đôi bàn tay của một người mẹ đang siết chặt đôi bàn tay của một người mẹ khác: "Con của mẹ, không cần sợ hãi nữa. Những ngày tháng khó khăn nhất con đều đã vượt qua được, con có nhiều lựa chọn hơn mẹ. Trong hoàng cung này, con muốn sống theo cách nào, quyền quyết định nằm trong tay con — con cứ việc mạnh dạn mà bước tiếp."

 

Tạ Cánh nhớ lại nỗi hoang mang của mình khi đối diện với Lục Thư Ninh, ngập ngừng hỏi, gần như không thể thốt nên lời: "Mẫu thân, người có từng hối hận không?"

 

Không cần y nói rõ, hiển nhiên là Ngô thị hiểu rõ y đang hỏi điều gì — bà có từng hối hận vì trong buổi chiều ráng đỏ như máu ấy, bà đã không giữ Lục Lệnh Chân lại hay không?

 

Bà cũng nghe ra hàm ý trong lời nói Tạ Cánh, rằng — nếu một ngày nào đó, con gái của con cũng đi trên con đường như thế, thì con phải làm sao?

 

Ngô thị hơi nghiêng đầu, né tránh câu hỏi đầu tiên, chỉ thở dài nói: "Đừng ngăn cản con bé."

 

Từ chùa Linh Cốc trở về cung phải đi qua đường Chu Tước, phủ Chiêu vương cũng nằm trên con đường ấy. Thị nữ bên cạnh khẽ hỏi Tạ Cánh: "Hoàng hậu có muốn ghé thăm tiềm để một chút không ạ? Trước đó nghe chị Ngân Trù nói, các lão bộc trong phủ đều rất lo lắng cho sự an nguy của bệ hạ và người."

 

Tạ Cánh trầm mặc hồi lâu, không trả lời ngay. Sao y lại không muốn về phủ cũ một chút cơ chứ? Chỉ là y sợ, một khi quay về nơi đó, bước vào thư phòng, phòng ngủ hay vườn hoa rồi thì sẽ không muốn đi nữa, y không muốn trở vào cung, lắng nghe tôn xưng mà mình đã phải cố gắng lắm mới ép bản thân làm quen được, không muốn lại tiếp tục diễn vai một Hoàng hậu hiền đức, sáng chép kinh, tối vẽ tượng trong thơ oán cung đình.

 

Cung nhân nhắc nhở lần nữa: "Hoàng hậu? Đã sắp qua khỏi cửa chính rồi ạ."

 

Tạ Cánh vẫn không lên tiếng, nhưng cuối cùng, y vẫn không nhịn được mà lặng lẽ hé màn ra, nhủ thầm trong lòng, "Chỉ nhìn từ xa thôi là được rồi."

 

Thế nhưng chỉ một cái liếc mắt, lòng y đã chấn động. Chỉ thấy cổng chính phủ Chiêu Vương mở hé một cánh, đầy tớ thị nữ chen chúc đứng kín phía sau bậc cửa, ngẩng đầu trông theo, chỉ mong sao xe ngựa có thể dừng lại, hoặc ít nhất cũng có thể nhìn thấy y qua ô cửa sổ. Bác Chu giờ đã già yếu, tay ông chống gậy, được người dìu đỡ đứng ngay hàng đầu.

 

Tạ Cánh buột miệng thốt lên: "Phu xe, đi chậm lại một chút!"

 

Y gần như muốn vén rèm xe lên cao hơn, nhưng lý trí lại nhắc nhở rằng, chỉ cần nói với họ thêm một câu thôi, thì hôm nay y sẽ không thể kiên quyết rời khỏi phủ Chiêu Vương được nữa.

 

Tin tức Lục Lệnh Tùng hôn mê bất tỉnh đã được giữ kín, Hổ Sư cũng không về triều, trong kinh hẳn vẫn cho rằng tân đế còn đang trấn thủ ở biên cảnh phía Bắc. Điện Thần Long không thể không có người chủ trì đại cục, Tạ Cánh một mình xuất hiện ở tiềm để sẽ khiến người khác lời ra tiếng vào, tóm lại là không đúng thời cơ.

 

Trong khoảnh khắc do dự, phủ Chiêu Vương đã khuất khỏi tầm mắt, Tạ Cánh còn muốn nhìn thêm, nhưng đã không thể nữa rồi.

 

Bỗng nghe tiếng Chu bá vang lên từ phía sau, giọng nói của ông khản đặc mà chậm rãi, từng chữ như mũi dùi đâm vào tim: "Chúng tiểu nhân không có phúc hầu hạ thánh giá, chỉ mong bệ hạ và hoàng hậu nơi cung cấm giữ gìn sức khỏe, chớ quên nhà cũ. Phủ Chiêu Vương vẫn như trước đây!"

 

Đêm 30 Tết, vì chẳng ai có lòng dạ ăn bữa cơm đoàn viên hữu danh vô thực kia, thế nên chỉ tập trung ăn tối ở điện Minh Loan. Tạ Cánh chào Ngô thị ra về, sắp xếp cho bọn trẻ yên giấc rồi một mình trở về điện Thần Long.

 

Y xõa tóc, rửa mặt xong, thay quần áo ngủ rồi ngồi xuống bên giường của Lục Lệnh Tùng. Hơn mười năm nay, chẳng biết đã có bao lần, y cứ thế lặng lẽ nhìn chăm chú vào gương mặt say ngủ của Lục Lệnh Tùng, sau đó đưa tay ra, nhẹ nhàng lần theo đường nét trôi chảy từ xương chân mày đến chóp mũi của đối phương.

 

Đa phần những lần đụng chạm đều sẽ bị Lục Lệnh Tùng nhạy bén phát hiện ra được. Nhưng mỗi khi ngủ bên cạnh Tạ Cánh, hắn thường rất lơi lỏng, chẳng hề cảnh giác, hoặc là giả vờ như chẳng nhận ra, hoặc chỉ đơn giản là mơ màng kéo tay Tạ Cánh xuống, ôm chặt y vào lòng rồi ngủ tiếp.

 

Hồi lâu sau, không nhận được phản hồi nào, Tạ Cánh rốt cuộc cũng dời mắt đi. Y cầm lấy miếng ngọc trắng và con dao đồng đặt trên bàn lên, thấp giọng nói:

 

"Dù sao bây giờ cũng rảnh rỗi, quyết định tiếp tục việc còn dang dở năm xưa, khi nào khắc xong hai miếng ngọc này em sẽ tặng lại cho anh vậy. Đã gần năm năm rồi, chẳng có năm nào kịp ăn sinh nhật cùng anh. Mùng chín tháng Năm năm tới, chúng ta lén đến biệt viện ở nùi Thang được không? Mùa hạ ở núi rừng mát mẻ, mở cửa thuỷ tạ ra nghe tiếng ếch kêu, ướp chút mơ lạnh để ăn nữa."

 

"Sáng nay Thanh Nhi thay anh nhận đủ lời chúc mừng từ các quan lại, trông thì rất ra dáng, chẳng có chút gì là sợ hãi, nhưng thực ra em ngồi sau rèm nhìn, thằng bé gầy đến mức gọi là thiếu niên cũng gượng miệng. Hai tháng nay, ngày nào nó cũng theo Hà đại nhân học cách coi xét trị chính, học cách đáp trả từng loại tấu chương. Trong thành có Tiêu Dao, ngoài thành có Thôi tướng quân trấn giữ, giờ đây cũng không cần quá lo lắng đến sự an toàn của mẫu thân và bọn trẻ."

 

"Em thật sự không biết trong đầu anh đang tính toán điều gì. Lẽ ra những chuyện này nên để em tự mình dạy dỗ cho Thanh Nhi từng chút một. Vậy mà anh lại ngang ngược ban xuống một thánh chỉ sắc phong, giờ thì hay rồi, Thượng thư đài không cho em lui tới, Chính sự đường cũng không cho em đến dự thính tấu đối nữa. Cái hoạ 'ngoại thích can dự chuyện triều chính' kia, từ nay xem như đã bị anh dứt khoát chặt đứt rồi."

 

"Thanh Nhi nói nó có thể vì chúng ta mà trở thành một đế vương cô độc, ngự ở nơi cao ngất lạnh lẽo kia. Ninh Ninh nói con bé có thể vì chúng ta mà nghiêm thủ quy củ lễ pháp của một công chúa. Mẫu thân nói người có thể vì chúng ta mà thay đổi nửa đời ẩn nhẫn, không tranh quyền thế, bước ra trước màn gió tanh mưa máu này."

 

"Nhưng đây là ước nguyện ban đầu của chúng ta sao, Tử Phụng? Những điều mà chúng ta hứa hẹn, mong chờ, chẳng lẽ không phải là các con được vô lo vô nghĩ, là cao đường không cần phải dốc lòng lo lắng hay sao? Bị thế tục dạy dỗ đến nước này, chúng ta lại chỉ có thể dựa vào nhau để 'thành toàn', mới miễn cưỡng giữ cho gia đình này không sụp đổ."

 

"Ngày hôm ấy... anh có nhìn thấy Y Vân không? Đó là lần cuối cùng rồi. Trước khi hồi kinh, các tướng sĩ đã đưa em đến một ngọn đồi ngoài quan ải, nơi họ đã chôn cất Y Vân, nói rằng sang xuân cỏ xanh sẽ phủ đầy triền dốc ấy. Mấy hôm trước Lý Kỳ gửi thư báo, nói rằng quân dân Ung Châu đã đặt cho ngọn đồi ấy một cái tên, gọi là 'Đọa Vân Lĩnh'. Em mang về một nhúm lông bờm của nó, cất trong hộp gấm, bây giờ đang để ngay đầu giường của anh đấy. Đợi anh tỉnh lại, chúng ta cùng về Vương phủ, chôn nó dưới gốc mai trắng, để nó bầu bạn với Lục Ngải nhé."

 

Tuyết cũ đè cong cành cây, cánh hoa tàn rơi rụng khắp đất, đèn cung leo lét ánh vàng. Tạ Cánh chậm rãi mà chăm chú đẽo khắc bạch ngọc, cứ thế nói liên miên suốt cả đêm, lời nói rời rạc không có đầu cũng chẳng có đuôi. Đến khi canh tàn, trời gần sáng, cuối cùng y cũng không chống đỡ nổi cơn buồn ngủ nữa, gục xuống mép giường thiếp đi, thỉnh thoảng miệng vẫn nỉ non nói mớ mấy câu.

 

Chiếc trung y dính máu kia đã xếp lại gọn gàng đặt trong khay vàng, được đối đãi như một tấm di chiếu có hiệu lực cao nhất. Đêm cứu được Lục Lệnh Tùng trở về, Tạ Cánh chỉ đọc qua nó một lần, sau đó chưa từng chạm vào lần nào nữa.

 

Ngay kia tia sáng đầu tiên của ngày mới xuyên qua ô cửa sổ giấy, chiếu lên mái tóc của Tạ Cánh, ngón trỏ của Lục Lệnh Tùng vốn bị y siết chặt trong lòng bàn tay bỗng dưng khẽ nhúc nhích một cái.

Bình Luận (0)
Comment