Thời đó, Phật pháp chưa phổ biến, nhiều tín ngưỡng khác nhau tồn tại, mỗi quốc gia, mỗi tòa thành đều có tín ngưỡng riêng. Có nước trọng Phật, có thành trấn lại bài trừ Phật giáo.
Người dân thành Diễn không tôn trọng Phật giáo, một số quý tộc cho rằng những phép lạ của nhà Phật là dị đoan, giáo lý của Phật là tà thuyết. Cộng thêm việc xác chết trước chùa Viên Thông liên tục biến thành xương trắng, tin đồn lan truyền rằng các hòa thượng là quỷ ăn xác.
Chủ thành và tướng quân vốn không ưa Phật giáo, nghe được tin đồn này bèn ra lệnh đem các hòa thượng ở chùa Viên Thông ra nấu và chia cho mọi người ăn.
Một đám binh sĩ cầm vũ khí xông vào chùa Viên Thông, tất cả hòa thượng trong chùa, bao gồm Khô Đăng, Diệt Uế và một vài đệ tử đi theo đều bị bắt. Binh lính đuổi hết các hòa thượng già trẻ đến bên ngoài chùa Viên Thông, dù là ai phản kháng đều bị giết ngay tại chỗ.
Bên ngoài chùa Viên Thông, củi lửa bập bùng, ba cái vạc lớn được đặt trên lửa.
Binh lính lột hết y phục của các hòa thượng, bất chấp tiếng kêu la, vùng vẫy của họ, ép buộc họ vào vạc nước sôi.
"Aaaaa..."
Các hòa thượng gào thét trong đau đớn, bị luộc sống.
Trong vạc nước, nước sôi cuồn cuộn, xác chết của các hòa thượng bị luộc đến nứt da nứt thịt, lật nhào trong nước. Có vài xác đã bị nấu nhừ chỉ còn lại những bộ xương trắng.
Không khí tràn ngập mùi thơm của thịt luộc.
Một đám dân chúng bụng đói cồn cào, bưng bát đứng xếp hàng dài, lần lượt đi qua các vạc nước.
Binh lính cầm một cái muỗng lớn như đang phát cháo cứu đói cho dân tị nạn, từ vạc nước múc lên một muỗng canh thịt, đổ vào bát của dân chúng.
Dân chúng bụng đói, thèm khát canh thịt, họ ngấu nghiến ăn thịt uống canh, không hề để ý đến những hòa thượng đang quằn quại trong biển máu, bị luộc sống.
Một cái vạc có thể luộc được ba hòa thượng. Khi canh thịt của ba hòa thượng đã bị chia hết, binh lính lại thêm nước vào vạc, đợi nước sôi rồi lại thả thêm hòa thượng vào.
Các hòa thượng đứng yên lặng, chờ đợi đến lượt mình bị ném vào vạc. Trong số họ, có người tâm tĩnh như nước, không hề dao động, chỉ khe khẽ niệm Phật. Có người sợ hãi tột độ, không chịu đựng nổi muốn bỏ chạy. Tuy nhiên, hễ hòa thượng nào chạy trốn, binh lính sẽ đuổi theo, chém chết rồi ném xác vào vạc.
Khô Đăng và Diệt Uế đứng giữa các hòa thượng nhìn binh lính lần lượt ném từng hòa thượng vào vạc nước.
Các hòa thượng quằn quại, kêu gào trong nước sôi, đau đớn đến tột cùng.
Người dân xung quanh ôm bát như bị ác quỷ chiếm đoạt, không có hơi lòng thương xót, mắt họ sáng rực, chăm chăm nhìn vào nồi nước sôi, chờ đợi thịt canh được đổ vào bát.
Diệt Uế vô cùng sụp đổ, hắn run rẩy hỏi: "Sư phụ, đây là địa ngục phải không?"
Khô Đăng thở dài, bình thản đáp: "A Di Đà Phật! Diệt Uế, nhân gian như lò luyện, chúng sinh đều khổ, thế giới Ta Bà này vốn dĩ là địa ngục, chỉ có cõi Phật cách mười vạn ức cõi Phật thổ mới là Cực Lạc tịnh độ. Chúng sinh ở Cực Lạc muốn gì được nấy, muốn ăn có ăn, mọi thứ tự nhiên đầy đủ. Không tham, không sân, không si mê. Chúng sinh đều nghe pháp vi diệu, đó là thế giới Cực Lạc."
Nghe lời Khô Đăng, các hòa thượng đều chắp tay, cúi đầu niệm Phật.
Nhìn cảnh tượng hòa thượng bị luộc, Diệt Uế nhìn thấy cõi Tịnh độ Cực Lạc hư ảo trong lòng đang tan vỡ.
Ngọn lửa lớn rực cháy, nước trong nồi sôi sùng sục, vài binh sĩ lại đến bắt hòa thượng.
Khô Đăng nói: "Diệt Uế, hôm nay thầy đã đến hạn, không thể truyền bá Phật pháp cứu độ chúng sinh được nữa. Nguyện vọng lớn nhất trong đời này của thầy là có thể lan tỏa ánh sáng Phật, cứu vớt chúng sinh ra khỏi biển khổ, mang đến cho nhân gian một mảnh đất Cực Lạc."
Nói xong, Khô Đăng tự nguyện bước ra ngoài, tiến đến nồi nước sôi.
Binh lính ngẩn người trong chốc lát.
Khô Đăng ung dung cởi bỏ áo cà sa, đặt chuỗi tràng hạt xuống.
"A Di Đà Phật! Chúng sinh đều khổ, đức Phật từ bi..."
Khô Đăng giữ thẳng lưng còng gầy gò của mình, niệm lớn Phật hiệu rồi tự lao vào nồi nước sôi.
"Sư phụ..." Diệt Uế khóc thét, quỳ xuống đất.
Khô Đăng bị nước sôi thiêu chết, xác chìm nổi trong nước.
"A Di Đà Phật..."
Các hòa thượng cúi đầu niệm Phật, đệ tử của Khô Đăng rơi nước mắt.
Diệt Uế nước mắt đầm đìa, hắn nhìn vào những binh lính lạnh lùng và những người dân ăn thịt người như ngạ quỷ, lòng đầy căm hận. Nhưng khi căm hận đạt đến đỉnh điểm, nó biến thành lòng thương xót. Chúng sinh đã đắm chìm trong khổ đau quá lâu, tâm hồn bị tội lỗi nhuốm bẩn, đã biến thành ác quỷ, họ cần sự cứu rỗi, cần được thanh tẩy, cần được đưa vào thế giới Cực Lạc.
Từng hòa thượng bị bắt đi, khi đến lượt Diệt Uế thì đột nhiên bên ngoài cổng thành xảy ra một cuộc náo loạn, kỵ binh Bắc Ngụy tiến vào thành.
Thì ra việc luộc chín hòa thượng quá tàn nhẫn khiến một số tín đồ Phật giáo và dân chúng có lương tâm không thể chịu đựng, họ nhân lúc chủ thành và quân đội tập trung bên ngoài chùa Viên Thông, bí mật nổi dậy, mở cổng thành, dẫn gia đình chạy trốn.
Quân đội Bắc Ngụy thấy cổng thành Diễn mở toang bèn tập hợp kỵ binh, xông vào.
Trong thành Diễn, khói lửa chiến tranh ngút trời, kỵ binh Bắc Ngụy sau khi vào thành đã thiêu đốt, cướp bóc, binh lính và dân chúng trong thành chết vô số.
Đám người dân ôm bát chia phần thịt người thấy kỵ binh Bắc Ngụy xông tới, họ bỏ chạy tán loạn nhưng không kịp, bị kỵ binh Bắc Ngụy giết chết và giẫm đạp.
Tiếng khóc than, tiếng kêu gào, máu thịt tung tóe, chúng sinh đều là những linh hồn chết trong chiến tranh, màu đỏ tươi bao trùm khắp đất trời.
Bên ngoài chùa Viên Thông, Diệt Uế và những hòa thượng còn lại đứng yên lặng, không có ý định chạy trốn. Lúc này, trời đất như lò luyện, thế gian là địa ngục, không có Tịnh độ Cực Lạc nào để chạy trốn.
Bắc Ngụy trọng Phật, quân đội có lệnh nghiêm cấm giết hại hòa thượng. Vì vậy trong khi các kỵ binh ở ngoài chùa Viên Thông giao chiến với quân đội thành Diễn, thảm sát dân chúng, không ai làm tổn thương nhóm người của Diệt Uế.
Diệt Uế sống sót trong địa ngục.
Không lâu sau đó, Diệt Uế mang theo xá lợi của Khô Đăng, cùng vài vị sư huynh đệ rời khỏi thành Diễn, trở về chùa Phù Đồ.
Diệt Uế đã đặt xá lợi của Khô Đăng vào bảo tháp trong chùa Phù Đồ, và trở thành trụ trì của chùa Phù Đồ theo di nguyện của Khô Đăng.
Trong những năm tháng còn lại của cuộc đời, Diệt Uế tiếp tục tu hành, nghiên cứu thiền lý, hắn cũng như Khô Đăng, đi khắp nơi hành hương, truyền bá Phật pháp cho chúng sinh.
Khi hành hương trong thời loạn, luôn có thể thấy vô vàn khổ đau. Vô số cảnh khổ đau khiến người ta đau buồn, trong lòng Diệt Uế dần nảy sinh một chấp niệm, hắn muốn thanh tẩy thế gian đầy khổ đau này, đưa mọi người vào thế giới Cực Lạc.
Đó là chấp niệm suốt đời không thể buông bỏ của hắn, cũng là ma chướng mà hắn không thể vượt qua trên con đường cầu Phật.
Về cuối đời, Diệt Uế tình cờ có được một quyển sách Cực Lạc. Người ta nói rằng, chỉ cần mở cuốn sách này ra, chúng sinh có thể bước vào Tịnh độ Cực Lạc, được hưởng niềm vui vĩnh hằng.
Khi Diệt Uế mở sách Cực Lạc, hắn thấy cha, nương và đệ đệ mình, không có chiến tranh, không có đói khát, không có bệnh tật, không có sinh ly tử biệt, cả gia đình bốn người họ hạnh phúc sống trong Tịnh độ Cực Lạc, khi lạnh có áo ấm, khi đói có thức ăn, khi cô đơn có sự quan tâm và yêu thương, họ sống không lo lắng, trong lòng tràn đầy niềm vui...
Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng Diệt Uế trải nghiệm niềm vui trong cuộc đời này.
Diệt Uế viên tịch trong ảo cảnh Cực Lạc.
Khi Diệt Uế qua đời, nét mặt bình thản, khóe miệng nở nụ cười hạnh phúc.
Do chấp niệm muốn cứu độ chúng sinh vào Tịnh độ Cực Lạc, linh hồn Diệt Uế gắn vào cuốn sách Cực Lạc, hắn hấp thụ linh lực của rồng trên cuốn sách, trong suốt thời gian dài, hóa thành yêu linh.
Sau khi Diệt Uế chết, cuốn sách Cực Lạc được đặt trong Tàng Kinh Các của chùa Phù Đồ, cùng với vô số kinh điển khác bị phủ đầy bụi, không ai hỏi đến.
Thời gian trôi qua, năm tháng vụt bay, thoáng chốc đã đến thời Đại Chu, trụ trì chùa Phù Đồ đã trở thành Thành Giác.
Sau khi Võ Tắc Thiên lên ngôi, bà rất tôn sùng Phật giáo, rất yêu thích các bảo vật của Phật giáo. Thành Giác nghĩ rằng chùa Phù Đồ cũng là một ngôi chùa cổ có từ lâu đời, Tàng Kinh Các có thể có những bản kinh quý hiếm, có thể dâng lên nữ đế để được phong thưởng.
Thành Giác lục tìm trong Tàng Kinh Các, vô tình phát hiện ra cuốn sách Cực Lạc.
Yêu linh của Diệt Uế luôn ẩn náu trong cuốn sách Cực Lạc, theo năm tháng trôi qua, chấp niệm của hắn ngày càng sâu, hóa thành ác linh.
Khi Thành Giác mở cuốn sách Cực Lạc, yêu linh của Diệt Uế đã mê hoặc ông khiến ông giúp mình thực hiện nguyện vọng phổ độ chúng sinh vào Cực Lạc.
Chấp niệm của Diệt Uế đã làm cho Tàng Kinh Các nở rộ đầy những bông hoa Mạn Đà La gây ảo giác.
Diệt Uế nhớ lại thời đại của hắn, khi mọi người dùng Ngũ Thạch tán để đạt đến Cực Lạc, hắn đã kết hợp hoa Mạn Đà La với Ngũ Thạch tán, chế tạo ra thuốc Cực Lạc.
Sau khi dùng thuốc Cực Lạc, người ta sẽ có ảo giác tuyệt diệu, bước vào thế giới Cực Lạc. Còn Diệt Uế sẽ dùng cái chết để cứu độ những chúng sinh khổ nạn này, đưa linh hồn họ vào trong cuốn sách, cùng với hắn mãi mãi ở trong thế giới Cực Lạc.
Thành Giác và phu nhân Tâm Nguyệt Hồ là tình nhân, thỉnh thoảng bà đến chùa Phù Đồ để gặp gỡ với Thành Giác.
Diệt Uế nhận ra phu nhân Tâm Nguyệt Hồ có một loại chấp niệm khó dứt với Thành Giác, yêu hận đan xen.
Đó là mối tâm kết của bà.
Thành Giác là ảo cảnh Cực Lạc của phu nhân Tâm Nguyệt Hồ, là mê cung mà bà không thể thoát ra qua bao đời kiếp, giống như Diệt Uế luôn bị kẹt trong mê cung tâm hồn không thể cứu độ chúng sinh khổ nạn, không thể giải thoát.
Diệt Uế đã dùng cuốn Sách Cực Lạc để mê hoặc phu nhân Tâm Nguyệt Hồ. Hắn cần bà và Thành Giác giúp mình phát tán thuốc Cực Lạc đến nhiều người hơn, hắn còn cần bà và Thành Giác đưa những người đang chịu khổ nạn đến chùa Phù Đồ, trong những Tiệc Cực Lạc, đưa họ thoát khỏi biển khổ, bước vào cõi Cực Lạc vĩnh hằng.
Diệt Uế muốn đưa tất cả những người khổ nạn trên thế gian vào cõi Cực Lạc. Đó là nguyện vọng mà dù chết hóa thành yêu linh rồi hắn vẫn mãi đeo đuổi.
Tất cả ảo cảnh đều biến mất.
Nguyên Diệu cảm thấy vô cùng buồn bã, tâm trạng nặng nề.
Trong bóng tối, một lão hòa thượng mày trắng từ từ bước về phía Nguyên Diệu, đôi mắt đen như mực nhưng đáy mắt lại trong vắt như nước.
Lão tăng lông mày trắng đưa tay về phía Nguyên Diệu, nói: “A Di Đà Phật! Nhân gian như lò lửa, chúng sinh đều khổ, thế giới Ta Bà này là địa ngục, chỉ có ở cõi Cực Lạc xa xôi của Phật quốc mới có cảnh giới an lạc. Ngươi đi cùng lão nạp nhé.”
“Không, không muốn...”
Nguyên Diệu lắc đầu, vô thức lùi lại vài bước.
Đằng sau lão hòa thượng mày trắng, vô số hoa Mạn Đà La rơi xuống từ trên trời, bay tán loạn khắp nơi. Hoa Mạn Đà La biến thành những bàn tay đỏ như máu, bay tới từ trong hư không, nắm chặt lấy Nguyên Diệu.
“A Di Đà Phật! Ba người các ngươi cùng bước vào ảo cảnh của tiệc Cực Lạc, chỉ có ngươi bước vào được linh đài của lão nạp, nhìn thấy được cuộc đời lão nạp. Ngươi có căn duyên, lão nạp muốn dẫn ngươi thoát khỏi bể khổ, bước vào Cực Lạc tịnh độ... Đừng sợ, đau khổ chỉ là khoảnh khắc ngắn ngủi, linh hồn ngươi sẽ sớm nhập vào cuộn tranh, đạt được Cực Lạc vĩnh hằng…”
Nguyên Diệu vô cùng sợ hãi, hắn vùng vẫy một cách tuyệt vọng nhưng không thể thoát ra.
“Bạch Cơ, cứu ta với…”
Đột nhiên, trong hư không xuất hiện một móng vuốt rồng khổng lồ.
Móng vuốt rồng sắc nhọn như lưỡi dao, ngay lập tức chộp lấy lão hòa thượng mày trắng.
Trong bóng tối, vang lên giọng nói của Bạch Cơ.
“Lão hòa thượng này, định mang Hiên Chi của ta đi đâu?”
(của ta luôn ha)
Lão hòa thượng mày trắng vùng vẫy trong móng vuốt rồng.
Những bàn tay đang nắm lấy Nguyên Diệu lập tức biến thành hoa Mạn Đà La, rồi bị gió thổi bay tán loạn.
Đầu của rồng trắng dần hiện ra trong bóng tối, râu ria dựng đứng, đôi mắt vàng rực sáng, nhìn chằm chằm vào lão hòa thượng mày trắng bị mình chộp lấy.
Lão hòa thượng mày trắng thấy con rồng khổng lồ, có hơi hoảng sợ, lắp bắp nói: “Tại sao ngươi có thể tìm được ‘đường’ thoát ra khỏi ảo cảnh của sách Cực Lạc?”
Rồng rắng nhe răng, nói: “Sách Cực Lạc là do ta tạo ra, ngươi chẳng qua chỉ là chấp niệm hóa thành ma vật, dựa vào linh lực của ta mà tồn tại, ta tất nhiên có thể tìm ra ‘đường’ trong ảo cảnh của ngươi. Lão hòa thượng, vì chấp niệm của mình, ngươi đã giết chết biết bao nhiêu người. Ngươi thực sự là đệ tử Phật môn sao?”
Lão hòa thượng mày trắng nói: “Lão nạp không giết người, lão nạp đang độ người.”
Đôi mắt vàng của rồng trắng nheo lại thành một vầng trăng khuyết, nói: “Ngươi thử nhìn kỹ lại sách Cực Lạc xem.”
Trong hư không, một cuộn tranh phát sáng bay tới, cuộn tranh kéo dài vô tận.
Trên cuộn tranh, vẽ vô số người đủ mọi hình dạng, màu sắc, mỗi người đều sống động như thật, họ hóa thành Phật, mặc áo quần lộng lẫy, gương mặt mang nụ cười Cực Lạc, toàn thân tỏa ra ánh sáng vàng rực rỡ.
Chúng sinh đông đảo, đều ở Cực Lạc.
Lão hòa thượng mày trắng mỉm cười hài lòng: “A Di Đà Phật! Họ đều đang ở thế giới Cực Lạc.”
Rồng trắng lạnh lùng nói: “Lão hòa thượng, ngươi nhìn lại cho kỹ?”
Trên cuộn tranh vẽ vô số người đủ mọi hình dạng, màu sắc, mỗi người đều là một xác chết đầy máu, họ giữ nguyên tư thế lúc chết, hoặc thịt rách xương lộ, hoặc bụng vỡ ruột tràn, trên gương mặt họ là biểu cảm đau đớn, dữ tợn và kinh khủng.
Đông đảo chúng sinh, đều ở địa ngục.
*
"Lão hòa thượng mày trắng kêu lên đầy đau đớn trong móng vuốt của rồng trắng, không thể nhìn thẳng vào cuốn sách Cực Lạc, không thể chấp nhận sự thật.
Rồng trắng nói: "Lão hòa thượng, ngươi hãy nhìn kỹ thế giới Cực Lạc của ngươi. Thế giới Cực Lạc của ngươi là địa ngục của chúng sinh, lòng từ bi của ngươi là nỗi khổ của chúng sinh..."
"Im đi! Ngươi đừng nói nữa!" Lão hòa thượng mày trắng điên cuồng nói.
Rồng trắng tiếp tục: "Linh hồn của họ bị ngươi giam cầm trên cuộn tranh, mãi mãi chịu đựng trong đau khổ. Ngươi đã che mắt mình, không nhìn thấy nỗi khổ của họ. Ngươi chỉ vì thỏa mãn dục vọng của mình đã dùng hoa Mạn Đà La để mê hoặc tâm hồn chúng sinh, mang đến cho họ cái chết đầy đau đớn và sự hư vô vĩnh
cửu..."
Lão hòa thượng mày trắng lắc đầu, nói: "Không phải vậy, không phải như thế! Đây không phải là nguyện vọng của lão nạp. Lão nạp chỉ muốn đưa chúng sinh khổ nạn vào cõi Cực Lạc, lão nạp muốn rửa sạch tạp uế của thế gian này, cứu rỗi những linh hồn sa ngã..."
Rồng trắng nhìn Lão hòa thượng mày trắng, trong ánh mắt thương hại, nói: "Lão hòa thượng, ta đã gặp rất nhiều người như ngươi, bị lạc lối trong ảo giác, tự coi mình là thần thánh trên cõi trời cao. Đáng tiếc, sức mình có hạn, ngươi đã tích lũy quá nhiều nghiệp chướng, đi nhầm đường."
Lão hòa thượng mày trắng nhìn vào bức tranh Cực Lạc trong hư không.
Trên bức tranh Cực Lạc, chúng sinh đang đau khổ vô cùng, từng linh hồn oan uổng lần lượt hiện lên trước mắt Lão hòa thượng mày trắng. Mỗi linh hồn chết oan đều có khuôn mặt méo mó, phát ra những tiếng kêu rên đầy bi thảm nhìn lão tăng với ánh mắt oán hận.
Lão hòa thượng mày trắng lập tức sụp đổ.
"Đây... Đây không phải là điều lão nạp muốn... Trời ơi, lão nạp đã làm gì thế này... Sư phụ, đệ tử xin lỗi người, đệ tử đã bị vọng tưởng che mờ tâm trí, lạc lối và phạm phải sai lầm lớn..."
Rồng trắng thở dài một tiếng không thể nghe rõ.
"Lão hòa thượng, họ đều bị mắc kẹt trong chấp niệm của ngươi, không thể giải thoát. Hãy buông tha cho họ, và cũng buông tha cho chính ngươi, để họ đến nơi họ cần đến."
Lão hòa thượng mày trắng chắp tay, nói: "A Di Đà Phật!"
Một cơn gió đêm thổi qua, những bông hoa Mạn Đà La bay lượn trên trời, xoay quanh Lão hòa thượng mày trắng và dần dần bao phủ ông.
"A Di Đà Phật! Chúng sinh ở cõi Cực Lạc, nghĩ đến áo thì có áo, nghĩ đến thức ăn thì có thức ăn, mọi thứ đều tự nhiên đầy đủ. Không tham, không sân, không si mê. Mọi chúng sinh luôn nghe pháp vi diệu, đó là thế giới Cực Lạc..."
Lão hòa thượng mày trắng lẩm bẩm, những bông hoa Mạn Đà La đỏ thẫm biến thành những ngọn lửa bừng bừng.
Ngọn lửa cháy dữ dội, nuốt chửng Lão hòa thượng mày trắng, ông dần dần biến thành một bộ xương trong ngọn lửa. Cùng lúc đó những bông hoa Mạn Đà La bay lượn trên trời biến thành từng câu kinh văn.
Trong hư không, trên cuộn tranh, những chúng sinh bị giam cầm bay lên không trung, họ bám vào những dòng kinh văn, từ từ bay lên trời.
Không thiện, cũng không ác.
Vãng tử, cũng vãng sinh.
Chúng sinh đã thoát khỏi sự giam cầm của Diệt Uế, họ rời khỏi sách Cực Lạc, cưỡi trên kinh văn, tiến vào luân hồi.
Khi linh hồn cuối cùng rời khỏi sách Cực Lạc và cuốn kinh trở thành một cuộn giấy trắng trống rỗng, bộ xương của Diệt Uế ngay lập tức vỡ thành tro bụi.
Một đàn bướm khô héo như lá vàng vỗ cánh bay tán loạn trong hư không, dần dần biến mất rồi không còn dấu vết.
Một cơn gió thổi qua, cuộn giấy trắng bay vào móng vuốt của Rồng trắng.
Nguyên Diệu nghiêng đầu nhìn lên cuộn giấy trên không trung.
Trên cuộn giấy, dần dần hiện lên hình ảnh của một lão hòa thượng mày trắng.
Rồng trắng nói: "Lão hòa thượng, ngươi không muốn vào luân hồi sao? Ồ, ta hiểu rồi, ngươi vẫn không thể rời bỏ cõi Cực Lạc, còn ham muốn cái ảo tưởng hư không đó."
Không ai trả lời câu hỏi của Rồng trắng.
Tuy nhiên, trên cuộn Sách Cực Lạc, lão hòa thượng mày trắng đã chắp tay, đôi mắt khép lại.
Nguyên Diệu nhìn Diệt Uế trong cuốn Sách Cực Lạc, cảm xúc trong lòng vô cùng phức tạp.
Đột nhiên, hư không bắt đầu rung chuyển, đất trời quanh đó cũng chao đảo.
Rồng trắng nói: "Đi thôi, Hiên Chi, đã đến lúc rời khỏi ảo cảnh Cực Lạc của lão hòa thượng rồi."
"Đi bằng cách nào?"
Nguyên Diệu cố gắng giữ vững thân hình, hỏi.
Rồng trắng không trả lời, nó cầm cuộn sách Cực Lạc bay lượn một vòng trên không rồi biến mất.
Đồng thời, dưới chân Nguyên Diệu xuất hiện một con "đường" hư ảo.
Nguyên Diệu vội vàng bước lên "đường".
Khi vừa bước lên "đường", trước mắt Nguyên Diệu hiện ra một luồng ánh sáng.
Nguyên Diệu lập tức chạy về phía ánh sáng.
Đang chạy, Nguyên Diệu thấy trong ánh sáng phía trước có một bóng đen cũng đang chạy.
Nguyên Diệu nhìn kỹ, đó là một con mèo đen.
"Ly Nô lão đệ?!"
Mèo đen quay đầu lại nhìn, nói: "Mọt sách cũng đến rồi à?"
"Ly Nô lão đệ đã đi đâu thế?"
"Ta rơi vào một cái hố, khắp nơi đều là ảo cảnh, không thể thoát ra. Vừa rồi nghe thấy tiếng chủ nhân, dưới chân mới có "đường"."
"..."
"Mọt sách mau chạy đi, chỉ cần chạy thêm vài bước nữa là sẽ ra ngoài."
Nguyên Diệu và Ly Nô chạy thêm vài bước, đột nhiên bước hụt một bước, ánh sáng bao phủ họ, sáng đến nỗi không thể mở mắt."
Khi Nguyên Diệu có thể nhìn rõ xung quanh, hắn phát hiện bản thân cùng Ly Nô đã trở về Tàng Kinh Các.
Tàng Kinh Các khác hẳn với những gì hắn vừa thấy.
Không còn không gian vô tận, chỉ có một gian thư phòng rộng lớn, giá sách hình trụ chất đầy quyển kinh, trên giá và sách đều phủ một lớp bụi, không còn đoá hoa Mạn Đà La nở rộ. Không có yến tiệc, cũng không có đám đông, càng không có máu và xác chết.
Dưới ánh sáng mờ ảo của ngọn đèn dầu, Thành Giác đang gục trên bàn, mê man bất tỉnh. Bạch Cơ lặng lẽ đứng bên cạnh, trong tay cầm một cuộn kinh ngả vàng.
Bạch Cơ ngẩng đầu lên nhìn thấy Nguyên Diệu và Ly Nô thì mỉm cười nói: “Ồ, Hiên Chi, Ly Nô, các ngươi ra ngoài rồi.”
Nguyên Diệu đảo mắt nhìn quanh, hỏi: “Bạch Cơ, rốt cuộc chuyện này là thế nào? Vừa rồi còn thấy yến tiệc, lại có người nữa?”
Bạch Cơ cười nói: “Đêm đã khuya, Tàng Kinh Các này không có tiệc Cực Lạc, cũng không có ai. Khi chúng ta bước vào chùa Phù Đồ, đã đặt chân vào ảo cảnh Cực Lạc của Diệt Uế rồi, những gì chúng ta thấy đều là ảo ảnh của quá khứ.”
Nguyên Diệu và Ly Nô tiến đến gần Bạch Cơ.
Ly Nô liếc nhìn Thành Giác đang gục trên bàn, hỏi: “Chủ nhân, vị hòa thượng này có phải sắp chết rồi không?”
Nguyên Diệu cúi đầu nhìn thoáng qua Thành Giác đang hôn mê, không khỏi giật mình.
Thành Giác nửa nằm trên bàn, hai mắt lật ngược, mặt mày vàng vọt trông như đã chết.
Nguyên Diệu cúi người xuống, đưa tay dò hơi thở của Thành Giác.
Hơi thở Thành Giác yếu như tơ, nửa sống nửa chết.
Nguyên Diệu hỏi: “Bạch Cơ, trụ trì Thành Giác còn sống không?”
Bạch Cơ liếc nhìn Thành Giác, nói: “Vẫn chưa chết, nhưng cũng không sống nổi nữa. Ông ta bị ác linh của Diệt Uế mê hoặc tâm trí, tổ chức yến tiệc Cực Lạc để hại người vô tội. Những ai bị ác linh xâm chiếm cơ thể thì mạng không còn dài.”
Nguyên Diệu cảm thấy thương hại, nói: “Trụ trì Thành Giác bị mê hoặc tâm trí mới làm sai chuyện… Bạch Cơ có thể cứu ông ta không…”
Bạch Cơ hơi khó xử, nói: “Hiên Chi, lúc trước bị mắc kẹt trong mê cung ngàn cửa ta đã tiêu hao không ít linh lực. Sau đó, để bảo vệ tính mạng của phu nhân Tâm Nguyệt Hồ, ta lại tổn hao thêm nhiều linh lực nữa. Bây giờ mà cứu ông ta, ta phải nói lời tạm biệt với ngươi rồi.”
Nguyên Diệu khó hiểu, hỏi: “Ý ngươi là gì?”
Bạch Cơ đáp: “Trong thời gian ngắn tiêu hao quá nhiều linh lực, tổn thương đến nguyên thần, ta phải đóng cửa Phiêu Miểu Các, ngủ đông vài chục hoặc cả trăm năm để hồi phục.”
“Chuyện này…”
Nguyên Diệu nhìn Thành Giác, trong lòng vẫn còn chút buồn bã. Mặc dù tiệc Cực Lạc lan truyền vào Thần Đô qua Thành Giác và phu nhân Tâm Nguyệt Hồ, khiến nhiều người mất mạng. Thành Giác đã hại chết nhiều người vô tội, nhưng ông ta cũng chỉ là quân cờ bị ác linh của Diệt Uế điều khiển.
Bạch Cơ nói: “Hiên Chi đừng buồn. Trên đời này, vạn sự đều có duyên pháp của nó, người làm việc gì đều có nhân quả. Thành Giác giúp kẻ xấu làm việc ác, còn dùng độc chướng hại phu nhân Tâm Nguyệt Hồ, kết cục này chính là quả của ông ta.”
Nguyên Diệu ngạc nhiên hỏi: “Phu nhân Tâm Nguyệt Hồ không phải bị ác linh của Diệt Uế mê hoặc sao? Sao lại là bị Thành Giác hại?”
Bạch Cơ im lặng một lúc, mới nói: “Phu nhân Tâm Nguyệt Hồ là một yêu quái lớn, có tu vi nghìn năm, ác linh của Diệt Uế chẳng là gì trước mặt bà ta. Bà ta không bị Diệt Uế mê hoặc, chỉ bị Thành Giác làm mất hồn. Đó là số kiếp của bà ta.”
Nguyên Diệu vẫn chưa hiểu, hắn vừa định mở miệng hỏi thì bất ngờ có hai cái bóng đỏ xẹt qua như gió.
Thì ra là hai con hồ ly đỏ.
Một con là Hồ Thập Tam Lang. Con hồ ly đỏ ánh kim vừa đáp xuống đất đã hoá thành một nữ nhân áo đỏ, dung nhan tuyệt mỹ.
Chính là phu nhân Tâm Nguyệt Hồ.
Phu nhân Tâm Nguyệt Hồ mặt mày tái nhợt, trông có vẻ yếu ớt, bà ta lao tới ôm lấy Thành Giác đang hấp hối.
Phu nhân Tâm Nguyệt Hồ cúi đầu nhìn Thành Giác, ánh mắt dịu dàng đầy tình cảm, một giọt lệ trong suốt rơi xuống từ khoé mắt bà ta.
“Ninh Lang…”
Nguyên Diệu nhớ lại trong mơ mình thấy phu nhân Tâm Nguyệt Hồ ôm một bộ xương trắng, chôn sâu dưới đất, miệng gọi Ninh Lang. Ninh Lang chắc hẳn là người tình của bà ta khi xưa. Nghe nói, Ninh Lang phụ bạc phu nhân Tâm Nguyệt Hồ khiến bà ta hận mà giết chết hắn. Vậy tại sao bây giờ bà ta lại ôm Thành Giác gọi Ninh Lang?!
Phiêu Miểu Các, hậu viện.
Trời thu cao trong, nắng ấm chan hòa, khắp sân cỏ thu đã vàng úa, nhưng cây Bồ Đề xanh biếc như một chiếc ô khổng lồ xanh vàng, hồ sen Thất Bảo lấp lánh sóng biếc, hoa sen nở rộ, sáng rực rỡ.
Sau bữa sáng, Ly Nô đã ra ngoài mua cá.
Bạch Cơ thấy trời nắng đẹp bèn trải một tấm thảm len Ba Tư lên thảm cỏ, đặt lên vài chiếc đệm mềm, sau đó lấy ra một chai rượu Lưu Hà từ Tây Vực, vừa thưởng thức rượu nho vừa nằm tựa lên đệm phơi nắng.
Nguyên Diệu bận rộn suốt trong cửa tiệm, hắn dọn dẹp sảnh chính một lượt, sau đó tính toán lại sổ sách gần đây, rồi đóng gói hàng hóa cần giao trong các hộp, định bụng sẽ đi giao sau bữa trưa.
Từ cửa sổ trong phòng, Nguyên Diệu nhìn ra thấy Bạch Cơ ngoài sân lúc thì nằm phơi nắng, lúc thì bò ra phơi, rồi lại nghiêng người phơi nắng, có vẻ như rất chán chường, không khỏi nói: "Bạch Cơ từ sáng đến giờ chỉ toàn nằm phơi nắng thôi. Nếu thấy chán quá thì ngươi có thể đi giao hàng, vừa đi vừa phơi nắng, nhìn ngắm cảnh sắc sông Lạc và phong cảnh Thần Đô, chắc chắn thú vị hơn nằm đây phơi nắng nhiều."
Bạch Cơ mở mắt, cầm ly thủy tinh lên, uống một ngụm rượu đỏ Lưu Hà, cười nói: "Hiên Chi tự đi giao hàng đi. Ta đang hấp thụ tinh hoa nhật nguyệt, luyện khí nội công, không thể động đậy được."
Tinh hoa nhật nguyệt, luyện khí nội công gì chứ, chưa từng nghe yêu quái nào vừa uống rượu nho vừa phơi nắng để tu luyện. Con yêu rồng này rõ ràng chỉ là lười biếng, chẳng muốn động đậy.
Nguyên Diệu thầm nghĩ trong lòng.
Đột nhiên, Nguyên Diệu nhớ ra điều gì đó, nói: "À đúng rồi, Bạch Cơ, hôm qua khi ta đi giao hàng, có gặp Đan Dương, tiện nói chuyện một chút. Ngày kia là sinh nhật của Trọng Hoa, hắn nhờ Đan Dương mời chúng ta, đặc biệt là ngươi đến lầu Mẫu Đơn tham gia tiệc sinh nhật của hắn."
Bạch Cơ nghe xong, bèn nói: "Sinh nhật của Bùi tướng quân à? Nếu đi thì phải mang quà, còn phải nghe hắn bày tỏ nỗi lòng... Nghĩ đến thôi đã thấy phiền rồi, ta sẽ không đi đâu. Hiên Chi có đi không?"
Nguyên Diệu gãi đầu, nói: "Trọng Hoa rất tốt với ta, hắn đã mời thì ta muốn đi..."
Bạch Cơ nói: "Vậy Hiên Chi đi nhé. Ngươi cứ nói là mấy hôm nay ta phải đi Trường An thu nợ, không có mặt ở Thần Đô."
"Được." Nguyên Diệu trả lời.
Nguyên Diệu tiếp tục bận rộn, Bạch Cơ tiếp tục uống rượu và phơi nắng.
Lúc này, một con tiểu hồ ly ngậm giỏ trúc đi vào Phiêu Miểu Các. Trong giỏ trúc chứa đầy các loại dâu rừng mùa thu, có quả mâm xôi đỏ, quả dây leo xanh.
"Có ai ở đây không? Bạch Cơ, Nguyên công tử, các ngươi có ở đây không?"
Hồ Thập Tam Lang đặt giỏ trúc xuống sảnh chính, lễ phép hỏi.
Nguyên Diệu bước ra từ phòng trong, cười nói: “Thập Tam Lang, sao ngươi lại đến đây? Mau vào ngồi đi.”
Tiểu hồ ly lịch sự đáp: “Nguyên công tử, mỗ đến để cáo từ. Ngày mai, mỗ sẽ trở về núi Thúy Hoa. Đây là một ít quả dại trong rừng gần chợ Quỷ, không thể mua được ở chợ. Thấy chúng ngon lành, mỗ hái một ít mang đến cho mọi người thử.”
Nguyên Diệu nói: “Thập Tam Lang thật có lòng. Bạch Cơ đang tắm nắng ở sân sau, để ta dẫn ngươi vào.”
Nguyên Diệu nhấc giỏ tre, dẫn tiểu hồ ly vào sân sau.
Tiểu hồ ly nói ý định đến với Bạch Cơ, Bạch Cơ bèn giữ nó lại ở Phiêu Miểu các ăn tối, coi như tiệc tiễn biệt.
Tiểu hồ ly vui vẻ đồng ý.
Bạch Cơ rót cho hồ ly một ly rượu Lưu Hà, cũng rót cho Nguyên Diệu một ly.
Tiểu hồ ly rửa sạch những quả dại trong giỏ tre, bên giếng nước rồi bày chúng lên đĩa hổ phách.
Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và Hồ Thập Tam Lang vừa ngồi trên tấm thảm Ba Tư phơi nắng vừa ăn những quả dại chua ngọt vừa trò chuyện.
Bạch Cơ hỏi: “Thập Tam Lang, sức khỏe của phu nhân Tâm Nguyệt Hồ có khá hơn không?”
Hồ Thập Tam Lang ăn một quả dâu tằm, chua đến mức nheo mắt lại.
“Cô cô đã khá hơn rồi, giờ Lầu Tâm Nguyệt cũng bắt đầu kinh doanh trở lại. Hôm nay, khi ta ra ngoài, cô cô còn nhờ ta mời Bạch Cơ có dịp thì đến Lầu Tâm Nguyệt chơi. À, mấy tỷ muội hồ ly cũng rất mong con mèo đen đáng ghét đó đến chơi, họ nói chưa bao giờ được ăn món mì hoành thánh ngon như vậy. Giờ đầu bếp quay lại làm việc rồi nhưng họ lại chê bai tay nghề của đầu bếp không bằng.”
Nguyên Diệu đổ mồ hôi lạnh. Nhưng đúng là món mì hoành thánh do Ly Nô nấu rất ngon.
Bạch Cơ cười hỏi: “Trụ trì Thành Giác thế nào rồi?”
Hồ Thập Tam Lang lo lắng, nói: “Dưới sự chăm sóc tận tình của cô cô, trụ trì Thành Giác cũng đã tỉnh lại. Sau khi có thể đứng dậy, ông ấy đã trở về chùa Phù Đồ. Trụ trì Thành Giác rất hối hận về những gì mình đã làm, hối hận vì vô tình đã gây hại cho nhiều người, cảm thấy có lỗi với Phật tổ. Nhưng ta cảm thấy ông ta lại chẳng hề hối hận về việc đầu độc cô cô, nhưng cô cô cũng không để tâm. Ta không hiểu cũng không biết phải nói gì, chỉ cảm thấy rất lo cho cô cô.”
Bạch Cơ nói: “Tình cảm là thứ phức tạp, người ngoài rất khó hiểu. Đây là lựa chọn của phu nhân Tâm Nguyệt Hồ, chúng ta cũng không nên nói nhiều. Có lẽ đây cũng là nhân quả đã được định sẵn từ trước.”
Nguyên Diệu hỏi: “Bạch Cơ, tại sao ngươi lại nói như vậy?”
Bạch Cơ nhấp một ngụm rượu vang, mắt nheo lại nhớ lại: “Năm xưa, phu nhân Tâm Nguyệt Hồ bị tình lang phản bội, nàng mất nội đan, tính mạng ngàn cân treo sợi tóc, trong lòng tràn ngập hận thù. Nàng đến Phiêu Miểu các tìm ta thực hiện một giao dịch. Ta giúp nàng tái sinh, nàng có được sức mạnh rồi đi báo thù. Phu nhân Tâm Nguyệt Hồ trong cơn giận dữ đã giết cả gia đình của Ninh Lang, từ phụ mẫu, thê tử đến con cái của Ninh Lang đều bị hại, không ai sống sót. Nhưng nàng vẫn còn tình cảm với Ninh Lang, không giết hắn và mong được tái hợp. Ninh Lang lại tràn đầy hận thù với nàng, trước khi chết, hắn thề độc rằng kiếp kiếp đời đời sẽ không yêu nàng, mà sẽ trừng phạt nàng rồi tự sát. Phu nhân Tâm Nguyệt Hồ không cam lòng, liên tục tìm kiếm kiếp sau của Ninh Lang, mỗi kiếp đều kết duyên với hắn, tái ngộ tình xưa. Lúc đó ta không hiểu gì cả, hoàn toàn không hiểu tại sao phu nhân Tâm Nguyệt Hồ lại làm như vậy. Ly Nô cũng cho rằng phu nhân Tâm Nguyệt Hồ đã phát điên. Nhưng giờ nghĩ lại, trên đời này có đủ loại người, tình cảm cũng phức tạp, đa dạng, tình yêu cũng không chỉ có một hình thức duy nhất. Phu nhân Tâm Nguyệt Hồ và Ninh Lang qua kiếp kiếp đời đời vẫn dây dưa như vậy, có lẽ đó là kết quả của tình yêu.”
Nguyên Diệu nói: “Thì ra có một câu chuyện như vậy đằng sau, tình cảm trong đó thật phức tạp…”
Hồ Thập Tam Lang vò đầu bứt tóc điên cuồng.
“Ta hoàn toàn không hiểu, chỉ cảm thấy cô cô có hơi điên rồ…”
Bạch Cơ nói: “Đây có lẽ là tình yêu. Khi yêu và hận đạt đến cực điểm, đều trở nên điên cuồng.”
Ly Nô mua đồ về, nó xách theo một con cá trắm lớn còn mang theo một chiếc giỏ tre, bên trong chứa những con cá trúc nhỏ.
Ly Nô vừa nhìn thấy Hồ Thập Tam Lang đang ngồi trong sân sau uống rượu bèn muốn gây sự nhưng vì có Bạch Cơ ở đó, nó không dám làm bừa.
Nguyên Diệu hỏi: “Ly Nô lão đệ, sao hôm nay ngươi lại mua nhiều cá thế? Cả cá trắm lẫn cá trúc?”
Mèo đen chỉ vào giỏ tre, cười nói: “Ta ngày nào cũng đi mua cá, ông lão bán cá đã quen mặt ta rồi. Giỏ cá trúc này là ông ấy tặng. Trưa nay ta không nấu cơm đâu, ta sẽ nướng cá trúc cho mọi người ăn.”
Nói xong, Ly Nô bèn vào bếp chuẩn bị.
Chẳng bao lâu, Ly Nô mang ra một chiếc lò nướng bằng đất đỏ, xiên những con cá trúc đã được ướp gia vị bằng que tre rồi đặt lên lò nướng, từ từ nướng trên lửa.
Hồ Thập Tam Lang cũng qua giúp, cầm quạt nan bắt đầu quạt lửa.
Một con mèo và một con hồ ly cùng nướng cá trúc, hương thơm của cá nướng lan tỏa trong không khí.
Một cơn gió thổi qua, cỏ khô rạp xuống, bức tranh cuộn treo trên cây bồ đề lay động phát ra những tiếng kêu lách tách.
Kể từ khi Bạch Cơ lấy lại được cuộn tranh Cực Lạc, nàng đã treo nó trên cây bồ đề, và mỗi khi rảnh rỗi, nàng lại ngồi thiền trước cuộn tranh, không biết nàng đang suy ngẫm điều gì.
Nguyên Diệu hỏi: “Bạch Cơ, ta luôn muốn hỏi, tại sao ngươi lại treo cuộn tranh Cực Lạc trên cây bồ đề thế?”
Bạch Cơ nhấp một ngụm rượu vang, nói: “Hiên Chi, ta luôn suy nghĩ về mối quan hệ giữa lòng người, tín ngưỡng và tôn giáo. Diệt Uế tin Phật giáo, tin vào sức mạnh vô biên của Phật pháp, cả đời ông ấy đều dùng lý tưởng Phật giáo để cứu rỗi chúng sinh. Ông ấy có một chấp niệm là muốn đưa chúng sinh vào cõi Cực Lạc. Nếu như tình yêu là thứ đẩy phu nhân Tâm Nguyệt Hồ vào sự điên rồ thì tín ngưỡng là thứ khiến Diệt Uế rơi vào sự điên rồ.”
Nguyên Diệu thở dài nói: “Luôn cảm thấy Diệt Uế thiền sư thật đáng thương, cả đời này, thứ ông ấy muốn có chỉ là mọi người có cơm ăn áo mặc, không phải đối mặt với chiến tranh và cái chết.”
Bạch Cơ nói: “Đúng vậy, trong thời đại mà ông ấy sống, vì chiến tranh liên miên, thế gian ngập tràn thối nát và cái chết. Chúng sinh chìm trong khổ đau, thế giới đầy bụi trần khiến ông ấy sa vào chấp niệm. Ngày nay, thiên hạ thái bình, mọi người sống trong cảnh yên vui, con người sống an nhàn, yên ổn, chúng sinh đã sống trong thế giới Cực Lạc mà hắn từng mong đợi. Đáng tiếc, hắn lại bị chấp niệm làm mờ mắt, không nhìn thấy thế giới thực mà mang đến sự mục nát và cái chết cho chúng sinh, gây hại cho không ít người vô tội."
Nguyên Diệu cảm thấy rất buồn, thở dài đầy thương cảm.
Bạch Cơ nói: "Hiên Chi, đừng nhắc đến Diệt Uế nữa. Gần đây, ta ngày nào cũng đối diện với sách Cực Lạc suy nghĩ, và sau khi suy nghĩ, ta đã rút ra một điều."
Nguyên Diệu dựng tai lên hỏi: "Là điều gì?"
Bạch Cơ nghiêm túc nói: "Niềm tin là nền tảng của tôn giáo, niềm tin tạo ra thần Phật, niềm tin bắt nguồn từ lòng người là ảo ảnh chân thật nhất của chúng sinh. Đồng thời, niềm tin cũng có thể nuôi dưỡng tâm hồn chúng sinh, mang lại sự cứu rỗi cho linh hồn của chúng sinh, và cũng có thể mang lại cho chúng sinh sức mạnh vô tận..."
Nguyên Diệu hỏi: "Vậy nên Bạch Cơ, sau khi suy nghĩ, ngươi đã rút ra kết luận gì? Có phải là ngươi sẽ tôn thờ Phật tổ một cách thành kính hơn, mỗi ngày niệm kinh nhiều hơn và làm nhiều việc thiện hơn không?"
Bạch Cơ lắc đầu, nói: "Không phải vậy, Hiên Chi. Sau khi suy nghĩ, ta rút ra kết luận rằng, ta cũng có thể tạo ra một tôn giáo."
Nguyên Diệu nghe không rõ, hỏi lại: "Cái gì?!"
Bạch Cơ nghiêm túc nói: "Nếu lòng người đã cần niềm tin, tôn giáo lại được sinh ra từ niềm tin thì ta cũng có thể mượn sức mạnh của lòng người, tạo ra một tôn giáo. Nếu tôn giáo này đi sâu vào lòng người, có nhiều tín đồ, lan rộng khắp thế giới thì chẳng mấy chốc sẽ được thu thập đủ hàng vạn nhân quả. Ta sẽ không cần mở Phiêu Miểu các nữa, cũng không cần phải thu thập từng nhân quả một, cực khổ biết bao."
“Phụt...”
Nguyên Diệu phun một ngụm rượu nho ra ngoài. Con rồng yêu này mỗi ngày ngồi dưới gốc cây bồ đề suy nghĩ, rút ra được kết luận là phải tạo ra một tôn giáo mới sao?
"Bạch Cơ, việc tạo ra một tôn giáo mới là rất khó khăn..."
"Không khó khăn lắm. Ngươi xem, bức trạn Cực Lạc là ta tạo ra, nó cũng thu hút được nhiều người còn khiến kinh đô dấy lên một làn sóng ưa chuộng Cực Lạc nữa."
Làn sóng ưa chuộng Cực Lạc nổi lên là do chấp niệm của Diệt Uế và Cực Lạc Tán mê hoặc mọi người, chứ không phải do bức tranh Cực Lạc giả mạo của ngươi đâu.
Nguyên Diệu nghĩ thầm.
"Tạo ra tôn giáo gì đây nhỉ? Phải có đông đảo tín đồ mới được."
Bạch Cơ suy nghĩ.
Ly Nô vừa nướng cá thanh trúc vừa nói: "Chủ nhân, dân dĩ thực vi thiên, ai ai cũng cần ăn cơm, ăn cơm là điều mà mọi người đều phải làm, ngươi có thể tạo ra một giáo phái về ẩm thực."
Bạch Cơ có hơi khó khăn, nói: "Giáo phái về ẩm thực có thể có nhiều tín đồ. Nhưng ta lại không biết nấu ăn..."
Ly Nô nói: "Chủ nhân, Ly Nô biết nấu. Người không cần lo lắng. Người chỉ cần làm thần minh, Ly Nô sẽ làm giáo chủ, thay ngươi chiêu mộ tín đồ, thu thập nhân quả."
Hồ Thập Tam Lang vừa để cá thanh trúc nướng vào đĩa lá sen vừa mang tới cho Bạch Cơ và Nguyên Diệu vừa nói: "Mỗ cũng có chút tài nghệ nấu nướng, vậy thì mỗ sẽ làm hộ pháp của giáo phái ẩm thực."
Bạch Cơ cầm một xiên cá thanh trúc nướng lêm, cắn một miếng, cười nói: "Thơm ngon, mềm mại, đúng là ngon! Hiáo phái ẩm thực này biết đâu có thể thành công!"
Nguyên Diệu vốn có rất nhiều điều muốn nói nhưng sau khi cắn một miếng cá nướng thì quên mất mình định nói gì.
Nguyên Diệu vừa ăn cá thanh trúc nướng thơm ngon vừa lắng nghe Bạch Cơ, Ly Nô, và Hồ Thập Tam Lang bàn luận sôi nổi, xây dựng nên một bức tranh lớn về giáo phái ẩm thực, hắn chợt cảm thấy buổi chiều mùa thu ấm áp này thật đẹp đẽ.
Cực Lạc thế giới, cũng chỉ đến thế mà thôi.
Một cơn gió thổi qua, dưới gốc cây bồ đề, sách Cực Lạc bay phấp phới theo gió, hình ảnh Diệt Uế trên đó mỉm cười, biểu cảm hạnh phúc và vui vẻ, dường như đã bước vào thế giới Cực Lạc vĩnh hằng.
Cuối thu đã đến rồi.
(Sách Cực Lạc hết)