Mang Theo Máy Bán Hàng Tự Động Xuyên Về Cổ Đại

Chương 309

Ở lại y quán một khoảng thời gian, Thịnh Quân đã giải quyết thêm được rất nhiều vấn đề.

Có rượu cồn rồi, lại có chiết xuất kali hydroxit từ tro thực vật và kết hợp với dung dịch iodine có tính kích ứng nhẹ hơn nên cũng có thể được đưa vào để điều chế.

Sau đó, nàng còn giúp dân chúng xử lý hết đám giun đũa trong dạ dày.

Trước khi Tảo Nhi và mọi người vào thành thì dân chúng trong thành không có thói quen uống nước đun sôi. Dù sao thì nấu nước cũng cần đốt lửa, mà đốt thì phải tốn củi. Mà đa số mọi người không có điều kiện như vậy nên thường chỉ là múc nước lạnh rồi uống trực tiếp.

 

Còn Tảo Nhi và mọi người vì có Thịnh Quân nên tất cả đều rất chú ý đến vấn đề vệ sinh. Từ khi còn ở trong núi mọi người đã hình thành thói quen uống nước đun sôi.

Sau khi vào trong thành, họ cũng phổ biến cho mọi người cách làm này.

Bây giờ lại có than tổ ong và bếp than nên dân chúng rất sẵn lòng uống nước nóng.

Tuy nhiên, vì đã uống nước lã trong một khoảng thời gian dài nên hầu hết trong bụng ai đều cũng có giun đũa.

 

Một ngày nọ, Thịnh Quân vô tình nhìn thấy y quán tiếp nhận một bệnh nhi bị đau bụng và sụt cân mà lại không tìm được nguyên nhân của căn bệnh này nên nàng chợt nghĩ đến khả năng là có giun đũa.

Vì vậy, nàng đã đưa ra một phương thuốc Trung y hiện đại trị giun, để cho Thu Nương và mọi người phối thuốc. Rất nhanh bọn họ đã sắp xếp cho toàn bộ dân chúng trong thành uống thuốc tẩy giun.

Uống thuốc gì chắc chắn cũng sẽ đắng.

Một số người dân khỏe mạnh trong thành có phần phản kháng, cứ nghĩ rằng cơ thể mình không có vấn đề. Bọn họ nghĩ rằng mình chắc chắn không có giun, hoàn toàn không cần phải uống loại thuốc này.

Khi đến nơi tổ chức uống thuốc giun, họ cứ chần chừ rồi kéo dài thời gian.

Đúng lúc đó, bên thợ thủ công đã làm được hai chiếc kính hiển vi quang học đơn giản.

Họ lấy một tấm kính mỏng, nhỏ vài giọt nước lã lên đó rồi đặt dưới kính hiển vi. Có thể nhìn thấy rõ ràng trong những giọt nước đó có sinh vật đang chuyển động.

Mặc dù đó không phải giun đũa nhưng cũng đủ để những người chống đối việc uống thuốc cũng phải khiếp sợ. Sau đó không còn ai dám trì hoãn, mọi người đều tranh nhau đến để uống thuốc tẩy giun.

Sau đó, mọi người quả nhiên phát hiện ra trong bụng có giun đũa ẩn náu, từ đó mọi người hoàn toàn tin phục đối với Phương Quân.

Hai chiếc kính hiển vi quang học có đóng góp to lớn cũng có phần thú vị.

Trước đó, sau khi chế tạo ra kính viễn vọng, những người thợ thủ công đã tập trung vào việc cải tiến chức năng của nó. Trong giai đoạn này, họ cũng đang cố gắng chế tạo những vật dụng khác, chẳng hạn như những chiếc gương có thể dùng để nhìn vào.

Muốn biến kính thành gương sẽ có hai cách: một là sử dụng phản ứng tráng bạc, nhưng trước mắt cách này vẫn còn hơi khó đối với những người thợ thủ công.

Vì vậy họ chọn cách thứ hai, đó là sử dụng thủy ngân và quặng nhôm làm nguyên liệu chế tạo gương có đáy bằng nhôm.

Không lâu sau, họ đã thành công làm ra một thành phẩm là một chiếc gương nhỏ.

Mặc dù đã biết trước độ rõ nét của chiếc gương này rất đáng kinh ngạc, nhưng khi nhìn thấy thực tế thì những người thợ thủ công vẫn bị đứng hình.

Chiếc gương kính này rõ nét hơn tưởng tượng gấp trăm lần. Những chiếc gương đồng mà mọi người thường dùng là không thể nào so sánh được!

Khác với những hình ảnh mờ nhạt phản chiếu trên gương đồng hay mặt nước trước kia. Đây là lần đầu tiên mọi người có thể nhìn rõ khuôn mặt thật của chính mình.

Thậm chí ngay cả những nốt ruồi nhỏ trên mặt hay những tia m.á.u đỏ hiện lên trên má, cũng có thể nhìn thấy rõ ràng.

Chẳng bao lâu sau, tin tức về chiếc gương quý giá có thể nhìn rõ khuôn mặt này đã nhanh chóng lan truyền trong thành.

Hiệu quả của nó được thổi phồng lên trời không có, đất không có, đó như kỳ tích của tiên nhân. Còn có người nói đó là kỹ thuật do Phương Quân mang xuống khi hạ phàm rằng trên thiên đình, các vị thần tiên đều sử dụng những chiếc gương như thế này.

Nhiều người nghe tin, sau giờ làm đều đến lò rèn ngó nghiêng, muốn tìm hiểu thực hư câu chuyện.

Tảo Nhi và mọi người thấy dân chúng tò mò, bèn nhờ thợ thủ công làm thêm hai tấm gương soi nửa thân, khảm thêm viền đá, đặt ở trong thành làm đồ vật trang trí.

Rất nhanh, trước hai tấm gương đá đã chật kín người. Ai cũng muốn soi mặt mình. Hễ rảnh là lại ra xếp hàng đứng trước gương đá.

“Thì ra ta đẹp thế này sao!”

“Ủa, sao trên đầu mũi ta lại có nhiều đốm đen thế này?”

“Ái chà, tiêu rồi, sao mắt của ta lại một bên to một bên nhỏ thế này? Cái này có chữa được không!”

“Hừ, trước đây ta nói mà ngươi không tin, giờ tự nhìn thấy rồi chứ! À này, ngươi soi xong chưa? Đến lượt người khác rồi đấy!"

Khung cảnh vô cùng náo nhiệt. Nơi đây nhanh chóng trở thành điểm trọng tâm mà quân huyện cần chú ý, phải giữ gìn trật tự cẩn thận.

Sau khi gương ra đời, tấm phản chiếu trên kính hiển vi quang học cũng có nền tảng để phát triển.

Bởi vì máy tiện vẫn chưa có nên các linh kiện nhỏ của kính hiển vi đều được thợ thủ công làm thủ công từng cái một. Sau khi điều chỉnh không biết bao nhiêu lần, cuối họ cùng đã tạo ra hai chiếc kính hiển vi quang học có thể sử dụng được.

Trong khoảng thời gian ngắn có lẽ cũng chỉ làm được hai chiếc này.

 

Mọi người xem chúng như báu vật, đặc biệt là chọn một căn phòng có ánh sáng tốt để đặt chúng, ai muốn sử dụng cũng phải đến đây.

Sở thích của Thu Nương và Tảo Nhi gần đây là nhặt mọi thứ xung quanh rồi đặt dưới kính hiển vi để quan sát.

Ví dụ như hạt cát, lá cây,...

 

Hầu như bất kỳ thứ gì có thể tìm được, họ đều đã xem qua một lượt.

Những thứ nhìn thấy khắp nơi này, hình dạng thật sự của chúng hoàn toàn vượt xa trí tưởng tượng. Như mở một cánh cửa bước vào một thế giới mới cho mọi người.

Một bên là quan sát, một bên là sáng tạo.

Thấy thời tiết ngày càng càng nóng dần lên.

Dù đã có bình dự báo khí tượng, nhưng nó chỉ dùng để quan sát, không thể thay đổi được thời tiết. Khí hậu vẫn là một thứ làm cho con người ta khó nắm bắt được.

Rõ ràng mùa đông đã có trận tuyết lớn vậy mà đến mùa hè thì trời lại trở nên khô nóng và dường như có dấu hiệu của hạn hán.

May mà cả Hưng Hòa và Miên Sùng đều đã đào giếng và cũng đã làm nhiều biện pháp tưới tiêu. Thêm nữa với nguồn nước ngầm cũng dồi dào nên người dân không phải ngước lên trời mà cầu khẩn nữa.

Ngày hôm đó, huyện lệnh Miên Sùng - Trình Thuận - đột nhiên chạy đến tìm Tảo Nhi để bàn chuyện.

Thịnh Quân tình cờ cũng có mặt, liền ngồi nghe.

"Trước khi thiên tai bão tuyết xảy ra, ta đã từng tìm cách nhờ cứu trợ từ các huyện lân cận như Bình Trạch nhưng tiếc là không ai đáp lại."

Trình Thuận nói: "Ba ngày trước, huyện lệnh Bình Trạch - Đan Xuân, có gửi một lá thư. Thứ nhất là để thăm dò tình hình của Miên Sùng, thứ hai là muốn nhờ chúng ta hỗ trợ. Việc thứ nhất không có vấn đề gì, tình hình trong thành ta đã che giấu rất kỹ, chắc chắn không tiết lộ điều gì không nên tiết lộ. Nhưng việc thứ hai thì ta không dám quyết định, nên đến đây để xin chỉ thị."

Những vùng ở đây đều bị khô hạn, Bình Trạch còn bị hạn sớm hơn. Dường như họ đã không chịu nổi được nữa, nếu cứ tiếp tục kéo dài thì ngay cả nước uống cũng thành vấn đề.

Huyện lệnh Bình Trạch nghĩ đến việc Miên Sùng từng có tuyết lớn và lại nhớ ra ở đó có một cái hồ nước nên cho rằng chắc chắn Miên Sùng sẽ không thiếu nước. Vì vậy đã phái người qua thăm dò tình hình, hy vọng có thể được họ giúp đỡ, vận chuyển nước về để dự trữ trong thành, phòng khi cần thiết.

"Đan Xuân đúng là suy nghĩ đơn giản quá. Cái gì mà đã trải qua một trận tuyết lớn nên không thiếu nước. Đây là lý lẽ lôi từ đâu ra vậy? Chẳng lẽ tuyết từ mùa đông vẫn có thể để dành tới bây giờ? Còn hồ nước kia, hiện tại thì chưa khô, nhưng với tình hình này, sớm muộn gì cũng sẽ cạn thôi. May mà còn có nước giếng ngầm có thể cứu mạng, nếu không thì năm nay chẳng ai sống yên được cả." Trình Thuận thở dài.

Thịnh Quân nghe xong vừa buồn cười vừa bất lực.

Nơi gặp thiên tai tuyết không thiếu nước, đúng là một cách nói đầy bi hài!

Tảo Nhi lặng lẽ ngồi nghe, gật đầu: "Đan Xuân phải không? Trí tưởng tượng của ông ta đúng là phong phú thật đấy. Chỉ xét đến tình trạng đường xá giữa hai thành, cho dù Miên Sùng có đủ nước để điều phối thì với đoạn đường gập ghềnh đó, nước cũng sẽ đổ hết trước khi tới nơi, mất công mất sức chẳng được gì. Huống chi trong thành có nhiều người như vậy, cần bao nhiêu nước thì mới đủ dùng? Có lẽ trong lòng ông ta cũng không chắc đâu."

Trình Thuận thở dài: "Nghe có lý hơn thật."

Tảo Nhi nhìn ông ấy: "Vậy ngươi nghĩ việc này nên giải quyết ra sao? Giúp hay không giúp?"

Trình Thuận do dự nói: "Nếu chúng ta có đủ khả năng, dĩ nhiên vẫn phải giúp. Dù Đan Xuân là người cẩn trọng, có phần ích kỷ, nhưng dân chúng Bình Trạch lại vô tội."

Ông ấy cười nói: "Sớm muộn gì họ cũng là dân chúng của Phương Quân, giúp đỡ họ cũng không phải là chuyện xấu."

Kể từ khi quy thuận Phương Quân, Trình Thuận như tìm thấy ánh sáng của đời mình.

Ông ấy chưa từng gặp một lãnh đạo nào hợp ý mình đến vậy.

Lý tưởng Đại Đồng của Phương Quân, kiến thức tiên tiến cùng thái độ nói ít làm nhiều, mọi thứ đều khiến ông ấy vô cùng thán phục.

Nhìn Miên Sùng ngày càng tốt đẹp dưới sự quản lý của họ, sự biết ơn của Trình Thuận càng thêm khó nói thành lời.

Hơn nữa, Phương Quân rất tin tưởng ông, cũng yên tâm để ông tiếp tục quản lý huyện thành.

Bình Luận (0)
Comment