Phía bắc Đan Thát là vùng đất cực lạnh, phía nam là Đại Mạc. Đan Thát vốn là nơi thảo nguyên rộng lớn người thưa, ít thành trì. Đây là một vùng lãnh thổ kéo dài từ đông sang tây, nhưng hẹp theo chiều nam bắc.
Trong “Bản đồ chú giải tập hợp về kinh thủy Đại Mạc” dù không mô tả quá chi tiết nhưng có một bản đồ địa hình được vẽ rất tỉ mỉ. Cố Nghi đã xem qua hàng chục lần, thuộc lòng từng đường nét của bản đồ đó.
Vị trí hiện tại của cô có lẽ nằm giữa Điệt Thành và Vương Đô, nếu đi về hướng đông nam qua thảo nguyên sẽ đến một thành trì biên giới của Đan Thát tên là Quả Thành. Tuy Quả Thành không có chợ buôn bán trà ngựa như Điệt Thành, dân cư cũng thưa thớt hơn nhưng khoảng cách giữa Quả Thành và Yến Thành của Đại Mạc không xa, chỉ cách một rào chắn tự nhiên là Hổ Khâu.
Yến Thành là một nơi cô đã đánh dấu trong bản “Bản đồ chú giải tập hợp về kinh thủy Đại Mạc” mà cô tặng cho Cố Chiêu. Yến Thành tuy nhỏ nhưng thương nhân buôn ngựa từ Đan Thát và Đại Mạc qua lại thường xuyên, cũng là một thành nhỏ đầy đủ mọi thứ cần thiết.
Ngoài thành còn có một ngôi mộ cổ được ghi chép trong “Bản đồ chú giải tập hợp về kinh thủy Đại Mạc”, bởi vì tương truyền trăm năm trước, người trong mộ đã chết rồi lại sống lại, bị chôn vùi mấy tháng mà vẫn leo ra khỏi huyệt mộ, sống sót kỳ diệu. Không rõ đây là sự thật hay chỉ là chuyện bịa đặt của hậu thế.
Cố Nghi đã đặc biệt ghi chú đoạn này trong bản sao chép cho Cố Chiêu. Ngoài Yến Thành, cô cũng đánh dấu kỹ càng hai thành trì khác ở phía nam, cả hai đều có những truyền thuyết ly kỳ về người “chết đi sống lại” hoặc “thoát chết”.
Cô đã tính toán sẵn rồi, nếu có thể vượt qua điểm cuối cùng của cốt truyện vào ngày mười lăm tháng mười, đúng lúc diễn ra lễ phong hậu trong nguyên tác, cô sẽ từ Quả Thành vượt qua Hổ Khâu đi về Yến Thành ở phía nam rồi quay về kinh thành gặp Tiêu Diễn.
Nếu không thể sống sót qua thời điểm mười lăm tháng mười, một khi mọi thứ đều diễn ra theo nguyên tác thì cô sẽ chết tại chỗ và quay lại từ đầu. Dù khi đó mọi người đều nghĩ rằng cô đã chết ở Đan Thát, ít ra cô cũng để lại một chút manh mối cho Cố Chiêu, hy vọng rằng với manh mối này thì cậu có thể để lại cho Tiêu Diễn chút hy vọng, nghĩ rằng cô vẫn còn sống, chỉ là đã bỏ trốn chứ không thực sự đã chết.
Cố Nghi không muốn lại một lần nữa phải chết trước mặt Tiêu Diễn.
Nếu thực sự như lời Cáp Mộc Nhĩ nói, Tiêu Diễn ngày đó đã bỏ cô lại, chọn cứu con gái của Triệu Kiệt là Triệu Uyển, cuối cùng vẫn phong Triệu Uyển làm hậu như trong nguyên tác. Vậy thì cho dù cô còn sống thì cô cũng sẽ không quay về nữa!
Tên Tiêu Chó kia, nếu thật sự như vậy thì từ nay về sau anh sẽ đánh mất tôi mãi mãi!
Cố Nghi cứ thế khi thì vui mừng, khi thì buồn bã suy nghĩ mông lung suốt đêm, không dám dừng lại, cưỡi ngựa từ đêm đến rạng sáng.
Bình minh như lửa, ánh vàng rực rỡ làm bừng sáng cả thảo nguyên.
Cô đưa mắt nhìn quanh, thấy thấp thoáng phía trước có vài chiếc lều bạt màu trà nhạt.
Cố Nghi ghìm ngựa, quan sát từ xa một hồi. Đợi đến khi mặt trời vàng nhô lên khỏi đường chân trời, cô mới từ từ thúc ngựa tiến về phía một căn lều, nơi có một người phụ nữ cùng hai đứa con trai còn nhỏ.
Người phụ nữ bước ra ngoài nhìn thấy Cố Nghi đang dắt ngựa thì ngây ra một lát. Khuôn mặt bà ấy tròn trịa, da ngăm đen do phơi nắng, bước đi nhanh nhẹn, ăn mặc như dân du mục với chiếc áo dài trắng xanh buộc thắt lưng màu xanh lam.
Cố Nghi vội chỉ vào chiếc áo dài màu xanh lam treo bên ngoài của bà ấy rồi nhét vào tay bà ấy mấy đồng tiền đồng.
Người phụ nữ hiểu ra, lấy áo cho cô.
Cố Nghi đón lấy, nói một tiếng: “Đa tạ.”
Người phụ nữ nhìn cô rồi hỏi: “Cô muốn đi đâu?”
Cố Nghi đáp: “Ta muốn đến Quả Thành.” Rồi bổ sung: “Đi tìm người thân.”
Người phụ nữ thấy cô trẻ trung xinh đẹp lại đi một mình, nghĩ ngợi một lát rồi nói: “Ở đây có một đoàn buôn ngựa chuẩn bị đi Quả Thành. Nếu cô muốn thì có thể thêm một ít tiền, cùng đi với bọn họ.”
“Vậy thì tốt quá rồi! Ta đương nhiên muốn!”
Cố Nghi vốn đã không có ý định đi một mình, những vùng hoang vắng trên thảo nguyên thường có nhiều thú dữ, cô dù đã thuộc bản đồ nhưng khó đảm bảo sẽ không lạc đường. Ban đầu cô định tìm người đồng hành đi đến Quả Thành, nay có đoàn buôn ngựa đi thẳng đến đó thì không còn gì tốt hơn.
Người phụ nữ gật đầu, quay lại gọi: “Thác Gia!”
Một thiếu niên chừng mười mấy tuổi chạy ra từ trong lều.
“Đây là con trai cả của ta, Ba Thác Gia, lần này nó cũng sẽ đi theo đoàn buôn đến Quả Thành, sau giờ Ngọ cô sẽ đi cùng nó. Ta tên là Ô Nạp Mộc.” Bà ấy ngước nhìn mái tóc rối bời của Cố Nghi, một lúc sau cũng không biết nên gọi cô là phu nhân hay cô nương, đành hỏi: “Cô tên gì?”
Cố Nghi tất nhiên không thể báo tên thật, cô muốn tự đặt cho mình một cái tên mang chút phong vị Đan Thát, đậm chất ngoại quốc, nhưng nghĩ một lúc cũng không nghĩ ra được. Thấy Ô Nạp Mộc trước mặt tỏ vẻ nghi hoặc, cô buột miệng nói: “Ta tên là Pikachu.”
Ô Nạp Mộc không mấy để ý, lặp lại: “Pikachu.”
Cố Nghi nghiêm túc gật đầu.
Ô Nạp Mộc nghiêng người, quyết định gọi cô là: “Pi cô nương, còn một lúc nữa mới lên đường, cô có muốn vào lều thay áo không?”
Cố Nghi đã muốn tắm rửa từ lâu, nhưng không tiện tự mình đề xuất, nghe thấy vậy lập tức cảm kích nói: “Đa tạ! Phiền Ô nương tử quá!” Cô buộc ngựa bên ngoài cọc rồi bước vào trong lều.
Ô Nạp Mộc giúp cô đổ đầy một thùng nước nóng, dẫn hai con trai ra ngoài.
Cố Nghi không biết chồng bà ấy đã đi đâu, cô nghĩ có lẽ là ra trận nên cũng không hỏi thêm.
Được ngâm mình trong nước ấm thoải mái, cô gội đầu rồi lau khô, mặc lại lớp áo trong và áo giáp vàng vào, khoác thêm áo choàng xanh lam vừa nhận được, thắt chặt thắt lưng, trông chẳng khác gì một phụ nữ Đan Thát.
Trước khi ra ngoài, Ô Nạp Mộc dặn dò cô chăm sóc Ba Thác Gia trên đường, vì đây là lần đầu tiên cậu bé đi xa để buôn ngựa.
Ba Thác Gia cao hơn cô nửa cái đầu, làm theo lời Ô Nạp Mộc dặn, nhỏ giọng gọi cô một tiếng: “Pi tỷ tỷ.”
Cố Nghi đáp lại rồi cùng Ba Thác Gia gia nhập vào đoàn buôn ngựa đi về Quả Thành.
Đoàn đi không chậm, trong nửa tháng đã đi được nửa quãng đường. Trên đường họ gặp một nhóm nhỏ thương nhân buôn ngựa, trước đó đóng quân gần Vương Đô, nhưng nay chạy trốn về phía nam trong đêm. Cố Nghi mới biết rằng quân Đại Mạc đã tiến đến ngoài thành Vương Đô từ năm ngày trước.
Tiến độ công phá Vương Đô của Đại Mạc dường như còn nhanh hơn trong sách.
Thảo nguyên vào giữa tháng chín đã không còn cái nóng của mùa hè, đêm xuống càng lạnh hơn nhiều.
Nghe tin này, đoàn buôn cũng không khỏi tăng tốc, hướng thẳng về Quả Thành ở phía nam.
Khuôn mặt non trẻ của Ba Thác Gia hiện lên chút lo lắng: “Nếu Vương Đô thật sự thua trận này, binh lính trên thảo nguyên sẽ trở thành giặc cướp, tấn công cướp bóc đoàn buôn…”
Do thời chiến, đoàn ngựa thiếu những người đàn ông khỏe mạnh, đa phần đều là phụ nữ và thanh niên cỡ tuổi Ba Thác Gia.
Cố Nghi trấn an cậu bé: “Chúng ta đi nhanh chút, đến Quả Thành sớm sẽ không gặp phải bọn họ.”
*
Đội quân Đan Thát bảo vệ thành Vương Đô thực sự sắp thất bại.
Họ không ngờ quân Đại Mạc lại đến nhanh đến thế, như cơn cuồng phong đánh thẳng vào trung tâm đất nước.
Sau trận chiến Điệt Thành, quân Đan Thát đã bị tổn thất nặng nề, sĩ khí suy giảm.
Trong thành Vương Đô, dù đại vương vẫn còn ngồi đó, nhưng các con trai của ông ta ngay cả trong thời khắc nguy cấp này vẫn đấu đá tranh giành, ngấm ngầm giữ lại thực lực để chờ sau trận này, khi đại vương qua đời sẽ tranh đoạt ngôi vị.
Bọn họ không hề hay biết rằng trong quân Đại Mạc có Vu Đại – người thông thạo địa hình Vương Đô, cùng với mười vạn quân vừa bổ sung quân số sau trận thắng đang khao khát chiến thắng, tấn công bằng cung tên và hỏa thạch ngày đêm không ngừng nghỉ.
Người Đan Thát giỏi chiến đấu trên lưng ngựa nhưng phòng thủ thành không phải sở trường của họ, vì vậy Vương Đô đang trong tình trạng cực kỳ nguy cấp.
Đúng vào thời điểm hỗn loạn, đại vương tử của Đan Thát là Nạp Hô Nhi đột ngột qua đời, khiến lòng dân trong Vương Đô càng rối loạn.
*
“Đã tìm được tung tích của Cáp Mộc Nhĩ chưa?” Tiêu Diễn mặc áo giáp bạc ngồi trên ngựa, hỏi Vu Đại bên cạnh.
Vu Đại nhìn con chim ưng đen đang bay lượn trên cổng thành rồi khẽ lắc đầu: “Vẫn chưa.” Ông ta chần chừ nói thêm: “Nạp Hô Nhi chết rồi mà vẫn không thấy hắn xuất hiện… Bệ hạ nghĩ Cáp Mộc Nhĩ thực sự ở trong Vương Đô ư?”
Họ đã đi xuyên qua rừng rậm, băng qua thảo nguyên phía bắc, trên đường thấy nhiều đống lửa cháy dở nhưng vẫn không bắt gặp bóng dáng Cáp Mộc Nhĩ đâu khiến Vu Đại không dám khẳng định dấu vết đó thực sự là của ông ta.
Mấy ngày qua, chim ưng mà ông ta thả ra cũng không tìm thấy chim ưng của những người nuôi chim khác.
Tiêu Diễn lại nhìn về phía cổng thành Vương Đô đang lung lay dưới trận hỏa công, nói: “Hắn ở hay không ở, thành vỡ sẽ biết.”
Phía trước truyền đến vài tiếng nổ lớn, hai cánh cửa đá bị đá tảng ném trúng, nứt vỡ ầm ầm, từng mảnh đá cùng bụi bay khắp nơi.
Tiếng ngựa hí vang trời, tiếng đao thương va chạm dồn dập, đội kỵ binh Đại Mạc che giáp tiến lên, phá thành xông vào.
Gương mặt Tiêu Diễn thoáng hiện lên chút sắc đỏ dưới ánh lửa, hắn thúc mạnh ngựa lao thẳng về phía cổng thành. Vu Đại lập tức thúc ngựa theo, thấy Tiêu Diễn vượt qua đống đổ nát ở cổng phi thẳng về phía đông, trong lòng liền kinh hãi, vội vàng đuổi theo.
Đi qua con phố hoang vắng, biểu tượng của gia tộc Cáp thị hiện ra phía xa, là một đầu chim ưng được khắc trên cổng đá, nhưng trải qua bao năm mưa gió chỉ còn lại một nửa. Ngôi nhà cũ đã lâu không có người ở, sau cổng đá chỉ toàn cỏ dại mọc um tùm.
“Cữu cữu có còn nhớ căn hầm của ngôi nhà này ở đâu không?” Tiêu Diễn xuống ngựa, quay lại hỏi Vu Đại.
Vu Đại nhớ rằng trong ngôi nhà này có một căn hầm để chứa rượu ủ, khi còn nhỏ ông ta từng cùng Cáp Mộc Nhĩ lén xuống đó trộm rượu uống.
Ký ức đã phủ bụi lâu nay bỗng hiện về rõ ràng, mọi vật trong ngôi nhà này, từ cây cỏ cho đến hòn đá nhỏ đều hiện lên trong tâm trí của Vu Đại.
Khi nghĩ đến điều này, trong lòng ông ta lại thầm mong rằng Cáp Mộc Nhĩ sẽ không ở đây như Tiêu Diễn đã đoán.
Mong muốn vừa nảy ra, bước chân Vu Đại bỗng nặng tựa ngàn cân, nhưng ông ta vẫn phải từng bước tiến về lối vào hầm rượu.
Trên tấm đá vuông vức đã phủ đầy rêu, những bụi cỏ xanh xen lẫn nhau nhưng ở rìa có dấu tay in trên lớp bụi.
Vu Đại ngừng bước, thấy Tiêu Diễn đã đứng ngay sau mình.
Ông ta cúi người di chuyển tảng đá, đứng dậy nhìn Tiêu Diễn, thốt lên: “A Diễn…”
Đôi mắt nâu đậm như ngọc lưu ly của Tiêu Diễn khẽ chớp: “Cữu cữu có chuyện gì muốn nói?”
Vu Đại thấy gương mặt lạnh lùng của hắn, bỗng nghẹn lời.
Ông ta đã thấy rõ sự sốt ruột của Tiêu Diễn trên chặng đường này. Nếu Cáp Mộc Nhĩ thực sự đã bắt cóc Nhu tần… Nếu Nhu tần thật sự đã chết…
Ông ta biết rằng sẽ không còn cơ hội nào để cứu vãn nữa.
Tiêu Diễn bước qua ông ta, tiến xuống bậc thang đá.
Trong hầm rượu, một ngọn đèn đang cháy mờ ảo, trong ánh sáng yếu ớt, Cáp Mộc Nhĩ nửa ngồi tựa vào tường.
Dù ánh đèn chỉ soi một nửa gương mặt thì trông gương mặt ông ta vẫn trắng bệch, nhìn thấy Tiêu Diễn bước xuống bậc thang, ông ta cười nhạt: “Bệ hạ, ngươi cũng tìm đến tận đây rồi.” Nhìn ra phía sau thấy Vu Đại cũng theo vào, ông ta liền mỉa mai: “Hóa ra là theo nội ứng đến à.”
Vu Đại nghe ông ta mỉa mai, trong lòng nóng ran.
Trông tình trạng của Cáp Mộc Nhĩ thật sự rất tệ.
Tiêu Diễn tiến đến trước mặt ông ta, chậm rãi hỏi: “Nhu tần đâu?”
Cáp Mộc Nhĩ ngẩng đầu, cười khinh bỉ: “Chết rồi.”
Lời nói vọng lại trong hầm rượu, từng tiếng rõ ràng.
Vu Đại nghe mà kinh hoảng, bước lên một bước, nhưng kiếm của Tiêu Diễn đã nhanh hơn, kề ngay bên cổ Cáp Mộc Nhĩ.
“Trẫm hỏi lại lần nữa, Nhu tần đâu?”
Vu Đại vội vàng xen vào: “Vương Đô đã thất thủ, ngươi còn cố chấp làm gì? Nhu tần nương nương đang ở đâu? Ngươi có giấu Nhu tần ở đâu không?”
Cáp Mộc Nhĩ lạnh lùng đáp: “Con tiện nhân đó hạ độc ta, đã bị ta giết chết từ lâu, bỏ xác ngoài hoang dã, lúc này chắc đã bị kền kền và sói hoang xé xác rồi.”
Ánh mắt Tiêu Diễn bỗng sáng lên, mũi kiếm nhẹ nhàng lướt qua cổ ông ta: “Nàng hạ độc ngươi? Vì vậy ngươi mới thảm hại thế này?”
Cáp Mộc Nhĩ trợn mắt, nghe Tiêu Diễn hỏi tiếp: “Ngươi trúng độc gì?”
Cáp Mộc Nhĩ không đáp.
Tiêu Diễn nhìn sắc mặt cứng đờ của ông ta, chậm rãi hỏi tiếp: “Nàng hạ độc ngươi khi nào? Ở trong thành à?” Ngừng một lát, hắn lại hỏi: “Hay trước khi vào thành?”
Cáp Mộc Nhĩ nghiến chặt răng, không nói một lời.
Tiêu Diễn cười khẽ hai tiếng: “Không nói cũng được.”
Thấy Tiêu Diễn thu kiếm lại, Vu Đại còn chưa kịp thở phào thì đã thấy lưỡi kiếm đâm thẳng vào vai trái của Cáp Mộc Nhĩ.
Tiêu Diễn lập tức rút kiếm ra, máu phun ra nhuộm đỏ tay áo xám của Cáp Mộc Nhĩ.
“Hôm nay nể mặt cữu cữu, trẫm tha mạng cho ngươi, nhưng nhát kiếm này là vì Đáp Chu, những gì ngươi nợ bà ấy, hôm nay trả bằng một nhát kiếm này.”
Cáp Mộc Nhĩ nghiến răng tức giận, gào lên: “Không! Là ngươi nợ muội ấy, chính là ngươi! Vậy nên Đáp Chu mới chết ở Đại Mạc!”
Tiêu Diễn cúi đầu tra kiếm vào vỏ, quay người rời đi, không liếc nhìn Cáp Mộc Nhĩ thêm lần nào nữa.
Vu Đại nhìn ông ta lần cuối, thở dài một hơi rồi bước lên bậc thang, cùng Tiêu Diễn ra khỏi hầm.
Ba ngày sau, đại vương Đan Thát đột tử trong cung, nhị vương tử Nạp Đà vừa lên ngôi được nửa ngày thì bị chém ngã ngựa trước trận, từ đó Đan Thát càng lụn bại không gượng dậy nổi..
Ngày hai mươi tháng chín, quân Đan Thát ở Vương Đô buông vũ khí đầu hàng, Đan Thát trở thành chư hầu của Đại Mạc.
*
Đoàn ngựa cuối cùng cũng sắp đến Quả Thành.
Cố Nghi đã thúc ngựa chạy liên tục nửa tháng, cơ thể đã có phần không chịu nổi, càng tệ hơn là cô cảm thấy bụng dưới nặng trĩu, có dự cảm không lành rằng bà dì sắp đến thăm.
Nhìn thấy Quả Thành gần ngay trước mắt, đoàn buôn ngựa giảm tốc độ đôi chút để cho ngựa được nghỉ ngơi, nhằm bán được giá tốt hơn.
Quá trưa, khi cả đoàn đang thả ngựa ăn cỏ trên thảo nguyên thì từ xa vang lên tiếng vó ngựa hỗn loạn đang ngày càng tiến gần, âm thanh dồn dập như tiếng sấm.
Một thương nhân có kinh nghiệm trong đoàn hét lên: “Mau chạy về Quả Thành! Là bọn cướp ngựa!”
Cố Nghi sợ đến mức vội vàng leo lên ngựa, nhìn thấy Ba Thác Gia bên cạnh cũng đang hốt hoảng trèo lên ngựa.
Đoàn ngựa bắt đầu phóng nhanh về phía Quả Thành.
Lúc này khoảng cách đến Quả Thành chỉ còn chưa đầy một canh giờ, nhưng bọn cướp lại đến càng nhanh, đã bắt đầu giương cung bắn tên phía sau, đến gần hơn thì ném cả dây thừng để bắt ngựa.
Ba Thác Gia giật dây cương, định quay lại đuổi đàn ngựa của mình đi, Cố Nghi thấy vậy liền quát lớn: “Lúc này chỉ có thể tiến lên phía trước! Không thể quay lại! Ngươi cần mạng hay cần ngựa?”
Mắt Ba Thác Gia đỏ hoe, nhưng cũng ngừng động tác lại.
Khi quay đầu lại, mấy người quay lại bắt ngựa đều đã bị bọn cướp bắn trúng.
Cố Nghi và Ba Thác Gia càng lúc càng quất mạnh dây cương, thúc ngựa chạy trốn.
Bọn cướp không chỉ muốn số ngựa không chủ.
Khi cổng Quả Thành đã thấp thoáng trong tầm mắt, bọn cướp phía sau vẫn không có dấu hiệu bỏ cuộc.
Trên lưng ngựa dằn xóc dữ dội, bụng Cố Nghi càng lúc càng đau, mồ hôi lạnh đã phủ kín trán, đầu óc choáng váng, cơ thể lắc lư như không thể trụ vững.
Ba Thác Gia lo lắng gọi lớn: “Pi tỷ tỷ!”
Cố Nghi lập tức tỉnh lại, cố sức nắm chặt dây cương, ngồi thẳng người lên.
Phía xa, cổng Quả Thành chầm chậm mở ra, một đội thị vệ cưỡi ngựa mặc quan phục của Đại Mạc mang đao phi ra ngoài. Phía sau là một cỗ xe ngựa bốn ngựa từ từ tiến ra, trên nóc xe có cắm lá cờ “Trà” biểu tượng của quan phủ.
Chỉ nghe dường như bọn cướp ở phía sau đã dừng ngựa, lòng Cố Nghi vui mừng khôn xiết, thúc ngựa lao về phía cổng thành.
Khi đến cổng, thị vệ chặn cô và Ba Thác Gia lại, hỏi: “Kẻ đến là ai?”
Chiếc xe ngựa phía sau cũng dừng lại.
Cố Nghi kéo dây cương, ngã nhào khỏi ngựa, vừa đặt chân xuống đất thì cảm thấy đôi chân mềm nhũn, cơ thể ngã xuống đất, ngất đi vì kiệt sức.
Ba Thác Gia kêu lớn: “Pi tỷ tỷ!” rồi cũng trượt xuống ngựa, chạy đến đỡ lấy cô.
Người ngồi trong xe nghe thấy động tĩnh liền vén màn xe đen lên, thoạt đầu nhìn về phía cậu thiếu niên mặt lộ vẻ hoảng sợ, sau đó hướng ánh mắt về bóng người trên mặt đất, lập tức kinh ngạc.
Cố Nghi?
Ba Thác Gia ngẩng đầu, chỉ thấy một người đàn ông mặt mày tuấn tú bước từ trên xe xuống, mặc áo dài tay đen, trước ngực thêu đôi chim vàng, có vẻ là quan phục, đang bước nhanh về phía họ.
Cậu bé không dám nhúc nhích, chỉ có thể đề phòng nhìn anh ta.
Chu Đình Hạc đứng trước mặt hai người, cẩn thận nhìn rõ gương mặt cô.
Anh ta không khỏi sững sờ, đây quả thật là Cố Nghi, sao cô lại ở đây?