Đêm về, phục vụ bắt đầu dâng món.
Cách thức dâng món của Phàn lâu cũng đặc biệt, gã sai vặt tay trái nâng ba món ăn lên nhau, cánh tay phải đưa đến vai có thể đặt hai mươi cái chén liền. Như vậy duỗi hai tay lên lầu hai cũng không chỉ không làm rớt, phần thức ăn cũng đặt đâu vào đấy, món nào ở bàn vị khách nào không hề bị nhầm lẫn.
Ở Phàn lâu ăn uống trái cây cũng không tệ, món ngon hiếm lạ, phàm là thiên hạ có, đầu bếp bọn họ hoàn toàn có thể làm ra. Nhưng được thực khách khen ngợi nhất phải nhắc đến rượu ngon trong lâu.
Vì thu thuế, Đại Trần không cho phép người dân tự ủ rượu mở xưởng bán riêng. Tửu lầu cần phải mua men rượu của quan phủ trước, sau đó mới được phép nấu đem bán.
Mỗi năm Phàn lâu mua đến năm vạn cân men từ quan phủ, sản xuất rượu và cung cấp cho 3000 cửa hàng bán lẻ. Quy mô tửu phường rất lớn, sản xuất rộng rãi ai cũng thấy rõ ràng.
Phàn lâu sở hữu hai loại rượu tự ủ, một cái là ‘Thọ mi’, cái thứ hai là ‘Hoà chỉ’, trong đó có rượu thọ mi thanh danh vang xa nhất.
Rượu có màu hổ phách, đựng đầy trong chén ngọc, thật sự có cảm giác ‘Lan Lăng rượu quý ngát hương, Long lanh hổ phách phát quang chén đầy’, mùi rượu mát lạnh, mùi thơm nức mũi, nếm vào như nước lê mía sệt, thanh thanh nhiều ngọt. [1]
[1] Khách trung tác – Lý Bạch và bản dịch của Tu Nguyen, thivien.net.
Tay Lý Hùng nâng rượu lên, tiên phong uống liền ba chén, đỏ mắt nói: “Hôm nay là ngày lành, tết Trung thu, quả nhiên là để đoàn viên, cảm tạ trời đất, cho con kiếp này có cơ hội gặp lại A Bảo. Lương tiên sinh, cảm ơn cậu, nếu không nhờ cậu, e là…”
Nói đến đây, giọng anh lại nghẹn ngào, cuối cùng không nói được nữa, ngửa căng cổ uống hết rượu trong chén.
Lương Nguyên Kính tự uống sạch một hơi.
A Bảo cũng uống, chưa đã thèm chẹp chẹp miệng, nàng đã lâu rồi nếm qua thọ mi của phàn lâu.
Lý Hùng bắt lấy tay nàng, hai mắt bị rượu hung đến đỏ bừng: “A Bảo, bây giờ theo a ca đến Tuyền Châu đi, ở Tuyền Châu có rất nhiều món ngon, vui chơi cũng có, em sẽ thích thôi, a ca cùng tẩu tẩu chăm sóc em.”
A Bảo nhìn Lương Nguyên Kính, bất đắc dĩ nói: “A ca, em không đi được.”
Lý Hùng lập tức nói: “Vậy a ca tới Đông Kinh, em chờ anh, lần này a ca về nhà sẽ nói lại với tẩu tẩu của em, cả nhà dọn đến Đông Kinh, chúng ta bên nhau sống chung một nhà.”
“……”
A Bảo không biết nên nói gì cho phải, Tuyền Châu xa xôi ngoài lộ Phúc Kiến, cách Đông Kinh hơn vạn dặm, sao có thể dễ dàng chuyển nhà ngay.
Hơn nữa chị dâu là người gốc Tuyền Châu, nhà mẹ đẻ đều ở đó, nàng ấy sẽ rời bỏ cố hương chuyển đến Đông Kinh lạ nước lạ cái chỉ vì một cô em gái đã chết hơn ba năm sao?
“A ca……” A Bảo có rất nhiều lời nhưng không cách nào bày tỏ ra hết.
“Ta sẽ đi Tuyền Châu.” Lương Nguyên Kính đột nhiên nói.
“Anh nói gì cơ?”
A Bảo đột ngột quay đầu hỏi, chàng ở lại thành Đông Kinh rất tốt, đi Tuyền Châu làm gì?
Lương Nguyên Kính thả mắt, nghiêm túc nhìn nàng: “Đợi xong chuyện ở đây, tôi sẽ từ quan, cùng em đi Tuyền Châu.”
A Bảo nhíu mày: “Không nên, anh làm quan rất tốt, từ làm gì?”
Lương Nguyên Kính vò vò chén rượu rỗng, ngón tay dài tôn lên trên chén ngọc, khó mà nói rõ cái nào mới ‘cảnh hay ý đẹp’.
Ánh mắt chàng ấm áp, lộ ra khát vọng, cười trong trẻo: “Chốn quan trường dung tục ràng buộc, tôi thấy chán ghét từ lâu lắm rồi, nghe nói con người phong cảnh ở Tuyền Châu rất đẹp, không thua gì Tô Hàng, còn có thêm nhiều cảnh biển nước trời xanh, trước đây tôi đã muốn đến đó xem. A Bảo, em sẵn lòng đi ngắm biển với tôi không?”
“……”
A Bảo dứt khoát quay đầu đi, mũi hơi cay, trong lòng điên cuồng mắng.
Đồ ngốc!
Cần gì tốt với nàng như vậy hả? Có biết làm khó nàng lắm không? Nàng đã cật lực khắc chế bản thân không được thích chàng cơ mà.
Nàng lại nghĩ: “Lương Nguyên Kính, vì sao anh phải có người trong lòng hả? Rốt cuộc là tiểu nương tử nhà ai? Lớn lên có xinh đẹp như tôi không? Có thể làm anh vẽ tranh nàng, trân quý cất trong rương, ai cũng không được xem, chắc là đặt trong lòng, rất thích rất rất thích người đó nhỉ?”
A Bảo say, chống bên má tuyết, đôi mắt lờ đờ nhòe mờ nhìn ra cửa sổ.
Bầu trời cao đen kịt, treo vầng trăng tròn như mâm bạch ngọc, ánh sáng trong vắt rọi xuống nhân gian. Đêm nay là trung thu, nói vậy trên lầu tây chắc có không ít vương tôn công tử dắt giai nhân lên lầu ngắm trăng, như nàng và Triệu Tòng đã từng.
“Nguyện em như sao chàng như trăng, đêm đêm cùng nhau sáng rợp trời.”
Hắn ôm nàng từ phía sau, kề vào tai nàng nói lời âu yếm.
A Bảo khép mắt lại, ngả sang một bên, trước lúc mất đi ý thức, nàng cảm nhận được có đôi tay đỡ lấy nàng.
Là đôi bàn tay rất ấm.
**
Đêm đã khuya, phàn lâu vẫn sáng đèn, tiếng cười nói rộn ràng, tối nay là tết trung thu, cung cấm mở cả ngày lẫn suốt cả đêm, không cần Kim Ngô. [2]
[2] Chức quan chịu trách nhiệm về an ninh trật tự ban đêm trong kinh thành.
A Bảo đã được ôm lên giường nằm, trên người còn khoác áo ngoài của Lương Nguyên Kính.
Lý Hùng có hơi say, rượu thọ mi tuy ngọt thanh, tác dụng lại chậm, anh nóng đến muốn xé rách vạt áo, mắt đen nhuộm hồng, say mèm nhìn Lương Nguyên Kính nói năng mê sảng.
“Không ngờ rằng, số trời đã định, cậu và A Bảo vòng đi vòng lại, cuối cùng vẫn ở chung một chỗ…”
Lương Nguyên Kính cũng say chút chút, chẳng qua biểu hiện của chàng rất tốt, cho dù say cũng không quá rõ rệt, y quan vẫn ngay ngắn không lộn xộn, chỉ là gò má như bạch ngọc có hơi ửng hồng.
Chàng nhìn A Bảo đang ngủ say trên giường, sợ làm nàng tỉnh, âm thanh cố ý nhỏ lại: “Hình như nàng không nhớ ra.”
“Ừ,” Lý Hùng gật đầu, “Năm xưa Xuyên Thục gặp nạn châu chấu, anh dẫn nó chạy nạn, lúc gần đến Động Đình, thật sự chịu hết nổi nữa. Trời quá lạnh, lại không có gì ăn, nó sốt cao, anh sợ nó không qua khỏi, may sao vẫn sống sót, chỉ là sau khi tỉnh lại, đầu óc bị hỏng, đã quên đi khá nhiều chuyện, cũng không nhớ rõ cậu.”
Lương Nguyên Kính đờ ra một lúc lâu sau mới có phản ứng, ngơ ngác nói: “Ra là vậy.”
Lý Hùng nhíu mày: “Nói ra cũng lạ, chuyện khác nó chỉ hơi quên quên, gợi lại một chút vẫn nhớ ra. Nhưng còn về chuyện của cậu, một chút cũng không nhớ, anh nhắc tên của cậu cho nó, nó còn hỏi ngược lại anh ‘đó là ai’.”
Lương Nguyên Kính nghe xong im lặng hồi lâu, chợt hỏi: “Hai người đi về phía đông à?”
“Đúng vậy,” Lý Hùng buông tiếng thở dài, “Tuy A Bảo không nói rõ, nhưng anh biết, nó muốn đến Dương Châu tìm cậu, anh nói với nó, chúng ta đi về phía đông đi, nó nghe xong cũng không phản đối.”
Lương Nguyên Kính nghe xong, cả gương mặt trắng bệch đi, phải dồn sức đỡ lấy bàn mới không ngã ra khỏi ghế.
Lý Hùng thấy thế thì hoảng sợ, vội đỡ lấy chàng: “Cậu sao vậy? Không sao chứ? Rượu xộc lên đầu à?”
Lương Nguyên Kính xua tay với anh, bỗng nhiên nghiêng đầu che miệng ho rất dữ, vạch khăn ra xem, trên bề mặt dính thêm vết máu bầm đỏ sậm.
Lý Hùng đưa ly trà nhạt qua cho chàng súc miệng, xong nhíu mày nói: “Chứng ho ra máu này của cậu sao chưa trị khỏi nữa, nhất định là do khi đó bỏ lỡ thời gian chữa trị, hỏng cả gốc lẫn rễ rồi.”
Lương Nguyên Kính súc miệng, lau khô môi, nói: “Không sao.”
Chàng mới ho khan kịch liệt, mặt mày tái nhợt xuất hiện thêm tia máu, màu môi cũng nhuộm đỏ vì máu, ngược lại nhìn có tinh thần hơn vừa nãy khá nhiều.
Bất chợt trong đầu Lý Hùng nảy ra ý gì đó, nhanh đến mức gần như không bắt kịp: “Lương công tử, cậu⎯ năm đó có phải cậu đi tìm bọn anh không?”
Lương Nguyên Kính ngẩn ra: “Phải, năm đó nghe nói nạn châu chấu đất Thục rất nặng, cha mẹ dễ chết, người ăn thịt người, liền thuê xe ngựa đến Xuyên Thục tìm hai người, chỉ là lúc đến thôn, nhà đã trống trơn, tôi tìm người hỏi thăm mới biết, hai người đến Quan Trung rồi…”
Lý Hùng nghe được đập đùi một phát: “Thì ra là vậy! Năm đó bọn anh tính đi theo người trong thôn, cùng nhau đến Quan Trung, đồng hương quê nhà, tốt xấu gì cũng tương trợ lẫn nhau, nhưng A Bảo muốn đi Dương Châu, cho nên… Ôi! Ai ngờ bỏ lỡ nhau như vậy chứ!”
Anh nặng nề thở dài, mặt mày tiếc nuối.
Lương Nguyên Kính ngẩng đầu, cũng buồn bã thở dài: “Tạo hoá trêu ngươi.”
Hai người nhìn nhau không nói gì, vì vận mệnh trời xui đất khiến.
Bỗng nhiên Lý Hùng nhớ tới một chuyện, đứng dậy lấy lại đây một chiếc hộp gấm khắc hoa, bề mặt còn treo thêm một cái khoá bạc nhỏ.
Anh lấy chìa khoá mở nó ra, từ bên trong lấy ra một cuốn tranh cuộn đưa cho Lương Nguyên Kính.
“Đây là tranh năm xưa cậu để lại cho A Bảo, hiện tại vật về với chủ.”
Lương Nguyên Kính ngạc nhiên rất lâu, hai tay nhận lấy, chậm rãi m.ơn tr.ớn cuộn tranh, trên mặt còn dính vết bùn xàm, là vết bẩn đã cũ.
Lý Hùng giải thích: “Đây là sau khi cậu đi, năm đó cậu đi không nói câu nào, chỉ để lại cuộn tranh này bên gối A Bảo, nó ôm tranh đuổi theo cậu, được bảy tám dặm gì đó thì vấp té lăn ra trên đất, tức đến mức ném tranh vào vũng bùn, vẫn là anh nhặt về.”
“Em ấy giận tôi.” Lương Nguyên Kính rũ mắt.
“Nó luyến tiếc cậu.”
Lý Hùng thở dài nhìn người nằm trên giường.
“Cậu còn không rõ nha đầu này à? Ngoài miệng thì nói lời tàn nhẫn vậy thôi, thật ra mong cậu ở lại hơn ai hết, giận nhanh nguôi cũng nhanh. Sau này trên đường chạy nạn, vì mua miếng ăn, bọn anh bán được gì thì bán, vòng bạc anh đánh cho nó, tỳ bà nó quý như mạng, đều bán hết, duy mỗi bức tranh của cậu, nó ôm vào trong ngực, ngủ rồi vẫn không buông tay, còn quý hơn mạng nữa.”
“Sau đó nó bệnh nặng sắp chết, anh hết cách, đành trộm bức tranh từ tay nó, bán cho một tay buôn chạy nạn, người ta cho nó chén ruột lừa, ăn vào mới giữ được mạng. Anh còn lo sau khi tỉnh lại phải giải thích thế nào cho nó, ai ngờ nó không nhớ được gì cả.”
Nói tới đây, Lý Hùng cười tự giễu: “Anh lừa nó, chén mì kia là có người tốt tự mổ con lừa người ta dẫn theo làm cho nó ăn, nha đầu ngốc này cũng tin là thật. Đâu đâu cũng là nạn đói, người ta không cướp của mình thì thôi, nào có ai tốt đến nổi mổ vật cưỡi của mình, nấu chén mì cho tiểu cô nương chưa từng quen bao giờ?”
Lương Nguyên Kính cởi bỏ dải lụa, chầm chậm mở cuộn tranh ra, hình vẽ trên tranh đập vào mắt.
Đó là con phố dài rực rỡ, hai bên cửa hàng san sát nhau, bảng hiệu rượu bay phấp phới, người đi đường tấp nập thoi đưa, có trẻ nhỏ lên phố cùng mẹ, người bán hàng rong khiêng đòn gánh bán bánh hấp, những người bán rong đi khắp ngõ hẻm, thợ bạc gõ búa đẽo trang sức, còn có đạo sĩ xem bói cho người qua đường, tiên sinh giảng thư trong quán trà được vây quanh bởi khách uống trà si mê nghe.
Giữa phố, có một mỹ nhân ngồi ôm cây đàn tỳ bà.
Những người còn lại mặc đồ xanh hoặc xám, duy chỉ có nàng mặc một bộ váy đỏ như lửa, giữa cổ tay áo đeo ba chiếc vòng bạc, ai ai cũng chỉ làm nền cho nàng.
Góc phải bên dưới bức hoạ cuộn tròn có kèm theo một con dấu màu son, trên đó khắc hai chữ triện ⎯⎯ [3]
Nguyên Kính.
[3] Chữ ‘Kính’ theo kiểu chữ triện. (nguồn: Baidu)
Phía bên trái còn có đề bút, nét chữ hành khải thanh tú: Dưới núi Thanh Thành, trên đường đi gặp tỳ bà nữ, dừng chân nhìn hồi lâu, xong không đành lòng rời đi.
Năm Hữu An thứ hai, tuổi Mậu Dần, đêm hội giữa ngày thu, thư của Lương Hoằng Dương Châu.