Mê Tông Chi Quốc

Chương 129



Dưỡng khí tại nơi sâu trong địa huyệt rất loãng, ánh đèn cácbua còn yếu ớt hơn cả ánh lửa ma trơi trong huyệt mộ, Tư Mã Khôi sờ thấy mấy cây đinh thò ra, mỗi cây to như ngón tay người lớn, chúng rất kiên cố, tựa hồ đã bám rễ trong tầng nham thạch vậy, soi đèn lại gần, thì thấy nó đen sì sì, không có độ bóng.



Tư Mã Khôi và Hải ngọng nhìn chăm chú hồi lâu, cảm thấy vật này rất quen mắt, có lẽ nó không phải là đinh, mà là đầu thép, còn tầng nham thạch bằng phẳng đào được dưới địa huyệt, là phần mái của kiến trúc đổ bê tông cốt thép, do mép tường chịu tác dụng của lực giãn nở nên bị rạn nứt, khiến cốt thép bên trong lòi cả ra ngoài, có điều ở một nơi như đỉnh núi Thần Nông Giá thì làm sao lại có một “căn phòng” như vậy được? “Căn phòng” kiên cố và quái dị kia vừa vặn nằm ngay trong khe nứt chỗ đường giáp ranh của tầng nham thạch, cách đỉnh núi cao hơn hai ngàn mét so với mặt nước biển này cả mấy chục mét sâu, trên mặt đất lại hoàn toàn không có dấu vết đào bới đất cát, mà thậm chí ngay cả dân binh địa phương cũng không hề hay biết sự tồn tại của nó; thế nhưng công trình kiến trúc bê tông cốt thép này chắc chắn cũng chỉ mới được xây dựng mấy chục năm gần đây là cùng.



Hải ngọng nói: “Trước đây, vùng Hồ Bắc, Hồ Nam đều là địa bàn chiếm cứ của thổ phỉ, hay đây là sào huyệt mà bọn chúng để lại?” Tư Mã Khôi lắc đầu bảo: “Thổ phỉ chỉ tận dụng hang động thiên nhiên có sẵn trong núi để lẩn trốn thôi, đội quân ô hợp như bọn chúng thì làm sao đủ sức tạo ra công trình kiên cố thế này?” Hải ngọng lại nói: “Nhắc đến công trình, tớ mới nhớ ra, công trình này chắc chắn là hầm phòng không đấy.



Mấy năm đó, đất nước chẳng đề ra khẩu hiệu: “Đào hầm, tích lũy lương thực, không xưng bá đạo, chuẩn bị cho chiến tranh, chuẩn bị chống hoang hóa, vì nhân dân phục vụ” là gì. Lúc đó, bộ đội công trình địa phương đào không biết bao nhiêu hầm lớn nhỏ, nghe nói tổng số khối lượng đất đá đào lên còn nhiều gấp mấy lần Vạn Lý Trường Thành cơ đấy”.



Tư Mã Khôi vẫn cảm thấy không giống một căn hầm trú ẩn. Đại Thần Nông Giá dân cư thưa thớt, đi sâu tiếp vào trong đã là cánh rừng rậm nguyên sinh m Hải Cốc, mà trên núi lại có bao nhiêu hang động thiên nhiên kì dị khác nhau, thì đâu cần thiết phải đào hầm trú ẩn phòng không; huống hồ, có lý nào lại xây hầm phòng không ở nơi này, bởi chẳng lẽ hàng ngày mỗi khi còi báo động vang lên, người ta lại rủ nhau chạy hai ngày đường núi đến đây lánh nạn? Hải ngọng lầm bầm: “Thế thì con bà nó quái lạ thật! Thôi, bọn mình cứ chui xuống nhìn xem bên trong nó là cái gì vậy”.




Tư Mã Khôi thấy chỗ nứt vỡ trên khối bê tông cốt thép, có một lỗ hổng khá lớn, phần bê tông bên trên trống hoác, đủ cho một người chui lọt. Không khí trong khe nứt âm lạnh, khiến hiệu quả chiếu sáng của đèn cácbua được phục hồi, chứng tỏ không gian bên trong rất sâu.



Anh ngăn không cho Hải ngọng vội vàng chui vào trước, mà đề xuất họ nên quay về để chuẩn bị chu đáo mọi biện pháp an toàn. Hai người kẻ trước người sau chui ra khỏi địa huyệt, rồi kể lại cho bốn thành viên còn lại tình hình vừa mới phát hiện: dưới lòng đất có khối tường kết cấu bê tông cốt thép, bên trong có lẽ rất sâu, nó không giống với công sự đa dụng thường dùng trong thời kì chiến tranh và hòa bình, nên chẳng rõ được sử dụng để làm gì? Tư Mã Khôi dự định, đội khảo cổ hội anh sẽ chui xuống dưới, để đội thông tin ở bên trên tiếp ứng, vì tình hình vẫn chưa rõ thế nào, nên phải mang cả ba lô và đèn quặng xuống theo.



Cao Tư Dương biết rất rõ trách nhiệm của bản thân, cô đề nghị được đi cùng hội Tư Mã Khôi, cậu dân binh Hổ Tử cũng háo hức muốn lập công, đương nhiên không cam tâm ở lại, Nhị Học Sinh thấy gian nhà gỗ trong núi sâu tối lửa tắt đèn, mà bản thân anh ta đâu có gan ở lại canh cỗ tử thi, thế là cũng vội vàng nài nỉ xin được tham gia hành động cùng cả nhóm.



Tư Mã Khôi không thể từ khách trở thành chủ để chỉ huy đội thông tin, huống hồ ba người bọn họ cũng không chịu nghe lời anh, vả lại nghĩ đến việc trong địa huyệt và gian nhà gỗ có khả năng vẫn còn tên “cương thi vô hình” đang ẩn nấp, đối phương chưa kịp đào đến điểm tận cùng thì vội vã trốn biệt, tuy anh không phát hiện thấy xung quanh có hơi thở người sống, nhưng cũng không dám lơ là.



Nếu để hội Cao Tư Dương đi cùng, ngộ nhỡ xảy ra chuyện gì, thì hội anh chí ít cũng có thể ứng cứu, bởi vậy anh không ngăn cản nữa. Chẳng ngờ cậu dân binh Hổ Tử bỗng đột nhiên hấp tấp vác súng chui tọt vào địa huyệt, Tư Mã Khôi thấy vậy không nhịn được mắng: “Tiên sư cái thằng quê mùa! Đúng là đồ ngựa non háu đá!” Tuy Tư Mã Khôi bừng lửa giận, nhưng anh vẫn lo lỡ cậu dân binh xảy ra chuyện gì, đành vội vã vác ba lô bám sát theo sau, những người còn lại cũng lần lượt chui xuống địa huyệt, mò mẫm đến chỗ có lỗ thủng ở cuối địa huyệt, rồi cùng chui vào bên trong.



Tư Mã Khôi đuổi theo Hổ Tử, tóm lấy tay cậu ta, gằn giọng: “Tiểu tử nhà cậu chán sống hay sao mà vội chạy đi đầu thai thế hả?” Cậu dân binh giằng ra khỏi tay Tư Mã Khôi, cố chấp đáp: “Tôi chỉ muốn xem cái ‘mớ thùng phuy’ khoa học nhà anh có chính xác hay không, nhưng bên trong tối thui, có thấy cóc khô gì đâu? Nguy hiểm ở chỗ nào chứ?” Tư Mã Khôi điên tiết: “Mớ thùng phuy cái mẹ gì, là Murphy…”, vừa nói anh vừa soi đèn quặng vào trong, phát hiện phía trên là một tấm trần bê tông cốt thép, dưới nó là một tấm sàn dày nặng y như vậy, chúng nằm song song, tạo thành một tầng lửng, cao tầm mét rưỡi.



Ánh sáng đèn quặng có thể chiếu xa gần hai mươi mét, trong phạm vi này, anh thấy không gian trống hoác, không có bất cứ thứ gì, khác một trời một vực dự đoán ban đầu của anh. Tư Mã Khôi thầm cảm thấy kì quái, nửa câu sau anh không nói tiếp nữa. Lúc này, bốn người còn lại cũng xách đèn quặng chui vào, thấy phía dưới lại là khối tường bê tông cốt thép nữa, quái dị y như tấm trước.



Thắng Hương Lân nói: “Chỗ này sâu hút, rộng rãi, nhưng chiều cao lại chỉ có mét rưỡi, chắc không phải phần chính của căn phòng, hay nó có hai tầng mái? Có điều, chiều ngang của chỗ này rộng quá, kết cấu của nó không giống với một căn phòng hay pháo đài bình thường”.



Tư Mã Khôi nhớ lại lúc ở Miến Điện, anh từng nhìn thấy kho máy bay không quân Hoàng gia Anh, cái nhà kho đó cũng có kết cấu bê tông cốt thép, phần đỉnh hình mái vòm, nhưng kho máy bay cũng không có tường ngoài hai lớp thế này. Lúc này, Nhị Học Sinh quả quyết nói với mọi người, đây không đơn thuần là tường hai lớp, mà là kết cấu lõi kép, giống như bình giữ nhiệt có hai lõi vậy, nó có hiệu quả phòng ngự, chống xung kích rất tuyệt vời.




Vì thế, đây có lẽ là một tòa công sự nhân tạo, mấy năm phòng chiến tranh chống đói, các đơn vị và bộ đội đều có nhiệm vụ “ba phòng”, không được đào quá nhiều hầm hào phòng không; thế nhưng loại kết cấu đặc biệt này tương đối hiếm gặp, có lẽ chỉ có bộ đội mới đủ khả năng tạo ra, chỉ có điều vì sao nó lại được đào ở ngọn núi cao cách mặt biển chừng này nhỉ? Đây là lần đầu hội Tư Mã Khôi nghe thấy cụm từ “kết cấu lõi kép”, chẳng ngờ một Nhị Học Sinh không hề nổi trội ở lâm trường, lúc lao động cực nhọc thì rệu rã như con chó chết, mà lại biết nhiều thứ đến vậy.



Tư Mã Khôi hỏi cậu ta: “Tuy cậu là thanh niên tri thức từ thành thị đây lên vùng núi này cải tạo tư tưởng, nhưng nghe nói cậu chưa bao giờ nhập ngũ thì sao có thể hiểu rõ về các thiết bị quân sự như lòng bàn tay thế hả?” Thì ra, thành phần gia đình Nhị Học Sinh không tốt, trước giải phóng là nhà tư bản ở Thượng Hải, đến đời cậu ta thì bất kể đi học hay vào xưởng làm công nhân đều rất khó khăn, chứ đừng nói đến chuyện tòng quân.



Người anh họ khá khẩm nhất trong gia tộc cậu ta, từng tham gia binh đoàn kiến thiết và sản xuất, đến vùng hoang hóa phía Bắc làm việc, như thế đã cảm thấy vinh dự lắm rồi. Tham gia binh đoàn tuy rất gian khổ, nhưng lại được phân phát vũ khí, còn được mặc quân phục, nên những người xuất thân có vấn đề vốn dĩ đều không được phép tham gia.



Anh họ Nhị Học Sinh phải nhờ không ít mối quan hệ mới được phân vào binh đoàn, quân phục cũng không có, nhưng quả thực cũng được phát súng phát đạn như những người khác. Do mối quan hệ Trung Xô ngày một xấu đi, nên năm 1969, hai bên đã xảy ra xung đột vũ trang kịch liệt trên đảo Chân Bảo, sông Ussuri, sau đó xung đột tiếp tục diễn tiến dữ dội, phía Liên Xô bày trận, hàng triệu lính dàn trải khắp biên giới tuyến sông, Trung Quốc rơi vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu khẩn cấp một cách toàn diện.



Đơn vị nông cụ của binh đoàn sản xuất kiến thiết, mà anh họ Nhị Học Sinn đóng quân, cách tuyến biên giới rất gần, họ có thể cảm nhận một cách chân thực đám mây đen chiến tranh đang vần vũ trên đầu. Một buổi tối, sau khi anh ta vừa huấn luyện xong và trở về nhà đi ngủ, chăn chiếu vẫn còn chưa kịp ấm, thì bỗng nhiên nghe thấy tiếng còi báo động, sau đó điện đài thông báo phía Liên Xô đã xuất binh, thành phố Tề Tề Cáp Nhĩ bên dòng sông Mẫu Đơn bị ném bom dữ dội.



Nghe thấy tin ấy, ai cũng thấy vô cùng kích động, tinh thần bi tráng tột độ, họ đoán định rằng: “Bọn râu xồm toàn là bộ đội cơ giới hóa, lúc này không chừng đoàn xe tăng của chúng đã đánh đến tận Thẩm Dương rồi cũng nên, chúng ta lại bị cô lập phía sau lưng địch, chỉ có thể rút lui vào núi đánh du kích”.



Thế là, không quản băng rơi tuyết phủ kín trời kín đất, toàn bộ lực lượng vũ trang đã chạy thục mạng lên núi. Đơn vị nông cụ vượt núi suốt đêm, người nào người nấy kiệt sức mệt lả, nhưng vừa đến nơi thì nhận được thông báo rằng đó chỉ là buổi diễn tập.



Anh họ Nhị Học Sinh chỉ buông lời lầu bầu mấy câu: sao nỡ đày ải nhau thế! Chẳng ngờ lại bị người ta tóm tại trận và bắt kiểm điểm, may mà tiểu đoàn trưởng thương tình, không tiếp tục làm to chuyện, nhưng cuối cùng anh họ của Nhị Học Sinh cũng bị khai trừ khỏi binh đoàn và bị đuổi về quê nhà.



Sau khi trở về, anh ta kể cho Nhị Học Sinh tình hình tiến hành công tác “ba phòng”, trong đó có cả chuyện nhà kho hạng nặng kết cấu lõi kép, có thể ngăn chặn bom phá pháo dội. Đương nhiên, những chuyện đó cũng chẳng phải bí mật quân sự gì, bởi vì trong sổ tay huấn luyện dân binh cũng có hình vẽ, chỉ có điều, rất ít người chịu đọc kỹ mà thôi.




Hội Tư Mã Khôi cũng đều trải qua thời kì đặc biệt ấy, nên nghe những lời Nhị Học Sinh vừa nói cũng thấy đúng là khá có lý. Xem ra kho ngầm lõi kép này có lẽ được xây dựng trong những năm phòng chiến tranh chống đói, do bộ đội công trình đơn vị nào đó bí mật xây dựng trong núi sâu, nhưng vị trí của nó vẫn rất đặc biệt, không thể nghĩ ra công dụng cụ thể của nó, càng không thể đoán được bên trong rốt cuộc chứa đựng thứ gì.



Cao Tư Dương nhắc nhở mọi người: “Chúng ta chưa được phép, không thể tùy tiện xem trộm thứ bên trong đâu!”. Thắng Hương Lân phỏng đoán, cái nhà kho này có vẻ đã bị bỏ hoang nhiều năm, tuy nó tận dụng hang động tự nhiên ở chỗ tiếp giáp mạch nham thạch để xây dựng nên, nhưng kết cấu tự thân của nó lại tồn tại khiếm khuyêt lớn, cho dù được đúc bằng bê tông cốt thép kiên cố, thì vẫn không thể địch lại được lực giãn nở sản sinh do các khe đá trong lòng núi gây nên, bởi vậy phần ngoài mới xuất hiện vết nứt vỡ, có lẽ bên trong chỉ là cái ruột rỗng mà thôi.



Nhưng vì sao tên Lão Xà đội mồ sống dậy kia lại nhắm cái nhà kho ngầm bị bỏ hoang dưới lòng đất này nhỉ? Vì sao hắn lại biến mất trong gian nhà gỗ giữa núi sâu bị khóa kín? Chẳng lẽ, dưới lòng đất thực sự cất giấu vật gì quan trọng sao? Tất cả những chuyện này là hoạt động phá hoại của kẻ địch, hay còn có liên quan đến những bí mật cổ xưa nào đó đang chìm lắng dưới Biển Âm Dụ? Mọi người nóng lòng muốn làm rõ sự việc, sau khi bàn bạc vài câu xong, họ lại tiếp tục soi đèn quặng và đèn pin, mò mẫm về hướng vết nứt kéo dài trên mặt đất, di chuyển từng bước giữa tầng lửng thấp lè tè.



Tư Mã Khôi quay người, khẽ nói với Hải ngọng và Thắng Hương Lân rằng, thành viên đội thông tin không có kinh nghiệm ứng biến, lại chỉ lắp ghép tạm thời, thiếu năng lực hợp sức cần phải có, nếu đột nhiên xảy ra sự cố, chắc chắn đội hình của họ sẽ tan vỡ, bởi vậy mọi người cần để mắt đến bọn họ nhiều hơn, tuyệt đối không được phân tán đội ngũ, chỉ cầu mong sao chuyện này mau chóng kết thúc, đừng xảy ra sai lầm gì trong quá trình hành sự mới được; đến lúc đó hai đội sẽ chia tay, ai đi đường nấy, chúng ta sẽ tiến vào rừng rậm nguyên sinh Đại Thần Nông Giá như dự kiến ban đầu.



Tư Mã Khôi vừa nói vừa bất giác nhớ đến định luật Murphy – bất kể kế hoạch chuẩn bị chu đáo đến đâu, thì khi tiến hành, chắc chắn vẫn xuất hiện những sai lầm và nhân tố bất ngờ; cuối cùng, kế hoạch có thành công hay không, còn phải xem độ nghiêm trọng của sai lầm có ảnh hưởng quyết định đến kết quả hay không, cái này gọi là “người tính không bằng trời tính”.



Tư Mã Khôi càng ngẫm càng cảm thấy thế sự khó lường, cho dù tính toán vẹn toàn hết cả, nhưng đến lúc sự việc xảy ra, chưa chắc đã được như ý muốn, nên bây giờ thì chỉ có thể đi đến đâu hay đến đó. Thế là anh lấy lại tinh thần, bám sát theo sau đội thông tin, nghe ngóng sát sao mọi động tĩnh xung quanh.



Mọi người mò mẫm một hồi, cuối cùng cũng tìm thấy khe nứt ở tầng đáy, Tư Mã Khôi ném hòn đá xuống dưới thám thính, nghe tiếng đá rơi thì biết phía dưới cũng không sâu lắm, anh liền bảo mọi người đừng vội manh động, rồi tung người nhảy xuống trước, nhưng đèn quặng do sử dụng lâu ngày, lại thêm khi nãy bị chấn động và rung lắc nên tiếp xúc kém, nó đột ngột vụt tắt.



Trước mắt chỉ còn màn đêm đen quánh, ngoại trừ hơi thở và tiếng tim đập của chính mình, thì xung quanh yên ắng đến độ một chiếc kim rơi cũng có thể nghe thấy. Tư Mã Khôi đang kiểm tra đầu đèn lỏng chặt thế nào để vặn lại cho sáng, nhưng vừa giơ tay thì anh sờ thấy một ống thép lớn lạnh tanh, nặng trịch nằm chắn ngang ngay trước mặt, không rõ đó là vật thể gì.


Bình Luận (0)
Comment