Tiếng vó ngựa rền rĩ như mưa rơi, đoàn xe đi qua con phố dài trong thành và dừng lại trước cổng cung Chu Tước.
Chu Đình Hạc bước xuống xe, men theo con đường hẹp tiến vào, vừa ngẩng đầu lên đã thấy mặt trời vừa ló dạng ở phía đông.
Ánh mặt trời đỏ rực chiếu sáng những mái ngói xanh xếp chồng lên nhau, kéo dài đến vô tận.
Cố Nghi vốn không hề muốn đến nơi này. Năm đó khi tiến kinh dự tuyển, cô vốn không muốn về phương Bắc.
Hôm qua, thoáng nhìn thấy Cố Nghi bên ngoài Thiên Lộc các, Chu Đình Hạc thấy đầu cô cài trâm hoa của cung phi, đứng đón gió nơi đó. Dù khuôn mặt vẫn như trước, nhưng trong ánh mắt cô không hề có niềm vui.
Ngay cả khi tình cờ gặp lại Cố Trường Thông, trong mắt cô vẫn lộ ra vẻ lo lắng mơ hồ.
Có lẽ Cố Nghi trong cung sống không hạnh phúc. Nếu không phải vì anh ta thì Cố Nghi có lẽ đã không phải vào cung.
Nghĩ đến đây, đôi tay giấu trong ống tay áo của Chu Đình Hạc không khỏi siết chặt. Nếu như Cố Nghi không vào cung… nếu như vậy…
Thái giám áo xanh dẫn đường quay đầu lại, thấy Chu Đình Hạc đi chậm rãi, liền lên tiếng nhắc nhở: “Chu công tử, đi thêm một lát nữa là đến tiền điện. Giờ này hoàng thượng vừa hạ triều, các đại thần đều đi ra từ con đường này, công tử mau bước nhanh lên, bệ hạ đang đợi ở Thiên Lộc các.”
Chu Đình Hạc nghe vậy, lập tức hoàn hồn, nói “Đa tạ công công” rồi vội vã bước nhanh.
Cao Quý công công đứng bên ngoài Thiên Lộc các, thấy Chu Đình Hạc bước lên bậc thềm đỏ, không khỏi nhìn anh ta một cái. Quả nhiên là một thư sinh trắng trẻo tuấn tú.
Chậc.
Ông ta nở nụ cười và nói: “Chu công tử, chờ một lát, để nô tài vào bẩm báo.”
Chu Đình Hạc cúi chào: “Làm phiền Cao công công.”
Cao Quý công công cười cười, rồi quay người bước vào Thiên Lộc các. Hoàng đế đang ngồi trong điện, y phục hoàng bào sáng chói vẫn chưa cởi, trên ngực là hình rồng năm móng, đôi mắt rồng mở to.
Lúc này hắn không lật sách, cũng không cầm bút, chỉ ngồi đó khoan thai chờ Chu Đình Hạc.
Cao Quý công công vừa định mở miệng thì nghe hoàng đế hỏi: “Chu Đình Hạc đến rồi à?”
Cao Quý công công khẽ cười: “Bẩm bệ hạ, đúng vậy.” Rồi ông ta đứng vững bên cạnh cây cột sơn đỏ phía trước điện, trong lòng thầm nghĩ, hôm nay mình chắc chắn sẽ có trò hay để xem!
“Truyền vào.” Hoàng đế cất giọng.
Cao Quý công công vừa định cao giọng xướng tên thì hoàng đế lại nói: “Ngươi đi ra ngoài.”
Trong lòng ông ta cảm thấy thất vọng, cúi người rút lui ra ngoài, nói với Chu Đình Hạc: “Chu công tử vào đi.”
Chu Đình Hạc chỉnh lại áo bào, cúi đầu bước vào điện.
Cánh cửa điện phía sau anh ta kêu lên một tiếng “két” rồi khép lại.
Anh ta quỳ xuống, dập đầu hành lễ: “Thảo dân Chu Đình Hạc tham kiến hoàng thượng.”
Tiêu Diễn chăm chú nhìn người đang quỳ dưới bậc thềm, hôm qua không nhìn kỹ, giờ gặp lại, thấy anh ta gầy gò thanh tú, khí chất phi phàm.
Chu Đình Hạc.
Cốt cách của hạc, dáng đứng tựa tùng à…
Chu Đình Hạc quỳ lâu mà không nghe thấy lời nào, đợi gần hết một nén nhang mới nghe hoàng đế từ tốn nói: “Bình thân.”
“Tạ bệ hạ.”
Chu Đình Hạc đứng dậy, khẽ ngẩng đầu thì thấy hoàng đế đang từ trên cao nhìn xuống anh ta: “Ngươi là người Phủ Châu?”
“Thảo dân… nguyên quán ở Thanh Châu, nhưng khi còn nhỏ đã cùng gia đình dời về Phủ Châu, sống đã hơn mười năm, cũng coi như là người Phủ Châu.”
“Tại sao ngươi không làm quan? Đã từng dự thi chưa?”
Chu Đình Hạc không biết vì sao hoàng đế lại hỏi vậy, nghĩ một lát rồi mới trả lời: “Thương nhân dù thuộc hàng cuối, nhưng thảo dân cảm thấy buôn bán tự do hơn.”
Tự do…
Sắc mặt Tiêu Diễn dần tối lại. Cố Nghi vốn thích sự tự do này của anh ta sao…
“Ngươi… đã kết hôn chưa?”
Chu Đình Hạc ngạc nhiên trong giây lát, một cảm giác bất an trào dâng trong lòng, bèn thật thà đáp: “Thảo dân chưa kết hôn…”
“Vậy đã từng có hôn ước chưa?” Hoàng đế chậm rãi hỏi tiếp.
Chu Đình Hạc khẽ nhắm mắt, trong lòng đã hiểu ra. Hoàng đế đã biết chuyện quá khứ của anh ta và Cố Nghi.
Là Cố Nghi nói cho hắn biết sao?
Thấy Chu Đình Hạc im lặng không trả lời, cơn giận trong lòng Tiêu Diễn bỗng nhiên dâng trào.
Thì ra là thế.
Cố Nghi đã nói rất thẳng thắn, nhẹ nhàng, hắn vốn không nên hỏi thêm. Nhưng… hắn vẫn muốn gặp Chu Đình Hạc một lần nữa, muốn nghe về cái gọi là “trẻ dại ngây ngô” trong câu của Cố Nghi, rốt cuộc là loại tình cảm như thế nào…
Trong đại điện lặng thinh một hồi lâu, Chu Đình Hạc càng cảm thấy bầu không khí ngột ngạt như một cơn bão sắp đến.
Anh ta cúi đầu bái lạy lần nữa: “Thảo dân không có hôn ước, thảo dân tuy có quen biết Cố… Mỹ nhân từ trước, nhưng chưa từng bàn đến chuyện hôn nhân, là thảo dân vô phúc…”
Tiêu Diễn nhìn anh ta cúi đầu, mặt không còn chút máu, nói: “Trẫm nghe nói Cố Nghi từng gửi thư cho ngươi, vậy… thư đó còn không?”
Chu Đình Hạc chỉ có thể bái lạy lần nữa, nhưng không trả lời.
Lửa giận trong lòng Tiêu Diễn càng dâng cao: “Nếu ngươi không nói tức là dối vua.”
Lưng Chu Đình Hạc cứng đờ, im lặng trong giây lát rồi nói: “Vẫn còn.”
Thái dương của Tiêu Diễn giật mạnh, một cảm giác ghen tuông lạ lẫm cuốn chặt lấy hắn.
Ghen tuông.
Đây là điều hắn luôn căm ghét nhất, sự ghen tuông quẩn quanh trong hậu cung.
Hắn chỉ nghe giọng mình lạnh lùng vang lên, hỏi: “Ngươi có nhớ thư đó viết gì không?”
Nhớ chứ, anh ta tất nhiên vẫn nhớ.
Những tình cảm chân thành mà Cố Nghi gửi gắm qua bài thơ “Lau sậy”, tình ý ngày xưa của Cố Nghi, anh ta chưa bao giờ quên.
Chu Đình Hạc nghe vài tiếng bước chân nhẹ vang lên, hoàng đế đã bước xuống bậc thềm.
Tà áo vàng chói lọi đã ở ngay trước mắt.
Anh ta cúi mình cung kính, không dám đứng dậy.
Hoàng đế từ trên cao lạnh lùng nhả ra từng chữ một, hỏi: “Trong thư viết gì, ngươi nói cho trẫm nghe.”
Vừa nghe thấy giọng điệu ấy, lưng Chu Đình Hạc lạnh toát.
Môi Chu Đình Hạc mấp máy, một lúc sau, từng chữ từng câu phát ra: “Sậy lau khô héo úa tàn, sương sa trắng xóa phủ ngàn đồng hoang. Ngược dòng tìm bóng người thương, đường đi trắc trở, muôn phần gian nan…”
Anh ta vừa đọc xong, bên tai chỉ nghe thấy hoàng đế bật cười thành tiếng: “Lau sậy…”
Lau sậy.
Tiêu Diễn chỉ cảm thấy vị đắng lan tràn nơi cổ họng.
Bài thơ lau sậy này.
Hắn vốn nghĩ rằng Cố Nghi không giỏi diễn đạt, vì vậy trong thư gửi chỉ toàn là những bài văn tầm thường như thơ về hạt dẻ mùa thu.
Không ngờ, cô không phải không giỏi diễn đạt, mà chỉ là không muốn nói với hắn, chỉ qua loa với hắn mà thôi.
Khá khen cho một tuổi trẻ nông nổi, khá khen cho một sậy lau khô héo úa tàn.
Chu Đình Hạc đứng tại chỗ, khẽ ngẩng đầu, thấy sắc mặt hoàng đế lạnh lẽo như băng, anh ta thậm chí cảm nhận được sát khí bùng lên từ người hoàng đế.
Anh ta lập tức cúi đầu xuống: “Xin bệ hạ bớt giận.”
Chu Đình Hạc thấp thỏm chờ đợi, cúi người thật lâu, nhưng hoàng đế đột nhiên phất tay áo bỏ đi, để lại anh ta một mình đứng trong Thiên Lộc các.
Một lát sau, cánh cửa phía sau kêu “két” một tiếng, Cao Quý công công bước đến bên cạnh anh ta: “Chu công tử, hôm nay hãy về đi.”
Chu Đình Hạc thở dài nhẹ nhõm, đứng thẳng dậy, lưng và eo đã cứng đờ không chịu nổi nữa.
Cao Quý công công cười nói: “Công tử toát hết mồ hôi rồi, lau đi.”
Chu Đình Hạc đưa tay sờ thử, quả nhiên cổ sau đã ướt đẫm mồ hôi lạnh.
*
Vừa qua giờ Ngọ, Đào Giáp đến ngự thiện phòng để lấy bữa trưa, nhanh chóng quay lại cung Bình Thúy, thấy Cố Mỹ nhân đang cho cá ăn trong phòng khách.
Trời lạnh dần, Cố Mỹ nhân đã chuyển mấy con cá nhỏ trong bể ngoài sân vào trong nhà, nuôi trong một chiếc bể cạn bằng sứ trắng. Mặc dù bể nhỏ hơn, nhưng cá cũng nhỏ, bơi lội khá thoải mái.
Cố Nghi thấy Đào Giáp vừa vào bèn hỏi: “Hôm nay ngự thiện phòng vẫn không có cừu non à?”
Đào Giáp lắc đầu: “Đầu bếp ở ngự thiện phòng nói Ti thiện đã báo cáo rằng trước Tết sẽ không còn cừu non nữa.”
Cố Nghi “Ừm” một tiếng, mới vung mấy lần đã cho cá ăn hết, dùng khăn lụa lau nhẹ tay rồi hỏi tiếp: “Lần trước ngươi có nhắc đến chuồng ngựa ở ngự hoa viên, mấy hôm nay có còn trống không? Ta rảnh rỗi chẳng có gì làm, muốn đi tập cưỡi ngựa.”
Đào Giáp đặt hộp thức ăn xuống, ngạc nhiên nói: “Mỹ nhân thật sự muốn đi cưỡi ngựa ạ? Trời lạnh thế này, cưỡi ngựa khổ lắm.”
Cố Nghi cười: “Trường đua ngựa trong ngự hoa viên không lớn, chạy vài vòng cũng chỉ mất chút thời gian thôi. Bây giờ tập luyện, đợi đến mùa xuân, ta có thể phi ngựa trên sườn đồi, chẳng phải rất đẹp sao…”
Đào Giáp đành phải đáp: “Vậy ngày mai nô tì sẽ đến chuồng ngựa hỏi thử, chọn một con ngựa cái hiền lành cho Mỹ nhân luyện tập, còn phải đến Ti chế ti để xin bộ y phục cưỡi ngựa mới.”
Cố Nghi gật đầu, nhìn Đào Giáp lấy ra mấy món ăn trong hộp. Cô đưa tay sờ nồi canh tròn, thấy đã hơi nguội.
Đào Giáp thấy vậy, vẻ mặt lộ ra chút khó xử: “Tây Uyển thực sự hơi xa, cách ngự thiện phòng cũng không gần, lại là mùa đông nên canh nguội mất. Mỹ nhân đợi một lát, để nô tì đặt lên bếp than làm nóng lại đã.”
Cố Nghi bưng nồi canh lên, thuận tay đặt lên giá bếp than, nói: “Mùa này trời lạnh, đợi đến khi xuân về sẽ khá hơn thôi…”
Đào Giáp ngập ngừng một lát, rồi nói: “Mỹ nhân đã được phục hồi phẩm vị, tại sao không xin bệ hạ chuyển Mỹ nhân ra khỏi Tây Uyển?”
Tất nhiên là vì Tây Uyển hẻo lánh, có thể tránh xa thị phi trong cung.
Cố Nghi không muốn vướng vào những cuộc đấu đá vô ích trong hậu cung.
“Chẳng phải cung Bình Thúy rất tốt à? Cây sơn trà năm nay đã ra trái, còn cây anh đào bên viện bên cạnh chỉ cần dùng một cây sào là có thể hái được một nắm, thật tuyệt.”
Đào Giáp thở dài một tiếng: “Hôm nay nô tì nghe nói bệ hạ đã ban cho Uyển Quý nhân mới phong tước cung Kiêm Hà. Cung Kiêm Hà lâu rồi không có ai ở, giờ Uyển Quý nhân vào đó đã trở thành chủ nhân của cả một cung, lại gần tiền điện nữa…”
Cố Nghi chẳng tỏ ra ngạc nhiên chút nào, dù sao tất cả cũng đều là tình tiết trong truyện.
Đào Giáp thấy nét mặt cô không hề gợn sóng, ngạc nhiên hỏi: “Mỹ nhân có điều không biết, cung Kiêm Hà vốn là cung cũ của cố Thái hậu. Uyển Quý nhân được ở đây, khắp trong cung đều bàn tán, nói rằng đó là ân sủng lớn lao, biểu hiện rõ thánh ân vô hạn… Về sau…” Đào Giáp cắn môi, hỏi nhỏ: “Chẳng lẽ… chẳng lẽ Mỹ nhân thực sự không để tâm sao?”
Cố Nghi đứng trước bếp than, dùng kìm sắt chỉnh lại miếng than bạc sắp tắt trong bếp, rồi bình thản nói: “Mỗi người mỗi số mỗi phận, có những chuyện không thể cưỡng cầu.”
Cô nói xong liền mỉm cười nhìn Đào Giáp: “Đào Giáp, ngươi đã từng đến cung Kiêm Hà chưa? Chính điện lớn không?”
Đào Giáp hơi ngạc nhiên, rồi cũng bật cười: “Nô tì quả thực đã may mắn được đến đó một lần, chính điện ở cung Kiêm Hà rất sáng sủa, rộng hơn cung Lạc Anh nhiều…”
“Thật tuyệt…” Cố Nghi khẽ cười, lấy nồi canh đã được làm ấm lên, bọc trong vải lụa rồi cầm lên: “Dùng bữa thôi.”
Uyển Quý nhân ở cung Kiêm Hà, phong thái càng thêm vượt trội, không ai sánh bằng.
Giờ Tuất ba khắc, đèn lồng trong cung Kiêm Hà sáng rực.
Tám chiếc đèn lồng lục giác mới treo trước điện khẽ lay động trong gió.
Tố Tuyết vừa cùng cung nữ sắp xếp xong rương y phục cuối cùng, quay người vào điện, trình lên danh sách quà tặng của các cung cho Uyển Quý nhân.
Triệu Uyển mặc một bộ áo váy mới màu xanh lá nhạt, ngồi trong chính điện rộng lớn của cung Kiêm Hà, tâm trạng rối bời.
Được thánh ân như vậy, dù đều là những gì mà cô ấy từng khao khát nhưng trong lòng cô ấy lại trăn trở không yên.
Hoàng đế hôm qua hạ thánh chỉ phong cô ấy làm Quý nhân, nhưng hôm nay cô ấy đi tạ ân lại không được gặp hoàng đế.
Đến sau giờ Tỵ, lại một thánh chỉ ban cho cô ấy cung Kiêm Hà.
Một Quý nhân mà đã trở thành chủ nhân của cả một cung, mặc dù trước đó có tiền lệ là Vương Quý nhân, nhưng trong mắt mọi người, cô ấy chỉ là một cung nữ từ Hoán Y cục, làm sao có thể so sánh với Vương thị được.
Triệu Uyển càng nghĩ càng thấy lo lắng.
Tố Tuyết bước vào điện, cúi người nói: “Chúc mừng Quý nhân mới chuyển cung, các nương nương trong cung đều đã chuẩn bị lễ vật.” Nói rồi, cô ấy liền dâng danh sách lễ vật lên cho Triệu Uyển.
Triệu Uyển cầm lên xem, thấy rằng Tứ phi Đoan Kính Đức Thục đều có quà tặng, phía dưới là Quý nhân, Mỹ nhân.
Cô ấy xem xong một lượt, không thấy tên Cố Nghi, bèn hỏi: “Cố Mỹ nhân ở cung Bình Thúy dạo này thế nào?”
Tố Tuyết cười đáp: “Tây Uyển khá xa xôi, có lẽ Cố Mỹ nhân vẫn chưa biết tin Quý nhân chuyển cung.”
Triệu Uyển nhíu mày suy nghĩ một lúc rồi nói: “Ngày mai ngươi hãy đến cung Bình Thúy, mời Cố Mỹ nhân tới đây, nói ta muốn trò chuyện với cô ấy.”