Dịch trạm của Đại Minh phân bố khắp thiên hạ, gánh trên người rất nhiều trọng trách, ví như truyền thư tín, vật phẩm nhỏ, đón tiếp quan viên, người đi công cán.
Về sau tăng thêm ngân hàng, trạm xe ngựa, cuối cùng thành một bộ phận không thể thiếu trong cuộc sống người Đại Minh.
Nghe nói trong dịch trạm ở Quan Trung còn có điện báo, nơi xa xôi hẻo lánh như Gia Dục Quan chưa có thứ đó.
Kỳ thực Trương Kiến Lương có thể cưỡi khoái mã về Quan Trung, hắn rất nhớ thê tử con cái và phụ mẫu huynh đệ, nhưng sau cuộc chiến ở mục trường Thác Vân, hắn không còn muốn mau chóng về nhà.
Đôi khi hắn nghĩ, nếu hắn về muộn một chút, vậy người nhà mười huynh đệ tử trậm nhận tin dữ muộn thêm một chút.
Đẩy cánh cửa ngân hàng, rất nhỏ, chỉ có một cái quầy cao, trên quầy dựng lưới sắt, một trung niên râu sơn dương ngồi trên ghế cao lãnh đạm nhìn hắn.
“ Đổi 200 lượng vàng cám.” Trương Kiến Lương đặt mười túi vàng lên quầy cao:
Người trung niên tựa hồ đã quá quen với cảnh này rồi, mở túi ra kiểm tra chất lượng vàng: “ Một lượng vàng cám chín đồng ngân tệ rưỡi.”
“ Cái gì, không phải một lượng vàng cám đổi được mười ba ngân tệ à?”
“ Đó là ở Vũ Uy, còn ở đây chỉ có chín đồng rưỡi, không đổi thì mang đi.”
Trương Kiến Lương cắn răng nói:” Đây là tiền phủ tuất của 10 huynh đệ của ta, ta không phải kẻ buôn vàng, số vàng này huynh đệ ta dùng máu đổi lấy đấy.”
Người trung niên thở dài:” Mười ngân tệ, ta không nâng giá cao hơn được nữa đâu, huynh đệ, số vàng này không thể mang tới Vũ Uy, tri phủ Tửu Tuyền gần đây tổ chức vận động đả kích vận chuyển vàng, người không qua được quan ải đó. Ngươi là quan quân, tương lai còn dài, đừng để phạm vào cái tội buôn lậu.”
Trương Kiến Lương cho mười túi vàng vào trong bọc, lặng lẽ rời ngân hàng.
Một lượng vàng đổi mười ngân tệ, quá lỗ, hắn ăn nói thế nào với huynh đệ chiến tử chứ?
Người trung niên chắp tay một cái, cũng chẳng hỏi Trương Kiến Lương định xử trí chỗ vàng của hắn ra sao?
Trương Kiến Lương không đi, cứ đứng trước cửa ngân hàng, hắn tin không bao lâu sẽ có người tới hỏi chuyện hắn.
Quả nhiên chưa đến một tuần hương, có hán tử lực lưỡng mùa hè còn mặc áo da dê đi tới bên cạnh nói nhỏ:” Một lượng vàng mười một ngân tệ.”
Trương Kiến Lương dứt khoát:” Ta muốn mười ba.”
Hán tử cười khẩy:” Mười một đồng còn tốt hơn bị quan phủ tịch thu đấy.”
“ Ngươi không giống người có thể đổi vàng.”
“ Hán tử tây bắc có tiền hay không không nhìn cách ăn mặc, mà nhìn bản lĩnh, ngươi không bán cho bọn ta thì chẳng nơi nào bán đâu, cuối cùng thì vàng cũng thuộc về bọn ta.”
Trương Kiến Lương không coi uy hiếp này ra gì: “ Vậy là ngươi định cướp hả, nghĩ tới hậu quả chưa?”
“ Còn ngươi biết nơi này là đâu chưa? Nơi này là sa mạc.”
“ Vậy ngươi định cướp ở đây à, một mình ngươi làm được không?”
Hán tử giơ tay định vỗ vai Trương Kiến Lương, nhưng Trương Kiến Lương tránh đi, hán tử vỗ hụt nhìn hắn: “ Quan quân như ngươi ta từng giết một tên, thi thể ném ra sa mạc, khi trời sáng chỉ còn lại cái giày, thảm lắm, có bản lĩnh thì đừng rời Gia Dục Quan.”
Trương Kiến Lương ngồi xuống đất, tiếp tục chờ đời.
Lại thêm một tuần hương nữa, hán tử áo da quay về nói:” Đao gia muốn gặp ngươi.”
“ Vậy ra kẻ giết huynh đệ ta là Đao gia à?” Trương Kiến Lương rốt cuộc cũng cười, răng hắn rất trắng, cười rất sáng lạn, nhưng hán tử áo da bỗng nhiên sợ hãi, còn chưa kịp phản ứng gì thì đã bị người ta bóp cổ nhấc lên.
Hán tử rất muốn kêu lên, nhưng kêu không nổi, sau đó bị Trương Kiến Lương ném mạnh xuống đất, hắn nghe thấy tiếng xương của mình gãy, cổ họng vừa được buông ra, hắn kêu như bị chọc tiết.
Trương Kiến Lương giơ chân dẫm gãy một cái chân của hán tử, khiến hắn ngất lịm đi.
Láy trong ba lô ra một sợi dây thừng, buộc chân kia của tên hán tử, sau đó kéo về phía chợ phiên. Tên hán tử bị kéo căng chân, đau đớn kêu lên tỉnh lại, chưa kịp cầu xin bị cơn đau làm ngất đi, chỉ vẻn vẹn chừng 100 bước, hắn ngất hơn 3 lần.
Gia Dục Quan là vùng biên tái, người ta đã quá quen với cái cảnh này rồi, chẳng ai ngạc nhiên.
Một tháng trước ở chợ phiên cũng có một người bị đánh gãy chân tay, sau đó người ta buộc thừng vào chân kéo đi thị chúng.
Trương Kiến Lương kéo hán tử tới quán bán thịt dê, lấy cái móc treo thịt sáng quắc, móc xuyên qua cằm hán tử, dùng sức kéo lên, hán tử bị treo lủng lẳng giống hai con dê bị lột da ở bên cạnh.
Hán tử bị đau tỉnh lại, rên hừ hừ đưa tay nắm lấy xà ngang, định giải thoát bản thân khỏi cái móc, đáng tiếc tay hắn vừa giơ lên bị Trương Kiến Lương dùng dao giết dê chặt đứt, hắn như con cá bị vớt lên bờ, ra sức vẫy vùng, máu từ vết thương chảy ra ào ào.
Trương Kiến Lương bình thản lau sạch con dao lên người hán tử, rồi đặt lại thớt thái thịt, sau đó lấy một điếu thuốc ra, sau đó như đồ tể bán thịt, ngồi ở quán thịt dê nhìn người xung quanh, cứ như là người ta tới mua thịt.
Người xem thịt nhiều, người mua thịt chẳng có một ai.
Thuế quan đứng trong đám đông nuối tiếc nhìn Trương Kiến Lương, vốn định đi rồi, rốt cuộc quay lại nói:” Đi đi, quan trị an nơi này không dễ làm đâu.”
Trương Kiến Lương lắc đầu:” Ta không tới làm quan trị an, ta đơn giản chỉ muốn báo thù.”
Thuế quan thở dài:” Hậu viện nhà ta có con ngựa, chẳng phải ngựa tốt, ta không muốn nuôi nữa, ngươi cần cứ dùng.”
“ Ông cứ nuôi đi, trên sa mạc không có ngựa thì khác gì không có chân.”
Thuế quan nghe vậy không nói gì thêm nữa, xoay người bỏ đi, trong mắt ông ta, viên thượng úy này kỳ thực tới đây để làm quan trị an rồi, hôm nay giết người để lập uy ở chợ phiên.
Trò này mỗi viên quan trị an nhậm chức đều làm.
Mặt trời dần ngả về phía tây.
Buổi chiều vùng tây bắc có gió nổi lên, cát bay mù mịt, chợ phiên vì thế cũng giải tán.
Người bán thịt dê bị Trương Kiến Lương phá đám, chẳng bán được con dê nào, hắn bực mình lắm, lấy hai con dê trên móc, vác lên lưng, cầm dao bỏ đi.
Chỉ còn lại tên mặc áo da dê treo lủng lắng ở đó.
Từ khi Đại Minh bắt đầu thực thi ( Luật tự trị miền tây) tới nay, phía bắc Trương Dịch thi hành cư dân tự trị, cứ tụ điểm dân cư 1000 người đều có một quan trị an.
Viên quan này thường do quân nhân thoái ngũ đảm nhiệm, quân đội cũng coi chức vụ này thành một loại phần thưởng.
Những binh sĩ đợt đầu thoái ngũ của hoàng triều Lam Điền cơ bản là một chữ bẻ đôi cũng chẳng biết, để họ về đương địa không thực tế, dù sao quan viên được bổ nhiệm trong hai năm qua thì biết chữ chính là điều kiện đầu tiên.
Những người đi theo Vân Chiêu tạo phản sớm nhất trừ luyện được một thân bản lĩnh giết người thì chả biết cái quái gì.
Quan trị an là trưởng quan hành chính lớn nhất ở những nơi này, nắm hết đại quyền hành chính, chấp pháp, có thể coi là công tác không tồi.
Nhưng mà người đọc sách cử tới sa mạc phía tây làm quan thì khó sống nổi một năm.
Quan viên bị giết, chắc chắn bị khép tội tạo phản, quân đội tới dẹp loạn, nhưng mà khi quân đội tới, người nơi này toàn là bách tính lương thiện, quân đội đi, quan viên lại chết vô duyên vô cớ.
Dù là lệnh mười giết một hay khoanh vùng đồ sát thì chẳng nghĩa lý gì ở nơi này hết, cứ giằng co thời gian dài, hoàng đình Lam Điền nhận ra, quản lý phía tây thật quá tốn kém.
Lại bộ không muốn phái tinh anh trong nước đi nạp mạng nữa.
Quan viên không tới, mà đế quốc chỉ có yêu cầu duy nhất ở những nơi này là thu thuế, không thể để vùng tây bắc ở vào trạng thái vô chính phủ thời gian dài. Dưới cục diện đó ( Luật tự trị miền tây) xuất hiện, nơi này dân phong hung hãn, lại không cải tạo nổi, vậy chỉ còn đường lấy võ lực giải quyết.
.......
Tại sao luôn là miền Tây nhỉ, ví dụ miền Tây của Mỹ, miền Tây của TQ đều là nơi không pháp luật.