Mùng năm tháng năm là Tết Đoan Ngọ.
Vào ngày này, người dân của thành Đông Kinh đều phải treo lá cây ngải cứu, xương rồng, cành đào, cành liễu trước cửa để xua đuổi tà ma, còn phải bày biện bánh chưng [1], bánh bao ngũ sắc, trà rượu để cúng bái thần linh.
[1] Bánh chưng Trung Quốc khác với bánh chưng truyền thống bên mình, của họ là hình tam giác còn bên mình là hình vuông.
Đầu tháng năm sẽ có nha lại của phủ Khai Phong đến dán hoàng bảng lên các cửa thành, thông báo từ hôm nay trở đi Kim Minh Trì và Vườn Lâm Uyển sẽ mở cửa đối ngoại. Mời học giả dân thường vào trong thăm quan, vùng ngoại ô phía tây của thành nhất thời đông đúc tấp nập người ghé chơi.
Ngày Đoan Ngọ này, quan gia ngồi xa giá vui chơi đến Kim Minh Trì xem đua thuyền rồng, tổ chức tiệc tùng cùng quần thần.
Sự kiện trọng đại như vậy tất nhiên không thể thiếu nhóm quan viên Hoạ viện tham dự. Việc họ cần làm đó là sao chép lại cảnh vua và quân thần, nhân dân vui vẻ hân hoa trên tranh lụa, để thế hệ sau ghi nhớ về triều đại thái bình thịnh vượng như hôm nay.
Vết thương trên tay Lương Nguyên Kính đã sớm lành lặn nhờ thuốc mỡ thần kỳ do ngự dược cục điều chế, chỉ là trên mu bàn tay còn để lại sẹo có hình giống như một con chim yến.
Mỗi lần A Bảo nhìn thấy vết sẹo đỏ nhạt kia cũng đều phải thở dài, tay đẹp như vậy lại bị phá hư, ngược lại với Lương Nguyên Kính không để ý cho lắm.
Hắn cũng nằm trong hàng ngũ quan viên Hoạ viên phụng chỉ dự tiệc.
Kim Minh Trì nằm ngoài cổng Thuận Tiên phía tây thành, còn hắn thì ở phía đông ngoài thành, hai bên đông tây cách nhau cả một tòa thành Đông Kinh. Vì để kịp giờ tham dự chỉ có thể xuất phát từ canh năm, dắt lừa đi bộ vào thành trong sương mù sáng sớm.
Mặt trời vừa nhô, người đi đường cũng xuất hiện ngày càng nhiều.
Quan lại người ta cưỡi ngựa đi ra ngoài, nữ quyến cầm cành liễu hoa tươi ngồi kiệu, trước sau đều có đám nô bộc đi theo, bá tánh thường dân đa số là cưỡi lừa hoặc con la, người bán hàng rong trên vai gánh đòn hàng hoá.
Còn có thiếu niên phong lưu đội mũ lụa mỏng ti tiện cợt nhã cưỡi ngựa đuổi theo ca kỹ.
Trước đây, hầu hết kỹ nữ đều cưỡi lừa đen, tuy nhiên nhờ A Bảo, địa vị kỹ nữ đột nhiên được đề cao, đi ra ngoài phần lớn đều cưỡi ngựa son, mặc quần áo mùa hè, đầu đội vòng hoa, đeo khăn che mặt, toát ra loại ph.óng đ.ãng lả lơi.
Người đi đường thấy Lương Nguyên Kính có lừa mà không cưỡi còn chọn cách đi bộ, xôn xao hiếu kỳ nhìn nhìn hắn.
A Bảo bị nhìn ngó chằm chằm có chút mất tự nhiên, nàng nói với người đang dắt lừa: “Lương Nguyên Kính, ngươi ngồi cưỡi đi đi.”
Nàng chỉ là quỷ hồn, vốn không cần cưỡi lừa.
Lương Nguyên Kính hơi nghiêng đầu nhìn nàng, nói: “Không cần đâu.”
Mặt trời tháng năm có hơi gay gắt, cho nên mọi người đều muốn nhân ngày Đoan Ngọ dùng nước ngải thảo nấu sôi tắm gội, để phòng ngừa muỗi độc.
Ngay cả người ngồi ngựa cũng đã đổ mồ hôi ướt mấy cái khăn, chứ đừng nói gì là Lương Nguyên Kính đang đi bộ, hai bên tóc mai hắn đã ướt đẫm mồ hôi, rơi xuống trúng vào vài sợi tóc, gương mặt cũng ửng lên màu hồng nhạt, hiển nhiên đã nóng đến mức không chịu nổi.
A Bảo sớm chiều ở chung với hắn hơn hai tháng, biết hắn ưa thích sạch sẽ, luôn tắm gội mỗi ngày, chưa bao giờ có lúc chật vật như bây giờ.
“Ngươi lên đây mau!” A Bảo nóng người nói, “Còn không lên để người khác kêu ngươi là đồ ngốc à!”
Có ai lại để lưng lừa trống trơn, còn mình thì đi bộ không?
Lại nói, Kim Minh Trì xa như vậy, chỉ dựa vào hai chân của hắn có đi đến trời tối cũng chưa đến nơi nữa là.
Lương Nguyên Kính nghĩ ngợi nói: “Phía trước chắc sẽ có chỗ cho thuê ngựa, ta có thể…”
Sắc mặt A Bảo nghiêm trọng cắt ngang: “Ta hỏi lại lần cuối, ngươi có lên không?”
Lương Nguyên Kính: “……”
“Thất lễ.”
Hắn vén áo choàng lên, lưu loát leo lên lưng lừa, sau đó nắm dây thừng đuổi lừa đi tới.
A Bảo ngồi phía trước, tựa như bị hắn dùng hai cánh tay ôm vào trong lòng, hai má không khỏi ửng đỏ, không mấy tự nhiên xê dịch lên trước.
“Đụng phải nàng sao?” Bên tai vang lên giọng nói hoà nhã.
“Không… Không có……”
A Bảo hơi lắp bắp đáp lại, đáy lòng đồng thời phát điên hò hét, ngươi lắp ba lắp bắp cái quái gì? Nói chuyện với hắn có gì đến mức bị cà lăm chứ!
Tuy nàng nói không có, nhưng nàng vẫn cảm nhận được Lương Nguyên Kính hơi lùi về sau một chút, khoảng cách giữa bọn họ có thể chứa thêm một người ngồi vào.
A Bảo cảm thấy trống rỗng, dưới đáy lòng lại hò hét tiếp, ngươi lui cái gì mà lui hả? Lưng lừa có rộng bao nhiêu đâu, lát nữa ngã chết ngươi cho xem!
Nhưng mà cuối cùng Lương Nguyên Kính cũng không có ngã xuống, bình an lên đường đi đến Kim Minh Trì.
Trên đường đi tới đây A Bảo phát hiện, năm nay người tới xem đua thuyền rồng đông hơn trước rất nhiều, một đường xe ngựa ồn ào huyên náo, lọng che như mây, liếc mắt nhìn toàn thấy đầu người, ngay cả chỗ đặt chân nghỉ ngơi cũng không có.
“Sao nhiều người dữ vậy?” A Bảo kỳ lạ hỏi.
Lương Nguyên Kính nhìn theo hướng nàng nhìn, giải thích cho nàng: “Đây là lần đầu tiên Kim Minh Trì mở cửa trong hơn ba năm qua.”
“Sao chứ?” A Bảo trợn mắt to kinh ngạc nói, “Vậy chẳng phải là…”
Dù nàng chưa nói xong, nhưng Lương Nguyên Kính đã kịp hiểu ý nàng, gật đầu nói: “Đúng vậy.”
Dựa theo lệ thường, Kim Minh Trì, Vườn Lâm Uyển vào mùng một tháng ba sẽ mở cửa cho mọi người vào, Ngự Sử Đài không thể giám quan, chuyện vui này kéo dài đến lễ tắm Phật mùng tám tháng tư mới kết thúc, là sự kiện long trọng đáng mong chờ nhất trong một năm của cư dân thành Đông Kinh.
Tuy nhiên, kể từ Hi Hoà năm thứ tư sau khi phế hậu Lý thị qua đời, Kim Minh Trì và Vườn Lâm Uyển đóng cửa cho đến nay, ngay cả cuộc đua thuyền rồng dịp Đoan Ngọ hằng năm cũng bị bãi bỏ.
Phía triều đình đưa ra lời giải thích do sức khoẻ Thánh Thượng không tốt, tất cả hoạt động mang tính giải trí có thể miễn đều miễn, làm cho bá tánh không dám rêu rao quá mức, đã trải qua nhiều năm Tết Đoan Ngọ quạnh quẽ.
Đến năm nay cuộc đua thuyền rồng được khôi phục trở lại, chắc là vì ăn mừng sắc lập Tiết Hoàng Hậu, cho nên quan gia mới mang theo tất cả hậu phi đến Kim Minh Trì vui chơi, để dân chúng thiên hạ tận mắt nhìn thấy tân Quốc mẫu của Quốc triều.
Cũng vì nguyên nhân này nên các bá tánh tới bên ngoài Kim Minh Trì cũng không vội vào trong, mà chỉ chen chúc đứng ngoài Song Tinh Môn, chờ ngự giá kho bộ quan gia đi qua.
Bốn phía Kim Minh Trì xây bằng gạch mài nước, trên tường mỗi bên mở hơn mười cánh cửa, Song Tinh Môn là cửa chính, ngày thường hàng năm đều đóng cửa, đến ngày hội cũng chỉ cho phép ngự giá, hoàng thân quốc thích, đế cơ phò mã, với cả đại thần tể phụ đặc biệt được quan gia cho phép ra vào, còn thường dân bá tánh đều phải đi bằng cửa khác.
Lương Nguyên Kính đi đường chậm rì lâu lắc nên tới có hơi tương đối trễ, chờ lúc gần đến Song Tinh Môn đã bị dân chúng nơi đây chen chúc cản đường, trái phải trước sau đều không thể động đậy, chỉ có thể ngoài ý muốn xuống lừa đứng yên tại chỗ, chờ đám người giải tán mới đi vào.
Bỗng nhiên nghe thấy trong dòng người kêu lên: “Tới rồi! Ngự giá quan gia tới!”
Đám đông tức khắc ồ ạt, vạn dân duỗi dài cổ mòn mắt nhìn, chỉ thấy hai hàng cấm quân áo bào tơ vàng, khoác áo choàng gấm vóc đeo bảo kiếm đi trước mở đường, đi sau chính là quân dung thổi kèn, trống sắt cùng nghi trượng kho bộ, đến cuối cùng mới là xe ngọc của quan gia.
Quan gia ngồi trong màn ngọc, không nhìn thấy rõ mặt.
Các quân sĩ đẩy xe ngọc qua lại tới lui ba vòng, gọi là ‘gáy ngói xoay’, mục đích là để quân thần sĩ thứ thấy mặt thiên nhan.
Vị trí của Lương Nguyên Kính ở đằng sau, không thể giống với bá tánh đứng trước đó, thấy rõ ngự dung của quan gia, điều này cũng làm cho A Bảo yên lặng thở phào nhẹ nhõm.
Nàng chưa sẵn sàng đối mặt trực tiếp với Triệu Tòng.
Sau ngự giá quan gia chính là hậu phi cung quyến, cuối cùng mới là tất cả quan lại, đi đầu xa giá hậu phi, tất nhiên là phượng giá của Hoàng Hậu nương nương.
Lúc xa giá của Tiết Hoàng Hậu đi ngang qua, bá tánh thành Đông Kinh chấn động.
Tiếng hoan hô vang lên như sấm, ai ai cũng tranh nhau tiến về trước nhìn rõ dung nhan của Hoàng Hậu nương nương, suýt nữa tạo thành sự cố giẫm đạp, nhóm cấm quan kịch liệt ổn định trật tự hiện trường, liên tục quát lớn với đám đông đang xô đẩy nhau.
Nhìn một màn hỗn loạn này, A Bảo chỉ biết chua chát cười.
Năm xưa nàng làm Hoàng Hậu, cũng từng ngồi chung xe ngọc cùng Triệu Tòng giá hạnh Kim Minh Trì, lúc đến Song Tinh Môn, cũng có vạn dân đứng đó quan sát.
Chỉ có điều, bọn họ chủ yếu là đến để chê cười nàng.
Ngày hôm ấy, có một sĩ tử áo trắng đột nhiên xông ra từ trong đám đông, ngăn cản ngự giá, mượn danh chính nghĩa chỉ vào A Bảo, mắng nàng là ‘hoạ quốc gian hậu’.
Lưu loát mắng hơn 3000 chữ mới bị cấm quân kéo thẳng xuống, lúc bị kéo xuống miệng vẫn không ngừng mắng nhiếc, đến khi sùi bọt mép dẫn tới sự chú ý từ mọi người.
Khi đó A Bảo đã hoài thai được bảy tháng, tức giận đến mức ôm bụng đứng lên trong xe ngọc, hàm răng run lập cập, khớp ngón tay đỡ thành xe hiện ra màu xanh trắng, cuối cùng bị động thai khí, hai mắt nhắm tịt, ngất đi trong vòng tay Triệu Tòng.
Sau lại trải qua cuộc tra xét, mới biết tên sĩ tử áo trắng kia tên là Chúc An, vốn là học sinh ở viện Thái Học, xưa nay ngưỡng mộ Đức Dung Hành Chỉ của Đồng Bình chương sự Lữ Dật.
Lữ Dật bởi vì phản đối việc lập hậu nên bị bãi tướng, liên luỵ đến một số môn sinh bè đảng của ông, một nhóm quân thần can đảm gián tiếp khuyên can có cũng bị giáng chức, trục xuất, nhân tài trong triều trống mất một khoảng.
Bởi vì nhóm người này tất cả đều có chung mục đích triều chính, là phản đối Lý thị lập hậu, người đời lúc đó xưng là ‘phái phản Lý’, và do chuyện phát sinh vào năm Hi Hoá, nên còn được gọi là ‘đảng viên Hi Hoà’.
Chúc An bất mãn với tình thế triều chính lúc đó, liền mạo hiểm tức tối cản đường ngự giá, vì người trong thiên hạ đau đầu việc quan gia khăng khăng lập Lý thị làm hậu, nói hắn “Vì bao che cho một phụ nhân mà nhẫn tâm làm mất lòng các sĩ tử”, nói A Bảo là “Xuất thân ca nữ đất Thục, lưu lạc đến tận đây, một nữ hầu hai phu, thân trong sạch đã mất dạng rồi”, thậm chí còn xảo ngôn ám chỉ, đứa con trong bụng A Bảo không thuộc huyết mạch của quan gia, thẳng từng than “Trên đời chưa từng có chuyện hoang đường như này”.
Sau trận phong ba này, Chúc An cầu nhận được nhân, bởi vì phỉ báng triều chính đương thời, phê phán quân thượng, xử tội chết.
Trừng phạt như vậy không thể nói là không nặng, từ khi Thái Tổ lập quan từng nói, dạy người đời sau không được giết người đọc sách, Triệu Tòng làm vậy coi như đã vi phạm lời dạy của tổ tiên.
Quần thần thượng tấu cầu tình cho Chúc An, Triệu Tòng lại vì thế giáng chức nhóm quan viên cầu tình, cuối cùng giảm tội chết cho Chúc An, tước đi dân tịch, trục xuất khỏi kinh thành, vĩnh viễn không được bổ nhiệm, con cháu đời sau cũng không được tham gia khoa cử.
Tương đương với việc cắt đứt con đường làm quan triều chính.
Trên thực tế, có người vẫn cảm thấy phán quyết như vầy vẫn quá nặng, nhưng cũng không ai dám dâng thư phân xử cho Chúc An, dưới uy nghiêm của quan gia, ai ai cũng im như ve sầu mùa đông, chỉ có thể tự lo cho bản thân mình, không rảnh bận tâm ai khác.
Sau này Chúc An vẫn được xem là ‘Đảng viên Hi Hoà’, được người đời xưng là ‘Quân tử’.
A Bảo có lúc tự hỏi, dựa vào đâu một người nhục mạ thai phụ ngoài đường còn có thể được xưng làm ‘Quân tử’?
Nếu có ai đó trên phố ngăn một thai phụ lại, đặc biệt mắng nhiếc, nếu vậy người ra tay bênh vực cứu giúp có lẽ sẽ không ít, nhưng vì sự tình phát sinh ở trên người nàng, nên tất cả đều do nàng sai sao?
Nghĩ tới nghĩ lui, chỉ có một nguyên nhân.
Đó là người dân của thành Đông Kinh không thích nàng, tất cả quan lại không thích nàng, phi tần hậu cung không thích nàng, người đọc sách khắp thiên hạ cũng không thích nàng.
Người duy nhất thích nàng, chỉ có Triệu Tòng, hắn làm phật lòng nhiều người đến vậy, cũng chỉ có thể nói do nàng là ngọn nguồn của sự việc.
Hoàng Hậu không chỉ là thê tử của hắn, còn là quốc mẫu của người người trong thiên hạ, lập hậu phải là chọn hậu cho thiên hạ, hắn không thể chỉ chọn người mình thích.
Sau này, hắn cũng không còn thích A Bảo nữa.
Cho nên A Bảo đành phải chọn cái chết, bây giờ ngẫm nghĩ lại, A Bảo cảm thấy đời mình thật sự quá đau thương, là Hoàng Hậu của một nước thì sao, đứng trên cao thì thế nào, tóm lại nàng cũng chỉ là một nữ nhân không ai yêu mà thôi.