“A ca, chân anh tốt hơn chưa?”
Lý Hùng dứt khoát quay đầu đi, khi quay đầu lại phiếm mắt đã ửng đỏ, “Rồi.”
“Vậy thì tốt.”
A Bảo hơi mỉm cười, lại hỏi: “Anh lập gia đình chưa?”
“Rồi.”
“Thật à?” A Bảo mở to hai mắt, cảm thấy vui cho anh từ tận đáy lòng, “Tẩu tẩu là người thế nào ạ?”
Lý Hùng nói: “Nàng là người dân Tuyền Châu, con gái của nông dân trồng chè, công phu pha trà rất tốt, trước kia anh uống trà do nàng pha xong mới quyết tâm cưới người về, sau này nếu có cơ hội, cũng sẽ cho em uống thử.”
Lý Hùng hốc mắt ươn ướt, lấy tay áo quẹt quẹt, nghiêm túc nói: “A Bảo, tẩu tẩu chắc chắn rất thích em.”
“Em cũng chắc chắn thích chị ấy,” A Bảo vô cùng khẳng định, “A ca, anh và tẩu tẩu có con chưa?”
“Có đứa con gái, bướng bỉnh y như em hồi nhỏ.”
“Con gái tốt,” A Bảo cười nói, “Con gái lớn rồi biết thương cha.”
Nàng nhìn nhìn trên dưới người mình, vốn định lấy vòng tay hay trâm cài gì đó làm lễ vật tặng cho cháu gái nhỏ.
Chợt nhớ tới, mình chỉ là một vong hồn, mặc dù nhờ tranh hồi dương lại nhưng chung quy vẫn không phải người sống. Một khi máu của Lương Nguyên Kính hết hiệu lực, nàng sẽ trở lại thành hồn phách, thân thể này bám vào mỹ nhân trên giấy vẽ, dù nàng có tháo trang sức xuống, đến giờ rồi cũng sẽ biến mất theo.
“Xin lỗi anh nhiều, a ca.” A Bảo áy náy nói, “Em không có gì để cho con gái anh hết.”
Lý Hùng trừng mắt lên: “Em nói cái này làm gì?”
A Bảo cười cười hỏi tiếp: “Đặt tên chưa ạ? Tên là gì?”
Lý Hùng nói: “Tên đầy đủ là Lý Thanh, tên mụ cũng giống em, gọi là ‘A Bảo’.”
“A Bảo, A Bảo.”
A Bảo lẩm bẩm đọc hai lần, cười nói: “Lại thêm một tiểu A Bảo nữa.”
Hai người đều không hẹn cùng nhớ về chuyện hồi nhỏ. A Bảo năm hai ba tuổi dính người đến sợ, đi chỗ nào cũng để ca ca ôm, người trong thôn Lý gia thường xuyên thấy trên chân Lý Hùng treo thêm một hạt đậu nhỏ nên hay chê cười anh.
Khi đó Lý Hùng cũng không lớn là bao, thiếu niên nhỏ tuổi da mặt mỏng, bị người ngoài trêu ghẹo hai ba câu đã đỏ mặt, muốn nổi nóng với A Bảo. Thông thường mới vừa rầy một tiếng, A Bảo đã khóc thét lên cực dữ dội, làm anh không giận nổi, phải cõng nàng lên lưng dỗ dành.
Lớn hơn chút nữa Lý Hùng học trường tư thục trên trấn, mỗi ngày A Bảo đều mang ghế gấp nhỏ ra ngồi dưới cây hòe lớn cửa thôn đợi anh về Từ sau giờ ngọ [1] chờ đến khi mặt trời lặn.
[1] Từ 11g đến 13g.
Vừa nhìn thấy bóng dáng Lý Hùng đã chạy như bay lại, giống chú chó nhỏ vây quanh anh kêu ‘A ca a ca’, lục lọi cặp sách xem xem anh có mua gì cho nàng ăn không, sau đó cưỡi lên lưng anh, ra lệnh anh cõng nàng về nhà.
Lý Hùng chỉ có thể nhẫn nại cam chịu cõng nàng đi về nhà, trong ánh chiều tà hoàng hôn, bóng hình hai anh em hằn ngược lại kéo ra rất dài trên con đường nhỏ.
A Bảo mỉm cười từ trong hồi ức bước ra, đột nhiên nhớ tới hỏi: “Phải rồi, a ca, sao anh bắt đầu làm ăn hải thương vậy?”
Lý Hùng thở dài: “Cái này cũng nhờ vào hôn phu của Thôi nương tử, năm đó do anh ta nâng đỡ anh…”
A Bảo vội hỏi: “Thôi nương tử sống tốt chứ ạ?”
“Cô ấy sống rất tốt,” Lý Hùng khẽ cười đáp, “Hai năm trước, vợ lớn của chồng cô ấy qua đời nên đã nâng cô ấy lên làm chính thất, năm ngoái còn có thêm một tiểu tử mập mạp, đặt tên là Vinh Ca Nhi.”
“Lớn lên giống ai? Thôi nương tử hay tên râu xồm?”
“Mặt mũi giống Thôi nương tử hơn.”
“Cảm tạ trời đất.” A Bảo nhất thời thở phào nhẹ nhõm.
“……”
“A Bảo,” Lý Hùng chau mày ngập ngừng hỏi, “Năm đó em……”
“Muốn hỏi em chết như thế nào đúng không?”
A Bảo hiểu ý tiếp lời, lông mi hơi hơi rũ thấp, đáy mắt hiện lên một hình bóng nhỏ vòng cung.
“Em mắc bệnh nặng, a ca.”
Hai mắt Lý Hùng rưng rưng, bỗng nhiên hung ác đấm một cái lên bàn: “Sớm biết thế này, lúc trước anh đã không nên để em một mình đến thành Đông Kinh mà.”
A Bảo hoảng sợ, vội vàng kéo tay anh: “Đều đã qua rồi, a ca, em không sao. Hơn nữa, năm đó anh vất vả lắm mới an ổn ở Dương Châu, thật ra cũng không nên…”
“Không! Đó là giả! Gạt em thôi!”
A Bảo sửng sốt.
Đôi mắt Lý Hùng đỏ ngầu nhìn nàng: “Năm đó, anh tính theo em vào thành Đông Kinh, đã thu xếp hành lý xong rồi, ngay cả phòng thuê cũng trả lại, ai ngờ Tuyên Vương điện hạ… Không, hiện tại là quan gia mới phải, y phái người tìm tới, kêu anh đến Phan Viên, từ bỏ ý định theo em đến Đông Kinh.”
“Sao ạ?”
A Bảo hoàn toàn ngây dại, nàng cũng không biết chuyện này còn có uẩn khúc lớn tới vậy. Năm xưa nàng vẫn hay nghĩ a ca ngại nàng phiền, không thích đi theo sau phải chạy ngược chạy xuôi chăm sóc nàng nên mới để nàng tự mình đến Đông Kinh.
Ngay cả Triệu Tòng cũng nói với nàng như vậy, hắn còn trấn an nàng, a ca không cần nàng nhưng hắn thì cần, hắn sẽ luôn ở bên cạnh chăm sóc nàng.
“Nhưng mà sao Triệu Tòng lại như vậy…”
A Bảo chưa hỏi xong đã đoán ra đáp án.
Cần gì hỏi thêm, nguyên nhân đã rõ ràng thế rồi.
Nàng từng là con dâu nuôi từ bé của Lý Hùng, tuy chỉ mới nói miệng, hai người họ cũng không phát sinh thêm gì khác. Nhưng vì tị hiềm, vì thể diện hoàng thất, vì thân phận giả ‘Lý Uyển’ không bị vạch trần, Lý Hùng nhất định không thể đi Đông Kinh, thậm chí nên cách nàng càng xa càng tốt.
Lý Hùng nức nở nói: “Năm đó, anh ra bến đò đưa em lên thuyền, nói cuối năm sẽ đến Đông Kinh thăm em, nhưng đến ngày anh lên đường, Lý Tri châu lại phái người tới, giam anh lại trong phủ suốt mười ngày nên đi không được… Sau này, anh viết không ít thư cho em, trước sau cũng không thấy em trả lời, A Bảo, có phải em thấy giận ca ca không?”
A Bảo ngẩn ngơ mê mang: “Thư gì ạ?”
Lý Hùng vội hỏi: “Em không nhận được?”
A Bảo lắc đầu, nàng chưa từng biết a ca có gửi thư cho mình.
Năm đó, nàng ở Đông Kinh chờ đợi mòn mỏi không thấy a ca làm theo hứa hẹn tới thăm nàng, tức giận ném cây trâm như ý bạc anh đưa. Ném xong lại hối hận, nửa đêm chạy tới hậu uyển vương phủ tìm, nhưng cuối cùng vẫn không tìm thấy.
Đêm hôm ấy tuyết lớn, nàng ngồi trong bụi hoa lộn xộn, khóc như đứa trẻ không tìm được nhà.
Còn vương phủ vì nàng biến mất mà nhốn nháo như người ngã ngựa chết. Tiếng khóc khiến Triệu Tòng hoảng sợ, hắn ôm nàng vào trong phòng, vừa kêu người đi mời đại phu, vừa dịu dàng an ủi nàng, cây trâm mất không sao cả, sau này hắn sẽ cho người đánh cho nàng cái tốt hơn.
Sau này, hắn quả thật tặng nàng cái tốt hơn. Cây trâm dùng ngọc hiếm chế thành, mời thợ thủ công tốt nhất Đại Trần đến, dốc lòng tạo hình mất nửa năm, trên nạm trân châu, mã não, ngà voi, cực kỳ xa hoa, trên đời này không có nữ nhân nào là không mơ ước.
Cây trâm ngọc đó sau này lại bị A Bảo tháo xuống, gõ gõ nhẹ trên cửa sổ, cuối cùng rơi xuống gãy làm đôi.
Trong lòng A Bảo, nó luôn kém hơn cây trâm như ý bạc kia. Tuy kiểu dáng như ý rất cũ, tay nghề cũng thô sơ, năm đó lúc đeo nó vào thành Đông Kinh rồi còn bị nhóm quý nữ ngấm ngầm chê cười hồi lâu.
Thời buổi này còn ai dùng trâm bạc nữa, có thô tục quá không, hiện giờ mọi người đều cài hoa quan, trên còn điểm xuyết trân châu ngà voi hình hoa cỏ. Đó mới là phong cách trang điểm thịnh hành nhất.
Nhưng mà mặc kệ người khác có châm biến thế nào, A Bảo vẫn không tháo nó xuống. Bởi vì đây là cây trâm như ý a ca tự tay làm cho nàng.
Trước lúc chia tay, anh nhét cây trâm vào lòng bàn tay nàng, đỏ mắt nói rằng, A Bảo à, sau này phải bảo trọng, vạn sự như ý.
Anh đưa trâm như ý cho nàng, hy vọng nàng mọi chuyện như ý, nhưng A Bảo làm mất cây trâm đó, sau này mọi chuyện cũng không được như ý nữa.
Hai mắt A Bảo đỏ bừng, rốt cuộc ‘oà’ lên gào khóc.
Từ nhỏ đến lớn, nàng vẫn luôn khóc theo kiểu này, oa oa khóc lớn, vô cùng đau thương, không khiến mình khó thở là không được.
Nàng hồi nhỏ khóc ở đầu thôn thì người cuối thôn còn có thể nghe thấy. Về sau đến thành Đông Kinh rồi, các nàng ấy nói như vậy thô lỗ quá, nói không được dạy dỗ, chỉ có người nhà quê mới khóc lóc om sòm như vậy thôi. Danh môn thục nữ mỗi lần khóc đều là thầm rơi nước mắt.
A Bảo cũng từng thử khóc thút thít như các quý nữ trong kinh, ban đầu không ra nước mắt, làm cho nàng cạn lời, đến cả khóc cũng không biết phải khóc như thế nào.
Đây là tiếng khóc lớn đầu tiên sau nhiều năm qua của nàng, vừa khóc là đã không dừng được.
Hết cách rồi, A Bảo quá tủi thân, quá khổ sở, nàng tưởng a ca không cần mình, lại không ngờ anh vẫn luôn viết thư cho nàng, còn nàng thì sinh lòng oán hận, làm mất cây trâm anh tặng.
Lý Hùng vừa thấy nàng khóc liền luống cuống tay chân, nàng là đại cô nương, cũng không thể ôm dỗ như hồi nhỏ, chỉ có thể ở cạnh lo lắng suông: “A Bảo, sao vậy? Em đừng khóc mà!”
A Bảo mặc kệ ôm lấy eo anh, dán toàn bộ nước mắt nước mũi lên vạt áo phần ngực của anh, tiếp tục oà oà khóc lớn.
Lý Hùng vụng về vỗ vỗ lưng nàng, mới xa lạ dỗ dành: “Được rồi, không khóc nữa, sau này theo a ca đến Tuyền Châu, a ca sẽ chăm sóc em.”
“Cây trâm……” A Bảo khóc sụt sùi, “Em làm mất… cây trâm anh đưa……”
Lý Hùng giật mình, thì ra nàng khóc vì việc nhỏ nhặt này, có chút dở khóc dở cười nói: “Mất thì mất thôi, a ca đánh lại cây khác cho em là được.”
A Bảo vùi vào trong lòng ngực anh, khóc hu hu.
Tiếng khóc xuyên qua cửa phòng, truyền đến lỗ tai của Lương Nguyên Kính, chàng hơi nghiêng nghiêng đầu hướng nhìn về trong phòng, trong mắt tỏ không rõ cảm xúc.
Không biết qua bao lâu, cửa phòng mở, A Bảo đi ra, đuôi mắt hồng hồng, lông mi đều bị nước mắt làm ướt, càng thêm đậm đen.
“Đại hoà thượng đâu?” Nàng hỏi.
“Đi khai triển Phật pháp rồi.” Lương Nguyên Kính đáp.
“……”
“Là đi lừa gạt mới đúng ấy.”
A Bảo nhỏ giọng nói, nàng rũ mắt nhìn xung quanh trái phải, tựa hộ có chút thẹn thùng, không dám ngẩng đầu nhìn Lương Nguyên Kính, xoắn ngón tay nói: “A ca tôi nói, gọi anh vào trong, mọi người cùng ăn một bữa cơm.”
Người trước mặt chưa lên tiếng, trong tầm mắt xuất hiện thêm một chiếc khăn sạch thêu hình trúc xanh.
A Bảo ngẩng đầu hoang mang nhìn chàng.
Lương Nguyên Kính thấy nàng hồi lâu không nhận lấy thì chủ động lau mặt giúp nàng, động tác chàng rất nhẹ nhàng, ánh mắt cũng rất chuyên tâm nhìn nàng.
Trong lòng A Bảo nổi lên một trận cuồng phong quét tới
Nàng muốn nắm lấy lấy bàn tay đẹp đẽ của Lương Nguyên Kính, muốn ôm vòng eo thon chắc của chàng, muốn vùi mặt vào phần ngực chàng cọ cọ, ngửi lấy mùi đàn hương dễ chịu trên người chàng.
Không biết từ khi nào thân thể nàng vẫn luôn len lỏi chút xúc động này, muốn không màng tất cả để gần gũi Lương Nguyên Kính hơn.
Nàng biết bản thân luôn luôn có hơi dính người, nhưng đối với Lương Nguyên Kính lại khác như với a ca, nàng muốn làm nũng với a ca, còn Lương Nguyên Kính, nàng muốn làm gì đó hơn vậy nhiều.
Vào giờ khắc này đây, rốt cuộc A Bảo mới tỉnh ngộ, hoá ra mình đã thích Lương Nguyên Kính từ bao giờ.
Chuyện này đúng là không ổn tẹo nào, nàng là người chết, mà Lương Nguyên Kính còn có người trong lòng.
“Chàng có người chàng thích, đừng nghĩ về những chuyện này nữa.” A Bảo dặn lòng tự cảnh cáo chính mình.
“Tiếc quá đi mất,” Nàng tràn ngập tiếc nuối nghĩ, “Nếu năm xưa ở thành Dương Châu, người bắt được đoá hoa thược dược kia không phải Triệu Tòng mà là Lương Nguyên Kính thì tốt biết mấy.”
“Làm sao vậy?”
Lương Nguyên Kính thấy ánh mắt nàng thờ thẫn, có hơi lo lắng nhìn nàng: “Có phải sắp hết hiệu lực rồi không? Tôi nhỏ thêm máu nhé?”
“Không, không có,” A Bảo nói lại ngay rồi cau mày, “Mất nhiều máu không tốt cho sức khoẻ, anh đừng để chảy máu nữa.”
Lương Nguyên Kính không nói gì.
A Bảo vào cửa trước: “Đúng rồi, tôi nói với a ca mình bệnh chết, không phải… Tóm lại, anh đừng lỡ lời nhé.”
Lương Nguyên Kính đờ ra một lúc, khẽ gật đầu.