Gần đây đã có rất nhiều rắc rối ở trong triều.
Hoàng đế Hung Nô của Hán quốc ở Bình Dương phái sứ thần tới Lạc Dương.
Ở thảo nguyên phương Bắc, quận Tân Hưng phía bắc Đại Ngụy từng có hai mươi bộ lạc man di.
Luyên Đê Vương của nam Hung Nô khởi binh tiêu diệt Đông Hồ, thâu tóm Tây Vực, chiếm lĩnh khuỷu sông, thống nhất thảo nguyên phương Bắc, xưng bá đế quốc Hung Nô, đấy là vào thời Hoàng đế Tuyên Tông.
Khi ấy, Hung Nô có hơn bốn mươi vạn binh sĩ tinh nhuệ.
Sau đó, lợi dụng sự chia rẽ của triều đình Đại Ngụy, Tịnh Châu đã bị tách ra ngay, lập nên Hán quốc ở Bình Dương.
Người Hung Nô sùng bái Hán học, cũng có quan viên văn võ giỏi giang, hiện giờ Hán Vương Hô Diên Kỳ hơn năm mươi tuổi, từ lâu đã ngấp nghé vùng đất thuộc quyền quản lý của Đại Ngụy như hổ rình mồi.
Vào thời Tuyên Tông Đế và Huệ Thành Đế, Đại Ngụy toàn đưa nữ nhi của tông thất sang hòa thân.
Lần này Hán quốc phái sứ thần tiến đến, lấy danh nghĩa hỗ trợ thiết lập bang giao, nhưng thực chất là có mục đích khác.
Mặc dù chính quyền Đại Ngụy bị chia rẽ, nhưng các phiên vương đều nuôi dưỡng tư binh, thực lực vốn không tệ chút nào.
Ngặt nỗi Đại Ngụy trải qua bao nhiêu năm nội chiến, phản loạn dấy lên không ngừng nên nền tảng đã bị phá vỡ, khó có thể tập trung quyền lực.
Triệu Lăng cần thêm thời gian, lúc này Đại Ngụy chịu không nổi một trận chiến lớn.
Vì vậy, triều đình dự định tiếp đón các sứ giả của Hán quốc một cách thận trọng, không gây ra bất kỳ xung đột nào.
Vào loại thời điểm nhạy cảm như vậy, ý kiến của các quan viên văn võ và các phiên vương đều nhất trí vói nhau.
Trước khi sứ thần vào triều, Triệu Lăng luôn rất bận rộn.
Thế nên đã mấy ngày liền y không đến chỗ Kiều Tĩnh Nhàn.
Tôi thông cảm y vất vả, buổi tối dặn dò hầm canh sâm để y dùng khi trở về.
Triệu Lăng trông có vẻ mệt mỏi, khi tắm gội mà còn nhắm mắt nghỉ ngơi, tôi đến giúp y xoa bóp thái dương.
Chưa đầy một lát, Triệu Lăng đã nắm cổ tay kéo tôi đến trước người, mỉm cười hỏi: “Tắm ch ung nhé?”
Tôi nhẹ đẩy y một cái: “Thần thiếp tắm rồi.”
“Hà Thanh ngủ à?”
“Quá muộn, nhũ mẫu bế con bé đi rồi.”
“Ừ.”
Đêm khuya tĩnh lặng, bên trong màn lưới, y không buồn ngủ, lại muốn trêu chọc tôi.
Tóc mai quấn quýt, tôi nhịn không được khen dỗi: “Có thể thấy bệ hạ bận cả một ngày mà vẫn không biết mệt.”
“Dù mệt mỏi đến đâu cũng không thể bỏ bê Hoàng hậu.”
Y cười nhẹ bên tai tôi, tôi khịt mũi: “Thần thiếp không sợ bị bỏ rơi.”
Triệu Lăng thuận thể nắm tay tôi: “Được rồi, Dung nhi không sợ bị bỏ rơi, là trẫm cầm lòng không đặng.”
Vừa nói vừa cười, quần áo cởi được một nửa, ngay lúc này, ngoài điện truyền đến tiếng động.
Bảo Lê cách cửa bẩm báo: “Nương nương, Kỳ Dương cung truyền tin, nói là Kiều Thục viện tự sát...”
Trong nháy mắt, Triệu Lăng và tôi hoàn toàn thanh tỉnh.
Kiều Tĩnh Nhàn treo cổ tự tử, cũng may cung nhân phát hiện kịp thời cứu được.
Kỳ Dương cung, Kiều Tĩnh Nhàn suy yếu nằm trên giường, tóc dài hơi rối, gương mặt trắng nõn gầy gò tràn ngập vẻ nhu nhược.
Nhìn thấy Triệu Lăng, cô ta bổ nhào vào lòng y, khóc ròng: “Tử Tấn, hãy để muội chết đi, muội thật sự không muốn sống, đau khổ quá!”
Triệu Lăng trấn an: “A Nhàn, tất cả đều đã qua, sau này sẽ không có ai làm tổn thương muội nữa, chớ hồi tưởng.”
Không muốn hồi tưởng, tất nhiên là những chuyện không thể chịu nỗi khi nghĩ đến.
Kiều Tĩnh Nhàn nắm chặt ống tay áo y, như người tuyệt vọng vớ được cọng rơm cứu mạng: “Huynh biết mà, tình nghĩa muội dành cho huynh trời đất chứng giám. Tử Tấn, muội tuyệt đối sẽ không làm chuyện tổn thương huynh.”
“Trẫm biết, trẫm biết hết.”
Triệu Lăng quay lưng về phía tôi, ôm cô ta vào lòng.
“A Nhàn vĩnh viễn là A Nhàn lúc xưa, là cô nương tốt, trẫm tin tưởng muội.”
“Tử Tấn, huynh ở bên cạnh muội được không, muội sợ quá, cứ nhắm mắt lại là sẽ gặp ác mộng vô tận.”
Đêm đó, Triệu Lăng ở lại Kỳ Dương cung.
Trong vài ngày tiếp theo, y đều ở lại nơi đó.
Từ ngày ấy Kiều Tĩnh Nhàn bị bệnh một trận, mơ mơ màng màng nói mê sảng vài đêm.
Làm Hoàng Hậu, lý ra tôi nên đi thăm cô ta.
Trên thực tế tôi cũng đã đi thật, ngặt nỗi đi không đúng lúc. Kiều Tĩnh Nhàn vừa mới ngủ, toàn bộ Kỳ Dương cung đều như nhận được mệnh lệnh, yên tĩnh không một tiếng động.
Tôi đứng trong điện, nhìn Triệu Lăng ngồi ở mép giường, ngẩn ngơ ngắm Kiều Tĩnh Nhàn chăm chú.
Tôi chưa bao giờ thấy ánh mắt y như thế, thương hại, áy náy, xen lẫn nỗi đau khôn tả.
Trong chuỗi cảm xúc phức tạp đó, vẻ mặt y mềm mại hơn, do dự vươn tay ra, đầu tiên là đặt trên thái dương Kiều Tĩnh Nhàn, sau đó chậm rãi vuốt xuống, từ vành tai đến cổ.
Chẳng biết ma xui quỷ khiến thế nào mà tôi gọi y một tiếng: “Bệ hạ.”
Triệu Lăng hồi phục tinh thần, vẻ mờ mịt trong mắt biến mất, lấy lại được sự minh mẫn, bình tĩnh và tự chủ.
Tôi đột nhiên cảm thấy mình thật nực cười, vì sao phải gọi y?
Là một hoàng hậu bao dung và đoan chính, lẽ ra tôi nên thức thời và rời đi trong im lặng.
Kiều Tĩnh Nhàn là Thục viện của Hoàng đế.
Hai người họ đã có một tình bạn thời thơ ấu sâu sắc đến thế, cái gọi là vượt qua và thủ lễ, chỉ cách nhau bởi một con rạch nông vô cùng.
Nông đến mức trong đêm khuya tĩnh lặng, chỉ cần một ánh mắt là có thể thiêu đốt hết thảy.
Ngay từ khoảng khắc nhìn thấy Kiều Tĩnh Nhàn lần đầu tiên, tôi đã biết ngày này sớm muộn gì cũng sẽ đến.
Tại sao tới thời khắc này, tôi lại nghĩ tới những gì Triệu Lăng từng nói, ngoài chuyện này ra không còn điều gì khác.
Khi đó chúng tôi đều không ngờ được, nửa tháng sau, Kiều Tĩnh Nhàn chết trong tay tôi.
Ngày sứ thần Hán quốc vào cung.
Trường Nhạc điện tổ chức cung yến, cổ nhạc vang lên, ăn uống linh đình, quan khách tận hứng.
Nhưng khi cung yến vừa bắt đầu, tôi dẫn theo Thôi Hạ rời bàn tiệc, đi đến Kỳ Dương cung, ra lệnh thắt cổ Kiều Tĩnh Nhàn.
Tôi nói rồi, nếu cô ta an phận thủ thường, tôi sẽ không chạm vào cô ta.
Điều tôi quan tâm không phải cô ta và Triệu Lăng có vượt qua hay không, dẫu rằng tôi biết họ đã vượt qua.
Buổi trưa trước khi cung yến bắt đầu, tôi gặp Triệu Lăng ở Cần Chính Điện.
Bởi vì thấy y quá vất vả, tôi mang theo canh sâm hầm tốt cho y.
Lúc này sứ thần Hán quốc đã vào kinh, Trường Nhạc điện đang sắp xếp tiệc tối chiêu đãi.
Để nghỉ ngơi dưỡng sức, Triệu Lăng muốn ở Cần Chính Điện chợp mắt trong chốc lát.
Sau khi rời điện, tôi sai Thải Quyên chuẩn bị chỉ vàng rồi quay trở lại lần nữa.
Bởi vì tôi phát hiện kim bào của Triệu Lăng có một vết xước ở ống tay áo.
Vốn định vá lại cho y, nhưng khi tôi tới bên ngoài Cần Chính Điện, lại ngoài ý muốn thấy được cung nhân của Kỳ Dương cung.
Kiều Tĩnh Nhàn cũng tới đưa canh, hơn nữa thời gian ở bên trong rất lâu.
Tôi bình tĩnh mà nhìn, kêu Thải Quyên lưu lại, chính mình trở về Tiêu Phòng Điện.
Hà Thanh gần một tuổi, tôi bế con bé cho ngồi trên đùi chơi Cửu Long hoàn. Một canh giờ sau mới thấy Thải Quyên trở về, hồi bẩm: “Bào phục của bệ hạ không cần sửa nữa ạ, bệ hạ đã thay bộ mới.”
Tôi gật đầu.
Thải Quyên cụp mắt xuống, nói tiếp: “Kiều Thục viện ở bên trong hơn một canh giờ, sau đó cùng ra với bệ hạ.”
Một ngày đó, trong cung phát sinh rất nhiều chuyện.
Kiều Tĩnh Nhàn cáo ốm, không thể tham dự cung yến.
Mà cung nhân phụng mệnh giám thị cô ta, phát hiện cô ta ngồi ngơ ngẩn một mình trong Kỳ Dương cung, rồi sau đó lấy giấy mực viết lên sáu chữ — —
Nhất tử sinh, tề Bành Thương.
Trang Tử từng dạy, “Muôn loài có sinh có tử, chết rồi lại sinh, sinh tử không khác gì nhau.” Đấy vốn là học thuyết của Đạo gia về quan niệm sinh tử.
Tuy nhiên, quan niệm này lại bị thánh thủ thư pháp Vương Hy Chi phản bác trong bài tựa ông viết cho tập thơ do các bạn ông sáng tác trong một buổi hội thơ ở Lan Đình, núi Cối Kê. Trong Lan Đình Tập Tự có câu, “Cố tri nhất tử sinh vi hư đản, tề Bành Thương vi vọng tác”
(Nghĩa là: Cố khăng khăng cho rằng sinh tử cũng như nhau là chuyện hư ngoa; lấy cái sống thọ của Bành Tổ mà so với cái chết yểu của Thương Sinh là láo lếu)Kiều Tĩnh Nhàn quyết tuyệt viết xuống sáu chữ kia, có thể thấy được sớm bị vị cậu họ Từ Tuân của tôi tẩy não.
Ngày ấy ở Kỳ Dương cung, cô ta khóc lóc nói với Triệu Lăng: Tử Tấn, muội tuyệt đối sẽ không làm chuyện tổn thương huynh.
Vậy thì sát ý của sáu chữ kia sẽ nhắm vào ai?
Tôi đứng ngồi không yên. Trong Kỳ Dương cung, Thôi Hạ lập tức dẫn người tóm lấy cô ta.
Kiều Tĩnh Nhàn cố sức ngẩng đầu nhìn tôi, vẻ mặt bình tĩnh: “Hoàng Hậu nương nương có ý gì, thiếp làm sai chuyện chi?”
Tôi vứt tờ giấy “Nhất sinh tử, tề Bành Thương” dưới chân cô ta, lạnh lùng hỏi: “Kiều Thục viện giải thích một chút, đây là ý gì?”
“Chỉ bằng mấy chữ này mà nương nương muốn định tội cho thiếp hay sao?”
“Mấy chữ này cũng không phải Kiều Thục viện có thể lĩnh ngộ được, theo bổn cung thấy, chỉ Từ đạo sư mới có bản lĩnh này.”
“Nương nương thông minh như vậy, chẳng lẽ không biết bản lĩnh của ông ta chính là bản lĩnh của thiếp?”
Kiều Thục viện cười nhìn tôi, đôi mắt u ám, như bị trúng độc.
Tim tôi thắt lại, nhìn chằm chằm cô ta: “Rốt cuộc các ngươi muốn làm gì?”
“Nương nương đoán xem.”
Cô ta bật cười khiêu khích: “Nương nương thông minh lắm, phải cẩn thận đoán cho kỹ, chậm một chút là có thể không kịp nữa rồi.”
Sau lưng tôi toát mồ hôi lạnh, tôi tức giận ra lệnh: “Thôi Hạ, vả miệng!”
Thôi Hạ tiến lên, hung hăng tát mạnh lên mặt cô ta.
“Nương nương không có chứng cứ đã bắt ta, bệ hạ sẽ không bỏ qua cho ngươi. Hôm nay ta gánh chịu nhục nhã, ngày nào đó nhất định dâng trả gấp bội. Không, không chỉ có chuyện hôm nay, tất cả mọi chuyện trong quá khứ, ta sẽ nhìn ngươi lãnh đủ!”
Kiều Tĩnh Nhàn bị đánh đến nỗi mặt sưng đỏ, khóe miệng rỉ máu, vẫn quỳ thẳng tắp hung tợn nhìn tôi.
Tôi nhìn lại cô ta: “Ngươi không có cơ hội này.”
Nói xong, Thôi Hạ ở phía sau lưng Kiều Tĩnh Nhàn, dùng dây thừng quấn quanh cổ cô ta.
Kiều Tĩnh Nhàn không dám tin tưởng, trừng tôi đến mức khóe mắt muốn nứt ra.
“Ngươi không thể giết ta, Hồ Mẫn Dung, Hồ Mẫn Dung! Ngươi dám giết ta, Tử Tấn sẽ không bỏ qua cho ngươi...”
“Kiếp sau nhé, nếu ta còn thiếu ngươi cái gì, chỉ có thể chờ đến kiếp sau.”
Tôi quay đi, không nhìn cô ta nữa.
Cung nhân phụng mệnh trở về từ Tiêu Phòng Điện, quỳ xuống bẩm báo: “Đồ ăn của Công chúa, không phát hiện dị thường ạ.”
Dưới ống tay áo, bàn tay run rẩy thoáng bình phục, trong lòng rất nhanh dâng lên một nỗi sợ hãi khác.
Tôi phân phó Thôi Hạ: “Tất cả đồ ăn thức uống đưa đến Trường Nhạc điện đều phải được nội thị tự mình thử độc, không chấp nhận nửa điểm sai sót.”
Buổi trưa Kiều Tĩnh Nhàn từng đi Cần Chính Điện đưa canh cho Triệu Lăng.
Cô ta sẽ không hại Triệu Lăng, nhưng cô ta đã đi qua Ngự Thiện Trữ ty.
Tôi vốn hoài nghi cô ta muốn hại Hà Thanh.
Hiện giờ xem ra, coi bộ còn có âm mưu lớn hơn nữa.
Trên đường về lại Trường Nhạc điện, vầng trăng sáng treo cao.
Cung nhân cầm đèn lồ ng, lòng tôi không yên mà bước tới, cảm thấy mỗi bước đều như tiến thoái lưỡng nan.
Tôi từng hỏi Triệu Lăng: “Thế nhân hầu hết leo lên vì danh lợi, họ đều có mục đích. Vị biểu cữu Từ Tuân của thiếp, khi còn trẻ là đạo sư, quấy loạn triều cục mấy chục năm, đến nay vẫn là đạo sư. Bệ hạ nói xem ông ta vì cái gì?”
Vấn đề này tôi đã suy nghĩ thật nhiều năm, đến giờ vẫn chưa có câu giải đáp.
Bên ngoài Trường Nhạc điện, chỗ đầu hành lang, tôi bất chợt nhìn thấy một bóng người đi qua, lập tức cảnh giác quát: “Ai! Đứng lại!”
Ngoài hành lang ánh trăng sáng ngời, dưới hành lang đèn lồ ng sáng trưng, bóng đen dậm chân đi tới, là một thanh niên cao lớn đ ĩnh bạt, mày rậm thẳng tắp.
Hắn rất dễ nhận ra với gương mặt góc cạnh, tóc mai như đao, mày kiếm sắc bén, mắt sâu mũi cao, con ngươi nâu thẫm nhìn người đối diện như mắt chim ưng.