Thực ra cuộc gặp "ngẫu nhiên" này không loại trừ thành phần cố ý, nếu không giao thừa ai lại muốn theo Thiệu Phương ra ngoài uống rượu.
Vì hành tung Thẩm Mặc ở Phân Nghi đã không còn bí mật gì nữa, muốn tạo ra sự "tình cờ" không còn khó gì.
Còn họ năm vị kia, chỉ thiếu trừ Lục, Nghiêm, Yên đã đi xuống, thiếu mỗi họ Vương là đủ cửu gia Giang Nam rồi.
Thẩm Mặc hiểu rõ bọn họ vì sao tới đây, cũng biết họ vì sao lại sốt ruột như thế, nhưng đêm giao thừa, kẻ nào bàn chuyện công việc với y là tự chuộc lấy phiền muộn. Năm vị kia cần hầu hạ y vui vẻ coi như mục đích đã đạt được.
Cho nên Thiệu Phương tuy nói không lộ liễu lắm nhưng đã phá vỡ chuyện mọi người vốn chỉ hiểu ngầm trong bụng, làm không khí trở nên gượng gạo.
Thẩm Mặc dù vẫn cười, nhưng người khác thì thấp thỏm. Thiệu Phương hối hận, nghĩ:" Sao lúc nào ta cũng kích động như thế? Xem ra khéo quá hóa vụng rồi."
Lúc này Dư Dần lên tiếng:
- Ta cũng có một câu, mọi người nghe nhé... Có thủy đọc là Tương, không thủy cũng là Tương, thêm vũ trở thành sương. Mọi người tự quét tuyết trước nhà, kệ sương giá trên ngói nhà người khác.
Không chỉ làm nóng lại không khí, còn ám thị đối phương đừng lắm chuyện, rất cao minh.
Mọi người khen ngợi, tiếp tục xuống rượu, nhưng bị Thiệu Phương chen ngang, không khí dù sao không tự nhiên nữa, một lúc sau, Thẩm Mặc nói say rồi, mọi người biết điều đứng dậy cáo từ.
Trước khi đi, mấy người kia không cần nhờ tới Thiệu Phương nữa, nói thẳng với Thẩm Mặc, cám ơn khoản đãi, hi vọng có ngày mời lại.
Thẩm Mặc mỉm cười nói:
- Mai ta còn lên đường, qua Nguyên Tiêu sẽ tới Cù Châu, hi vọng gặp được mọi người.
Năm người vui sướng, thầm nghĩ chuyến đi này không uổng, liền vui vẻ rời đi.
~~~~~~~~~~~~
Thẩm Mặc đúng là uống hơi say, mơ mơ hồ hồ về lữ quán, ngủ tít tới tận trưa mới dậy.
Nghe thấy gian trong có động tĩnh, Hồ Dũng vội vào, thấy y tỉnh rồi, cười nói:
- Tiểu nhân chúc đại nhân năm mới đại cát đại lợi, đại phú đại quý.
Thẩm Mặc lúc này mới ý thức được năm mới đã tới, cười vui vẻ:
- Nhận lời chúc tốt lành của ngươi.
Nói xong thấy hắn vẫn quỳ, Thẩm Mặc hiểu ý nhưng cố hỏi:
- Còn quỳ làm gì?
- Không, không có gì ạ.
Hồ Dũng ủ rũ đứng dậy, lấy y phục được ủ ấm ra đưa cho y:
- Đại nhân thấy thế nào ạ?
Đầu vẫn nhâm nhẩm đau, Thẩm Mặc chép miệng:
- Lâu rồi không uống nhiều thế, hơi đau đầu.
- Vậy tiểu nhân bảo nhà bếp mang canh chua cho đại nhân.
Thẩm Mặc gật đầu, lúc này mới mò dưới gối lấy ra phong bì đỏ, đưa cho hắn:
- Năm mới vui vẻ, sớm kết lương duyên.
Hồ Dũng mau mắn cầm lấy, cười toét miệng:
- Biết ngay đại nhân không quên chuyện này mà.
- Ngươi thật lắm trò.
Thẩm Mặc đi giày vào, xuống giường nói:
- Tập trung huynh đệ lại đây.
Hồ Dũng co cẳng chạy đi, lát sau gõ cửa nói:
- Đại nhân, tập hợp hoàn tất.
- Nhanh nhỉ.
Thẩm Mặc cười mắng, đẩy cửa ra ngoài, ba mươi hộ vệ chỉnh tề hành lễ:
- Chúc đại nhân năm mới niềm vui mới, đại cát đại lợi.
Thẩm Mặc đầu tiên chúc tết mọi người, sau đó là xin lỗi vì năm mới mà không để bọn họ được về nhà, cuối cùng phát phong bao kèm lời chúc. Ví như Ngưu Nhị Bảo nhà có cha già, chúc cha hắn khỏe mạnh; Vợ Hầu Tử đang có mang chúc sinh quý tử...
Nói chung toàn lời đơn giản, nhưng cho thấy y luôn đặt mọi người trong lòng, không phải coi họ chỉ như công cụ.
Cuối cùng là hai vị mưu sĩ, Thẩm Mặc cũng đưa phong bì đỏ cho họ:
- Hai vị tiên sinh năm mới tốt lành nhé.
Hai người ôm quyền chúc tết y, Dư Dần nói:
- Phong bao thì không cần nữa.
- Không lấy đại nhân không vui đâu.
Thẩm Minh Thần nhận cả hai cái:
- Huynh không cần thì ta nhận hết.
- Cút đi.
Dư Dần cướp lại:
- Cái này đại nhân cho ta.
Sáng sớm xuân mới luôn đầy không khí vui vẻ, trong sân tiếng cười không ngớt.
- A đến sớm không bằng đến đúng lúc, tại hạ cũng xin một cái.
Mọi người ngạc nhiên nhìn lại, thấy Thiệu Phương cười hì hì đi tới, sau lưng còn có mấy tráng háng gồng gánh đi vào.
Thấy hắn chưa thông báo đã xuất hiện trước mặt đại nhân, Hồ Dũng mặt đỏ dừ, hắn gọi hết người tới đây, quên không an bài canh gác. Nếu kẻ tới là thích khách thì chết muôn lần không đủ đền tội, vọt miệng quát:
- Sao ngươi xông vào đây?
- Xông vào?
Thiệu Phương lắc đầu:
- Tại hạ hỏi thăm nhưng không thấy ai, nên cứ đi thẳng vào.
Làm Hồ Dũng không biết giấu mặt vào đâu.
Thẩm Mặc an ủi:
- Không có kinh nghiệm mà, lần sau chú ý là được, thôi đi đi.
Hồ Dũng hổ thẹn cáo lui.
Thẩm Mặc nhìn Thiệu Phương:
- Ta biết tiên sinh sẽ đến mà.
Thiệu Phương chỉ vâng dạ mồm đối phó, nhưng thấy Thẩm Mặc lấy ra phong bì có tên mình, hắn phục sát đất.
Thật ra chẳng có gì thần kỳ, hôm qua hắn cố bày ra cuộc gặp ngẫu nhiên, nếu hôm nay không tới giải thích thì quá ngu xuẩn.
Thiệu đại hiệp tới chuộc tội thật, sai nô bộc hạ gánh xuống:
- 50 cân hoa điêu thượng hạng, còn có cá Tùng Giang mới bắt sáng nay, làm canh cá giải rượu cho Thẩm Mặc.
Nói xong không đợi Thẩm Mặc đồng ý liền sắn tay áo lên đích thân vào bếp làm canh cá cho Thẩm Mặc.
Thẩm Mặc nếm một miếng khen:
- Quả nhiên có trình độ của đầu bếp nổi tiếng.
Thẩm Mặc uống xong một lúc đầu không đau nữa, tinh thần khá hơn, nói:
- Giờ có gì khai ra đi.
Thiệu Phương dè dặt nói:
- Thực ra chuyện hôm qua, tiểu nhân cũng là bất đắc dĩ.
- Chuyện gì?
Thẩm Mặc vờ hồ đồ.
- Chuyện dẫn năm người kia tới, không phải ngẫu nhiên, mà đợi đại nhân lâu rồi.
- Tức là các ngươi tính kế ta?
Thẩm Mặc giọng trầm xuống.
- Không, không dám...
Thiệu Phương cuống quít xua tay:
- Dù ăn gan báo tim gấu tiểu nhân cũng không dám, bọn họ muốn gặp đại nhân mà không tìm được đường, đành bày ra hạ sách này.
- Đứng nói họ.
Thẩm Mặc cười khẩy:
- Chủ ý này của ngươi chứ gì?
- Nói thế cũng không sai, có điều bọn họ ép tiểu nhân làm.
Thiệu Phương gãi đầu:
- Có điều hôm qua ám thị mục đích của bọn họ, nói rõ lòng tiểu nhân hướng về đại nhân.
Thẩm Mặc cười vang, Thẩm Minh Thần nói.
- Miệng của ngươi đúng là có thể nói trắng thành đen.
Thẩm Minh Thần tức thì kêu oan tày trời.
Thẩm Mặc giọng trầm xuống:
- Nói thế tức là ngươi muốn tới làm thuyết khách?
Thấy thế, Thiệu Phương cũng nghiêm túc nói:
- Tiểu nhân không có bản lĩnh làm thuyết khách, chỉ làm người trung gian thôi, vẫn là vấn đề cũ, cửu đại gia muốn biết đại nhân thế nào mới chịu tha cho họ.
Đó gọi là "đắc thế ly miêu biến mãnh hổ, xuống đất phượng hoàng chẳng bằng gà.".. Nếu mười năm trước có ai nói cửu đại gia khom gối trước mặt một quan viên, khẳng định bị người ta cho rằng đầu óc có vấn đề.
Dù Chu Hoàn Trương Kinh, bậc đại thần như thế mà còn thân bại danh liệt vì đắc tội với Cửu đại gia, càng chẳng cần nói tới Thẩm Mặc.
Nhưng thế thời đã khác, Cửu đại gia đã là chuyện xưa rồi, Lục Bỉnh, cha con Nghiêm Tung, Triệu Văn Hoa, Yên Mậu Khanh nối nhau rời khỏi võ đài lịch sử, làm lực lượng chính trị của Cửu đại gia rơi vào khoảng trống chưa từng có.
Bất hạnh nữa là vì quan hệ vùng miền, đại đa số Nghiêm đảng là quan viên Giang Nam, cho nên gặp họa trong cuộc thanh trừng Nghiêm đảng đa phần là con cháu Cửu đại gia.
Bi thảm hơn nữa, cuộc thanh toán hán gian năm ngoài mũi giáo chĩa thẳng vào hào tộc Mân Chiết với Cửu đại gia làm đại biểu.
So với hai phương diện trước, cái thứ ba tựa hồ không thấy rõ, nhưng là trí mạng nhất, vì nó đánh vào tận gốc rễ Cửu đại gia, không cho bọn chúng ngày ngóc đầu trở lại.
Nhưng nghĩ đi nghĩ lại Cửu đại gia chẳng có mấy biện pháp ứng phó, vì con cháu trong triều gần như bị quét sạch, tuy còn nhiều lớp trẻ tài năng, nhưng nước xa không cứu được lửa gần nữa.
Hết cách, bọn họ chuyển hướng sang kẻ thủ ngày trước - Thẩm Mặc.
Sự lợi hại của người trẻ tuổi này thì họ đã lĩnh giáo rồi, hơn nữa còn là sủng thần của hoàng thượng, sư phụ của thái tử, đáng sợ nhất là y còn chưa tới 30.
Ân oán ngày xưa vừa khéo là cơ hội hai bên gặp lại, năm xưa Thẩm Mặc không may ngồi đúng vào Tô Châu mà bọn họ thèm khát nên hai bên mới thành thủ.
Hiện giờ Lục Tích đắc tội với y đã chết, Thẩm Mặc không còn là quan phụ mẫu Tô Châu nữa, hai bên vì sao không thể gương vỡ lại lành?
Nghe Thiệu Phương nói ra tiếng lòng của Cửu đại gia, Thẩm Mặc chẳng hề cảm thấy khoái trá, cũng chẳng muốn cười nhạo, vì đi theo con đường chính trị, thứ duy nhất có giá là lợi ích mà thôi.
Ai có thể mang lại cho ngươi lợi ích lớn nhất là đồng minh thân mật nhất của ngươi, chẳng cần làm cao.
- Ta vẫn nói câu đó.
Thẩm Mặc thong thả lên tiếng:
- Quan trọng là xem thái độ, đưa thành ý ra đây, để ta thấy bọn họ còn giá trị không, sau đó mời nói chuyện khác.
Đây là chuyện hiển nhiên rồi, Thiệu Phương hỏi:
- Hôm qua nghe nói ngài muốn tới Cù Châu, hẳn là vì chuyện mỏ bạc?
Thẩm Mặc gật đầu:
- Đã kéo dài một năm, tới lúc kết thúc rồi.
- Ngày đại nhân tới là ngày mọi thứ khôi phục nguyên dạng. Đại nhân thấy sao?
Thẩm Mặc lắc đầu:
- Chưa đủ.
Thiệu Phương hỏi:
- Vậy ý đại nhân là gì?
- Giải quyết triệt để, ta không muốn vài năm nữa nơi ấy lại loạn.
- Cái này... tiểu nhân không quyết được.
Thiệu Phương hơi rầu rĩ:
- Nhưng thứ cho tiểu nhân nói thẳng, nước ở đó quá sâu, các lộ thần tiên đều có dính líu, đại nhân muốn gạn trong hết là không dễ.
- Chuyện do người làm, không thử sao biết được.
Thẩm Mặc đứng dậy:
- Ta có phong thư này, ngươi chuyển cho kẻ quyết được, nếu bọn họ có thành ý, tới Cù Châu đợi ta.
Thiệu Phương biết y muốn kết thúc nói chuyện, vội đứng dậy nhận lấy, rồi cười nói:
- Bên trong hộp thức ăn còn hai con cá, đều là tâm ý của họ, đại nhân tùy tiện thưởng hạ nhân.
Đợi hắn đi rồi, Thẩm Minh Thần mở hộp thức ăn ra, dưới cá còn lớp bọc giấy dầu, bên trong là 60 vạn lượng, hít sâu một hơi:
- Mạnh tay thật.
- Tiền bạc bất nghĩa, nhưng vẫn là thứ tốt.
Thẩm Mặc nhìn về phía nam:
- Ta nhận lời sửa một con đường cho Cống Nam, nghĩ cách chuyển cho họ đi.
- Sửa đường làm cầu là hành thiện tích đức.
Thẩm Minh Thần vui mừng.
- Đúng thế.
Nghĩ tới nữ nhi, ánh mắt Thẩm Mặc có chút đau đớn:
- Phải tích đức.
Tới mùng 2, Thẩm Mặc lại lên đường, qua năm mới, y chẳng vội nữa, ung dung vừa đi vừa chơi, gặp cái gì hay cái gì ngon là dừng lại thưởng thức, hưởng thụ được thời gian nghỉ ngơi hiếm hoi.
Cứ thế tới Thiệu Hưng thì đã là mùng 10, tới bến tàu, y cho mọi người nghỉ phép, rồi về thăm nhà.
Nhà vẫn như thế, Thẩm Hạ sức khỏe đã tốt hơn, bệnh cũ không còn tái phát nữa, tựa hồ còn trẻ ra. Đúng là có vợ chiếu cố và không có vợ khác hẳn nhau, cũng là nguyên nhân Thẩm Mặc chấp nhận mẹ kế nđó.
Nhưng cái nhà đó đã không còn mang lại cho y cảm giác nhà năm xưa nữa.
Thẩm Hạ công lực thâm hậu, năm ngoái sinh thêm đôi long phục thai, đối với Thẩm gia mà nói là chuyện mừng, với Thẩm Mặc thì khó chấp nhận được đệ đệ muội muội còn nhỏ hơn cả con mình, càng không quen gặp "mẹ kế" ít tuổi hơn mình.
Tuy y che giấu rất tốt, nhưng trong lòng thiếu tự nhiên, chỉ ở nhà một đêm, rồi lấy cớ tới nhà Thẩm lão gia, nhà cha vợ, thậm chí là nhà Từ Vị, không ở nhà...
Ở nhà Thẩm lão gia, y bất ngờ gặp Thẩm Kinh, cha con đó căng với nhau bao năm, cuối cùng lão gia tử cho phép tên gia hỏa đó mang vợ vể nhà.
Kết quả Thẩm Kinh không những mang về nhị lão bà người Nhật, còn mang tam lão bà người Tây Dương đã tay bồng tay bế, tứ lão bà người Ba Tư bụng đã ễnh lên. Thẩm lão gia tức tới nằm bẹp giường, bỏ cả tế tổ, năm mới cũng không gặp ai.
Thẩm Mặc hỏi Thẩm Kinh:
- Khẩu vị của ngươi kỳ nhỉ?
Còn nhớ năm kia hắn chỉ có mỗi Thái Thái Tử, một năm không gặp đã thêm hai cô vợ nước ngoài rồi.
- Ngươi không thấy các nàng ấy đẹp à?
Thẩm Kinh hếch mũi lên.
- Đẹp.
Thẩm Mặc thừa nhận:
- Tóc vàng mắt xanh, đúng là có vẻ đẹp nữ tử Đại Minh không bì được.
- Thế là được, lòng yêu cái đẹp ai chả có.
Thẩm Kinh cười hăng hắc:
- Ta làm thế vì "đoàn kết ngoại thương, để Thượng Hải phồn vinh ổn định."
- Rắm chó.
Thấy hắn bóp méo chỉ thị của mình, Thẩm Mặc cười mắng:
- Ta bảo ngươi lên giường đoàn kết à?
Thẩm Kinh ngượng ngùng nói:
- Ngươi biết đấy, khuyết điểm lớn nhất của ta là trọng tình nghĩa, người khác chỉ cho là đồ chơi, ta không nỡ vứt bỏ, nên mới có ngày hôm nay.
Thẩm Mặc cười đau ruột:
- May mà ngươi còn chưa mang cô nàng da đen nào về, nếu không phải gọi là hoành tráng.
- Kỳ thực là có … ta, ta còn bà năm người Nam Dương.
Ai ngờ Thẩm Kinh ấp úng nói:
- Sợ cha ta không tiếp nhận nổi, đợi sau này mới mang về.
Thẩm Mặc không còn gì để nói.
~~~~~~~~~~~~~~~~~
Thẩm Mặc đi an ủi Thẩm lão gia, ông già thấy y mắt đỏ hoe, kích động nói:
- Ta gây ra nghiệt chướng gì mà đẻ ra thằng súc sinh, thế này còn mặt mũi nào đối diện với tổ tiên.
Thẩm Mặc thắc mắc:
- Chuyện này liên quan gì tới tổ tiên ạ?
- Nó lấy vợ Nhật Bản cũng đành đi, ít nhất sinh con ra còn bình thường.
Thẩm lão gia đau đớn nói:
- Nhưng nó lấy vợ Tây, sinh con lông vàng... Còn là con cháu Hoa Hạ không?
Nói tới đó lau nước mắt:
- Mất gốc, mất gốc.
Thẩm Mặc nhịn cười đến mặt mày nhăn nhó, Thẩm lão gia tưởng y cũng không chấp nhận được, càng đau lòng khóc rống lên:
- Nếu chẳng còn mặt mũi gặp tổ tiên, ta đã treo cổ tự vẫn rồi.
"Nghiêm trọng vậy sao?" Thẩm Mặc vội an ủi:
- Lời này cháu không dám tán đồng, kỳ thực bên Tô Châu, Thượng Hải đã có rất nhiều người làm thế. Đó là tiến bộ, là minh chứng phồn vinh thịnh vượng mà.
- Nói bậy.
Dù rất tôn kính Thẩm Mặc nhưng Thẩm lão gia không nhịn được:
- Đó là suy đồi đạo đức, liên quan gì tới phồn vinh?
- Đương nhiên là liên quan.
Thẩm Mặc trợn mắt nói láo:
- Hỏi đại bá, trong lịch sử Hoa Hạ, triều nào phồn vinh nhất?
- Là đời Đường.
- Đúng thế.
Thẩm Mặc vỗ tay:
- Kỳ thực thời xưa, người da trắng mũi cao mắt sâu, gọi là người Hồ. Đặc biệt là là nữ nhân da trắng vóc dáng cao ráo, đầy đặn nhiệt tình, phong tình lạ lẫm hoàn toàn khác biệt nữ tử Hoa Hạ, khiến vô số nam nhâm tơ tưởng, gọi là Hồ cơ.
Rồi ngâm:
Ngũ Lăng niên thiếu Kim thị đông
Ngân an bạch mã độ xuân phong
Lạc hoa đạp tận du hà xứ
Tiếu nhập Hồ Cơ tửu tứ trung
***
--Dịch nghĩa--
Bài ca tuổi trẻ - Lý Bạch.
Chàng trẻ tuổi đất Ngũ Lăng tới phía đông chợ Kim
Cưỡi ngựa trắng yên bạc lướt trong gió xuân)
Đạp bừa bãi lên các hoa rơi rụng [trên đường], đi đâu vậy?)
Tươi cười bước vào quán rượu Hồ Cơ
Đến chợ Kim đông, trai Ngũ Lăng
ngựa kim, yên bạc, gió muà xuân.
Đạp bừa hoa rụng, đi đâu vậy?
Nghĩ đến Hồ Cơ đã mát lòng.
--Bản dịch của Anh Nguyên--
Thẩm lão gia đương nhiên biết bài thơ này, nhưng hiện giờ mới có cảm thụ sâu sắc:
- Đường triều đúng là có chuyện kết hợp với Hồ Cơ...
- Đúng thế, vì như tiên thơ Lý Bạch là người lai, mẹ ông ta là Hồ Cơ, còn có Lý Thế Dân cũng mang huyết thống người Hồ, danh tướng danh quan mang huyết thống dị tộc vô số, chẳng lẽ các triều coi đây là xỉ nhục? Hay cho đây là cực thịnh, được người người sùng bái?
Không thẹn là kinh lược đại nhân, lý lẽ đâu ra đó, còn mang loạt "danh ngôn" các danh nhân ra, làm Thẩm lão mặt dễ coi hơn nhiều. Hoang mang hỏi:
- Nói thế chẳng lẽ lấy nhiều người Hồ còn là chuyện tốt?
- Đương nhiên.
Thẩm Mặc khẳng định:
- Đó là biểu hiện của sự hùng mạnh quốc gia mà.
Kỳ thực Thẩm lão gia chỉ hận không có người thuyết phục được mình, nói ra lời ông muốn nghe, muốn tin. Nhưng khi Thẩm Mặc đi rồi, ông tỉnh ra, tên gia hỏa này tới làm thuyết khách cho tên xú tiểu tử kia, nếu không Thẩm đại nhân sao không cưới mấy Hồ Cơ đi?
Có điều Thẩm lão gia cũng nghĩ thông rồi,, thời đại đã khác, con cái cánh đã cứng cáp, lấy chuyện người già ra nói chỉ chuốc khổ vào thân... Với lại đám cháu đông tây hợp bích đúng là vừa đẹp vừa trắng trẻo, chưa bao giờ thấy đứa bé nào đáng yêu như thế, lão gia tử thích thực lòng, nên không quản nữa. Thôi thì con cháu có phúc phận của con cháu, xem nó còn bày ra được trò gì
Rời Thẩm gia đại viện, Thẩm Mặc lại tới nhà cha vợ chơi không về nhà, sức khỏe Ân lão gia tốt hơn nhiều, nhưng cô đơn một mình, khó tránh khỏi buồn tẻ. Thẩm Mặc ở thêm với ông hai ngày, tối cùng uống rượu, ban ngày ra sân đánh "chủy hoàn".
Chủy hoàn gọi là "thôi hoàn", "bộ đả", đây là trò hoạt động ngoài trời cực thịnh thời Đường Tống Nguyên, tới triều Minh có hơi lắng xuống, nhưng ở phương bắc vẫn rất mê, nhất là hoàng thất, Tuyên Đức, Chính Đức đều là cao thủ món này.
Thẩm Mặc cũng chơi qua vài ván, có thể nói là đánh Golf kiểu Trung Quốc, bắt nguồn từ trò chơi trên thảo nguyên, thậm chí Thẩm Mặc cho rằng rất có khả năng năm xưa Thành Cát Tư Hãn tây chinh mang thứ này tới Châu Âu, thực sự vì nó quá giống nhau.
Mặc kệ nguồn gốc nó ra sao, nói chung nó là trò vận động quý tộc, mục đích là dùng cây gậy khác nhau đánh bóng vào lỗ. Mấy năm qua Ân lão gia mê mẩn món này, cả ngày mùa gậy, hôm nào thời tiết mưa gió không đánh cầu được thì nghiên cứu (hoàn kinh), (bộ đả), những bảo điển của trò chơi, để lần sau giành phần thắng.
Nếu người trẻ tuổi mê mẩn như thế đương nhiên thì lo ham chơi quên chí, nhưng tới tuổi Ân lão gia chỉ có lợi không có hại, sức khỏe tốt hơn, tâm tình tốt hơn, nên phu thê Thẩm Mặc hết sức ủng hộ ông.
Lần này về nhà, quà y tặng cho nhạc phụ là một bổ gậy Golf cao cấp, đúng một bộ 10 gậy, chế tác cực kỳ tỉ mỉ, yêu cầu khắt khe về chất liệu làm gậy cũng như công nghệ chế tác.
Ân lão gia thích tới cầm mỗi cây gậy mêm mê hồi lâu, hai mắt sáng rực.
Tháng giêng bạn chơi đều bận ăn năm mới, Ân lão gia sớm ngứa tay lắm rồi, lập tức kéo tay con rể:
- Đi nào, chơi vài ván.
Thẩm Mặc cười:
- Cung kính không bằng tuânlệnh, có điều con không có trang bị.
- Về nhà còn lo không có trang bị?
Ân lão gia nói đầy tự phụ, dẫn y tới gian phòng cạnh phòng ngủ, đẩy cửa ra xem, khủng khiếp, đầy một phòng gậy, đủ loại treo trên tường. Lão nhạc phụ hưng phấn nói:
- Tùy chọn.
Hai người thay trang phục đánh bóng, ống quần ống áo cực kỳ gọn gàng, cùng người hầu mang gậy, tới hoa viên.
Ân lão gia biến cả hoa viên thành sân golf, có hố cát, có ao nước, có đồi nhỏ, đủ các loại chướng ngại vật, còn có lỗ cờ cắm cờ màu khác nhau.
Mặc dù không phải lần đầu chơi trò này nữa, nhưng Thẩm Mặc có ảo giác, cho rằng mình lại xuyên việt, cùng chơi Golf với vị giám đốc nào đó.
- Bắt đầu.
Lão nhạc phụ đã đứng ở chỗ phát cầu, hai tay nắm gây, chuẩn bị tinh thần phát cầu.
- Vâng...
Thẩm Mặc bấy giờ mới tỉnh lại, nói:
- Mời nhạc phụ đánh trước.
- Ngươi đánh trước đi.
Lão nhạc phụ rất có phong độ đại tướng.
- Vậy cùng đánh.
Thẩm Mặc cười vung gậy, bóng bay thật xa vẽ lên đường cong tuyệt đẹp, rợi bịch xuống... hố cát, Ân lão gia cười tới vung gậy suýt trẹo lưng.
Hai người đấu với nhau, Thẩm Mặc kỹ thuật chẳng ra sao, chỉ biết đánh cơ bản, Ân lão gia sức khỏe không đủ, kỹ thuật cực tốt, đánh lệch, bóng xoáy dùng rất thành thạo, làm Thẩm Mặc vỗ tay khen hay luôn miệng.
Phải thừa nhận trò chơi này rất có ma lực, ban đầu Thẩm Mặc chỉ muốn bồi tiếp nhạc phụ chơi cho vui, về sau thành mê, bắt đầu nhờ nhạc phụ dạy cho vung gậy ra sao, tính sức gió thế nào, Thẩm Mặc học rất nhanh, ngày hôm sau đã ra dáng lắm rồi.
Sau một lần phát bóng đi, hai người thong thả đi trên cỏ, Ân lão gia như tùy ý hỏi:
- Khuê nữ của ta không làm con phải đau đầu chứ?
- Không ạ.
Thẩm Mặc cười, tay vô thức đưa lên gãi đầu.
- Vậy thì tốt, ta không có nhi tử, nên dạy nó như nam tử, về sau sức khỏe không tốt, để nó gánh vác gia nghiệp sớm, tạo thành cái tính cao ngạo, cố chấp, háo thắng.
- Bình thường không nhận ra.
Thẩm Mặc cười khổ:
- Nhưng sống lâu thì con nhận ra đúng là vậy thật.
- Cái tính này nam nhi thì không sao.
Ân lão gia thở dài:
- Nhưng với một nữ nhân có chồng thì không hay... Giờ nghỉ lại, đúng là không nên cho nó nắm gia nghiệp.
- Cũng chẳng có gì mà không hay, qua vài năm nữa, tâm tư nàng ấy đặt hết lên bọn nhỏ, ham mê sự nghiệp sẽ không còn lớn thế nữa.
Ân lão gia đi tới bên bóng, nhắm chuẩn vào lỗ, nghe vậy dừng gậy:
- Con nói thế là tránh nặng tìm nhẹ rồi.
Xem ra mặc dù cách xa ngàn dặm, lão nhạc phụ vẫn phát hiện ra hai vợ chồng họ có vấn đề, nghĩ một lúc rồi nói:
- Thực sự là không có gì, bọn con không còn là trẻ nhỏ nữa, nhạc phụ đừng lo, con không để Nhược Hạm chịu ủy khuất đâu.
Loại chuyện này Ân lão gia chỉ nói tới là ngừng:
- Ta tin hai đứa sẽ giải quyết tốt vấn đề.
Nói xong vung gậy đánh bóng đi.
- Vâng, sẽ tốt thôi ạ.
Thẩm Mặc cũng đánh bóng đi.
Sau cuộc nói chuyện ngắn, hai người tập trung tinh thần chơi bóng, có người tới phía sau cũng không nhận ra.
Mãi đến khi hết lỗ, Thẩm Mặc mới thấy Từ Vị đã đứng đó rất lâu, lên tiếng chào:
- Tới mà không nói một tiếng.
Ân lão gia vui vẻ nói:
- Văn Trường tiên sinh tới rồi.
- Thấy hai vị so tài đặc sắc, tại hạ không dám quấy nhiễu.
Từ Vị nói xong thi lễ với Ân lão gia.
Ân lão gia nhận lấy khăn mặt người hầu đưa tới, lau mồ hôi nói:
- Thong thả nói chuyện nhé, lão già này đi nghỉ một chút.
Hai người liền tiễn ông đi, Thẩm Mặc giờ mới cười hỏi:
- Kỳ tân hôn sao còn có tâm tình chạy ra đây... Chậc chậc, trông khác nhé, là Từ Văn Trường mà đệ quen đây sao?
Từ Vị nhìn mình, thấy rất bình thường:
- Khác chỗ nào?
- Sạch sẽ.
Thẩm Mặc không nhịn được cười.
Từ Vị đỏ mặt:
- Đừng trêu ta.
- Còn trở nên ôn nhu nữa.
Thẩm Mặc càng trêu già:
- Trước kia đã đốp chát lại rồi, giờ lại đỏ mặt.
- Đệ ghen tị thì có.
Bị trên một hồi, Từ Vị khôi phục lại bình thường:
- Đây là bệnh chung của kẻ quanh năm ở ngoài, có vợ bằng với không vợ.
Thẩm Mặc đấm hắn một cái, nghiêm túc hỏi:
- Sao, cuộc sống tân hôn hạnh phúc chứ?
- Không tệ.
Từ Vị cười:
- Lấy về mời biết, có phải là người mình muốn hay không chẳng khác biệt lắm.
Tuy nói thế vẫn nghe ra sự gượng gạo trọng nụ cười của hắn.
Từ Vị kết hôn rồi, nhưng tân nương không phải Lữ tiểu thư. Tuy hắn si tình khó quên, nhưng Lữ tiểu thư rất kiên quyết dứt bỏ hồng trần, Từ Vị theo Thẩm Mặc nam hạ, tìm tới chỗ nàng, đợi ngoài phòng nàng bảy ngày bảy đêm nhưng mãi không đợi được tới lúc rèm cửa vén lên.
Sau bảy ngày Từ Vị tâm tàn ý lạnh bị người ta vác xuống núi, bệnh nửa năm trời, tới khi khỏe lại đã vào mùa đông, hắn vốn định lập tức tới Cống Nam với Thẩm Mặc, nhưng Thẩm lão gia được Thẩm Mặc ủy thác tổ chưc hôn sự cho hắn, còn phía Thẩm Mặc chiến cục đã định, tránh hiềm nghi tới chia chác, hắn liền ở lại Thiệu Hưng kết hôn.
Mặc dù đã 39 tuổi, nhưng Từ Vị vang danh thiên hạ, hôn sự này không thể qua loa, trừ tu sửa nhà cũ của hắn, Thẩm Mặc còn nhờ phụ thân tặng cho Từ Vị khu trang viên ngoài thành, làm quà hôn lễ.
Trang viên đó rộng mười mẫu, có ao cá, có vườn quả, mặc dù không rộng cũng không xa hoa lắm, nhưng đầy vị điền viên, Từ Vị rất thích, kết hôn xong liền mang thê tử tới đó mỗi ngày kéo lưới nướng cá, ngắm cảnh uống rượu, sống rất sung sướng.
Thấy Từ Vị cuối cùng có nhà của mình, thoát khỏi mối tình rối rắm đau khổ, Thẩm Mặc cũng mừng cho hắn, trở về tới nhà mới của hắn, hai người uống rượu đêm, nhớ lại ngày tháng cũ.
Từ Vị cảm kích nói:
- Nếu không có đệ, sợ rằng ta thành hồn ma vất vưởng ở đâu đó rồi.
Thẩm Mặc lắc đầu:
- Tái ông thất mã, ai biết huynh gặp đệ lại mất đi thứ gì?
Đó không phải khiêm tốn, vì gặp y, vị thiên tài nghệ thuật 500 mới có một lần này cuộc đời đã biến đổi, biết bao tác phẩm nghệ thuật truyền đời không còn xuất hiện nữa.
Nhưng Thẩm Mặc cho rằng lưu danh thiên cổ là hư ảo, những thứ đó chẳng đem lại gì lợi lộc cho Từ Vị, cho nên y chẳng hề cảm thấy áy náy, mặc dù thi thoảng cũng lo không biết hơn trăm bức thư họa Từ Vị mà mình cất giữ sau này còn có giá trị hay không?
Từ Vị nhầm rằng y tiếc mình kết hôn mà bỏ lỡ cơ hội lập công ở Cống Nam, liền cười:
- Đệ biết là ta chẳng bận tâm mà, dù đã làm quan, nhưng không phải vì lợi lộc.
Rồi buồn bã nói:
- Ta chẳng biết mình muốn gì nữa, giống như bị người ta đẩy đi vậy, mặc dù đi rất xa, nhưng chẳng có cảm giác gì... Không phải ta làm cao đâu, nhưng ta không hòa mình với bọn họ được.
- Bất kể làm gì, phải có cảm giác thuộc về mình, thậm chí là sứ mệnh, nếu không chẳng thể tập trung tinh thần vào nó.
- Nói đúng lắm, ta không tìm được cái gì thuộc về mình.
Từ Vị nốc cạn chén rượu:
- Mấy năm ở Bắc Kinh, ta nhận ra mình chẳng hợp với quan trường, trừ mấy huynh đệ ai cũng coi ta là dị loại, căn bản ăn không ngồi rồi... Ta thật hâm mộ đệ, đệ làm bao chuyện lớn rồi, so ra thật xấu hổ.
- Đệ làm gì đâu.
Thẩm Mặc cười khổ:
- Thật ra đệ hâm mộ huynh, không thích là bỏ quan đi bất kỳ lúc nào được, còn đệ xiềng xích trên người quá nhiều, đời này không thể thoát ra.
- Có ai ép đệ phải làm thế đâu, sống thoải mái một chút không được sao?
Từ Vị biết tên gia hỏa này có gánh nặng tâm lý cực lớn, như đem cả thiên hạ vác lên vai vậy.
- Đúng, chẳng ai ép đệ.
Thẩm Mặc uống một ngụm lớn:
- Nhưng đệ không lay chuyển được bản thân, dù chỉ có chút ý nghĩ trốn tránh nào thôi cũng thấy đó là tội ác.
Y nằm vật ra giường:
- Đó là số mạng, đệ sớm chấp nhận rồi.
- Yên tâm, đệ vĩnh viễn không cô độc, cả đời này ta theo đệ, một hảo hán ba người giúp mà, giúp đệ hoàn thành sự nghiệp là đời này ta thành công.
Từ Vị lại nói:
- Ta theo đệ tới Cù Châu nhé.
- Không cần, chuyện bên đó không khó, huynh làm đại sự của mình ra.
- Ta có đại sự gì?
Từ Vị không hiểu.
- Nối dõ tông đường... Ha ha ha.
- Giỏi lắm lại trêu ta.
Hai người đang trêu đùa nhau thì tân nương Lưu thị mang canh tới, nhìn thấy tư thế ám muội của hai người thầm cả kinh:" Chẳng trách phu quân hơn 10 năm không kết hôn, té ra tâm kết ở đây."
Vì thế trong thời gian dài nàng lạnh nhạt với Thẩm Mặc, làm y chẳng hiểu mình đắc tội với vị tẩu phu nhân này ở chỗ nào?
~~~~~~~~~~~~~~~~
Ở nhà quá 15, Thẩm Mặc lên đường tới Cù Châu, Thẩm Hạ tiễn y ra bến tàu, nhi tử về nhà mà cả ngày không ở nhà, chỉ có bữa sáng hai cha con mới có cơ hội nói vài câu đơn giản, ông đương nhiên cảm giác được, mình và nhi tử trở nên xa cách rồi, cũng biết nguyên nhân vì sao, nhưng không có cách giải quyết, chỉ biết nắm tay con, mặt đầy lưu luyến.
Thẩm Mặc thở dài:
- Con ở nhà quá ít, không thể bồi tiếp cha cho tốt, cha đừng trách con.
- Lần này đi không biết bao giờ mới về, con không ở thêm vài ngày được sao?
- Công việc bận rộn, con hẹn vào ngày 16 giờ mới đi đã là muộn rồi.
- Bận bận bận, quanh năm đều bận.
Thẩm Hạ nổi giận:
- Xem ra muốn con được rảnh chỉ đợi ngày ta nhắm mắt thôi.
- Cha.
Thẩm Mặc trách:
- Đừng nói lời không may, con thấy cha khỏe không khác gì thanh niên cả.
- Sao con biết?
- Ba năm sinh ba đệ đệ muội muội cho con, đến con còn chẳng có bản lĩnh đó.
Thẩm Mặc cười hăng hắc.
- Thằng tiểu tử này dám trêu cha.
Bị con trai nói cho xấu hổ, một lúc lâu Thẩm Hạ mới nói được:
- Chúng tuy nhỏ, nhưng đều là đệ đệ muội muội của con, tương lai còn trông cậy vào người làm ca ca con đó.
Thẩm Mặc lòng lại khó chịu, cười gượng rút tay lại:
- Đương nhiên, cùng là người Thẩm gia mà... Không còn sớm nữa, cha về trước đi.
Thẩm Hạ tự biết lỡ lời, gật đầu:
- Thuyền đi ta sẽ về.
Thẩm Mặc lùi lại vén áo lên, quỳ lạy ba cái:
- Cha bảo trọng.
Rồi xoay người lên thuyền.
Thuyền đi xa, nhìn bóng cha ngày càng mơ hồ, trong lòng Thẩm Mặc áy náy, rõ ràng y rất yêu quý phụ thân, vì sao không đóng kịch một chút cho ông vui lòng.
Cả đường đi, tâm tình Thẩm Mặc không cao, tới khi đến Hàng Châu hội họp với các quan viên, y mới khôi phục trấn tĩnh cần có của một thủ mục.
Đám quan viên đứng đầu lúc này gặp y không ai không kính sợ, ban đầu bọn họ chỉ kính cái áo quan của y, giờ thì phục bản lĩnh của y, người trẻ tuổi này bản lĩnh không kém vị tiền nhiệm, thậm chí còn linh hoạt biến báo hơn, làm ngươi cảm thấy bất kỳ chuyện gì y cũng làm được thỏa đáng, không phục cũng không được.
Nhưng Thẩm Mặc mời họ đến đây không phải để bợ đít, mà là có chuyện muốn bàn.
Đầu tiên Vương Bản Cố báo cáo tình hình tiễu phỉ ở Cù Châu năm qua, dưới sự nỗ lực của Lô Thang, quan quân đã thu phục được hơn nửa số mỏ, nhưng binh lực có hạn, không thể mở rộng chiến quả, cho nên thỉnh cầu Thẩm Mặc đưa Thích gia quân chi viện, không để chuyện hỏng nửa đường.
Thẩm Mặc từ chối:
- Thích gia quân nhận lệnh bắc thượng rồi, hơn nữa trong năm nay còn có tinh nhuệ nối nhau bắc thượng, chuyện này hẳn ông đã biết.
Đối với mệnh lệnh này Thẩm Mặc rất khó chịu, dù vô tình hay cố ý đều là đang tước giảm binh lực của y. Nhưng y chấp hành triệt để, vì y biết kỳ hạn trở về của mình sắp tới rồi.
Vương Bản Cố rất thất vọng, quy cho cùng chuyện Cù Châu do hắn gây ra, dù có người trong triều bao che không bị hỏi tội, nhưng địa vị trong lòng vị đó ảnh hưởng lớn, nên một lòng muốn dẹp loạn, vãn hồi hình tượng của mình.
Nhưng vụ bạo loạn này rất khó nhằn, thậm chí còn khó hơn ở Cống Nam, ban đầu hắn nghĩ có quân đội là xong, nhưng sự thực tàn khốc là, quân đội như ruổi không đầu, cả ngày quanh quẩn trong vùng mỏ chẳng tóm được công nhân bạo loạn, Lô Thang cũng hết cách.
Đứng trước lợi ích trần trụi, thuyết giáo là vô dụng, lễ nghi liêm sỉ là vô dụng, trung hiếu tiết nghĩa là vô dụng, thậm chỉ trấn áp là vô dụng...
Có thể đánh bại được lợi ích là... Lợi ích lớn hơn.
Thẩm Mặc cho rằng như vậy, nhưng y tuyệt đối không nói ra, vì quan hệ hai bên chưa tới mức giãi bày tâm sự với nhau, hơn nữa Vương Bản Cố là loại ôm cứng lấy "lời của thánh nhân", nhất định không tiếp thu lý luận của y.
Nhưng Thẩm Mặc có cách cho hắn vào khuôn khổ, nói tới chuyện khác:
- Năm nay là năm Ất Sửu, lại tới năm các vị vượt ải rồi.
Mọi người mặt mày khổ não:
- Đại nhân nói đúng, năm ngay ngoại sát, chúng tôi đang lo đây.
Rồi nhìn y lấy lòng:
- Mong đại nhân nói tốt cho mấy câu, chúng tôi ghi lòng tạc dạ.
- Có cơ hội bản quan sẽ nói giúp, nhưng sợ người ta không hỏi, bản quan chẳng thể giúp được.
Y nhìn Vương Bản Cố:
- Nghe nói triều đình năm nay định đem đốc phủ các nơi cũng tính vào ngoại sát, Vương trung thừa quan hệ mật thiết với Bắc Kinh, có thể xác nhận việc này cho ta không?
Vương Bản Cố gật đầu:
- Nghe nói Cao Túc Khanh lấy danh nghĩa đốc phủ tuy danh nghĩa là kinh quan, thực chất chủ chính địa phương, trách nhiệm lớn, làm việc ngoài là chủ yếu, không thể lấy gần tính xa... Ông ta làm thế chẳng phải lắm chuyện sao, quy củ bao năm sao nói sửa là sửa.
Dựa theo biểu hiện ba năm nay thì hắn chắc chắn là không xứng chức, nếu bị ngoại sát bãi miễn, sĩ đồ coi như xong.
- Bất kể ra sao thì đã thành kết cục định sẵn, các vị tự thu xếp đi.
Thẩm Mặc thở dài.
- Hạ quan hiều ý đại nhân rồi.
Chiết Giang bố chính sứ Trương Nghị nói:
- Cù Châu là bùa đòi mạng của chúng ta, nếu không nhanh chóng giải quyết, chỉ e sĩ đồ mọi người có trở ngại.
Thẩm Mặc lại hỏi:
- Vương trung thừa thấy sao?
Vương Bản Cố mặt mày méo xẹo:
- Chuyện là thế, nhưng biết làm sao?
- Yên tâm, chuyện đâu còn có đó, chúng ta tới Cù Châu, biết đâu có biện pháp gì thì sao?
Các quan viên như bị gáo nước lạnh dội lên đầu:" Hết rồi, y cũng không có cách nào, đi Cù Châu còn có ý nghĩa gì nữa."
Chương 750: Thiên hạ náo nhiệtThấy trong phòng không khí u ám, Thẩm Mặc khiển trách:
- Phấn chấn lên, không có cách không biết nghĩ sao? Về suy nghĩ đi, nói không chừng nghĩ ra thì sao? ?
Mọi người đành cáo lui.
Tôn Đĩnh và Đào Đại Lâm mặc dù cảm thấy Thẩm Mặc đã có kế, nhưng hai người bọn họ đang quan chính, không có quyền phát biểu, chỉ dùng ánh mắt trao đổi, rồi theo đám người kia đi ra ngoài.
Một ngày sau đội thuyền hùng hậu tới cổ thành Cù Châu, văn võ sĩ thân trong thành sớm đã chờ ở trên bến tàu, sau nghi thức hoan nghênh long trọng, Thẩm Mặc liền vào ở nha môn tri phủ.
Mấy ngày sau kinh lược đại nhân tỏ ra hết sức uể oải, đầu tiên nói đường xe mệt mỏi nghỉ ba ngày, sau đó trịnh trọng đi bái tế Khổng miếu, lại hững trí du lãm mấy địa danh nổi tiếng như Lạn Kha Sơn, Cù Thạch lâm, Cửu Long hồ, cùng các thân sĩ đương địa, chơi thật vui vẻ.
Thời gian du ngoạn trôi qua như bay, chớp mắt đã nửa tháng, nếu thường ngày quan viên Chiết Giang chẳng thấy gì, đại nhân thích chơi thì bồi tiếp, ăn uống miễn phí, còn ngắm cảnh dạo chơi, ai chả thích? Nhưng ngoại sát vào tháng tư, giờ là tháng hai rồi, thời gian có đợi ai đâu.
Sau khi trao đổi riêng với nhau, bọn họ quyết định nhắc nhở đại nhân một chút, vì thế hôm sau dạo chơi về, Vương Bản Cố nói:
- Chúng ta nghỉ rồi, chơi rồi, có phải nên bàn chính sự hay không?
- Chính sự gì?
Thẩm Mặc vặn mình.
- Không phải đại nhân triệu tập chúng hạ quan tới để giải quyết chuyện Cù Châu sao? Chẳng lẽ ngài quên rồi.
- Đương nhiên không quên.
Thẩm Mặc chẳng hề xấu hồ nói:
- Ta bảo các vị nghĩ cách mà, nghĩ ra chưa? Nghĩ ra chúng ta làm luôn.
Vương Bản Cố tức tối định đốp chát lại nhưng cố nhịn:
- Hạ quan vô dụng, nếu có chủ ý đã chẳng để Cù Châu loạn một năm.
- Chưa nghĩ ra thì nghĩ tiếp.
Thẩm Mặc chẳng thèm để ý tới bộ mặt tím tái của hắn, nói rất vô trách nhiệm:
- Phải tin tưởng vào bản thân chứ.
Rồi đi tắm rửa chơi bời.
Vương Bản Cố đành quay về, cùng đám quan viên kia ngày đêm thương lượng, vắt hết óc mà chẳng có cách gì. Đang lúc bế tắc thì có người tự xưng là "Thiệu đại hiệp" xin gặp, nói có thể giúp quan phủ giải quyết khốn cảnh.
Vương Bản Cố không muốn gặp đại hiệp giang hồ gì gì đó, nhưng Tương Nghị khuyên:
- Vị đại hiệp này không phải nhân vật tầm thường, rất nhiều chuyện quan phủ không làm được hắn đều hoàn thành.
- Một tên lừa gạt mà thôi.
Vương Bản Cố không tin:
- Nếu hắn có bản lĩnh thật còn cần quan phủ làm gì?
- Ngài còn nhớ binh biến Nam Kinh không?
- Đương nhiên.
Vương Bản Cố nhớ ra một chuyện thốt lên:
- Tin đồn hắn mang một thuyền bạc tới giúp kinh lược đại nhân giải nguy, ta luôn cho rằng đồn đại vô lý, chẳng lẽ là thật à?
Tương Nghị gật đầu:
- Mọi người đều nói, bạc tới từ Cù Châu.
- Như vậy tám phần là có liên quan tới bọn đào trộm bạc rồi.
Vương Bản Cố vỗ bàn:
- Ngươi đâu, bắt lấy hắn.
- Đại nhân bình tĩnh.
Tương Nghĩ vội ngăn lại:
- Hắn dám một mình tới đây tức có chỗ dựa, huống chi chúng ta tới dẹp loạn, bắt hắn ích gì?
Vương Bản Cố lầm lì hồi lâu mới gật đầu, một lúc sau Thiệu Phương mặc đạo bào phong lưu tiêu sái đi vào.
Thấy các vị đại nhân hắn chỉ chắp tai chào, chẳng hề quỳ xuống, cứ nghênh ngang đứng đó, dáng vẻ cao nhân ngoài sự đời.
Vương Bản Cố tính cách cứng nhắc, ghét loại người như thế, nhưng tình thế ép buộc đành chắp tay nói:
- Rất vui được gặp Thiệu đại hiệp.
- Không dám, không dám.
Thiệu Phương cười mỉm:
- Gặp được trung thừa đại nhân thanh liêm vang danh thiên hạ, là may mắn của thảo dân.
Sắc mặc Vương Bản Cố khá hơn nhiều, nhưng không muốn dông dài với hắn:
- Đại hiệp nói có thể giúp được ta, định giúp thế nào?
- Đại nhân muốn giúp thế nào?
Thiệu Phương ném vấn đề lại.
- A, khẩu khí không nhỏ.
Vương Bản Cố cười nhạt:
- Ta muốn những công nhân mỏ kia ngoan ngoãn về mỏ làm việc cho Đại Minh, từ nay không đối đầu với triều đình nữa. Hừ, làm nổi không?
- Được.
Thiệu Phương mạnh miệng nói:
- Thảo dân có thể đi đám phán giúp, nhưng các vị phải cho một danh phận.
"Làm bộ." Vương Bản Cố dù khinh bỉ, nhưng vẫn viết thư ủy nhiệm cho Thiệu Phương làm chiêu an sứ, hiệp trợ xử lý chuyện liên quan tới mỏ bạc, rồi ký tên đưa cho hắn:
- Xong chưa?
- Đại nhân chữ đẹp quá.
Thiệu Phương gãi đầu:
- Có điều những người kia chỉ nhận con dấu đỏ.
Vương Bản Cố lấy lại đóng quan ấn lên, Thiệu Phương định nhận lấy thì hắn rụt tay về hỏi:
- Làm sao ta tin ngươi được.
- Đại nhân còn có cách khác sao?
Thiệu Phương cười thản nhiên, nắm lấy một góc tờ giấy.
- Ngôn cuồng.
Vương Bản Cố tức giận.
- Bản sắc mà thôi.
Thiệu Phương khóe miệng nhếch lên:
- Đại nhân không buông tay thì thảo dân buông tay.
Ý là để xem ngươi giải quyết hậu quả ra sao?
Vương Bản Cố hừ một tiếng, rốt cuộc vẫn buông tay.
~~~~~~~~~~~~~~~~~
Thiệu Phương đi liền mấy ngày, Vương Bản Cố đang cho rằng mình bị lừa thì hắn quay về mang theo kết quả đàm phán, đối phương đồng ý khôi phục nguyên trạng, nhưng không cho người của quan phủ bước vào khu mỏ, hàng năm bọn họ nộp bạc lên đúng theo số lượng yêu cầu triều đình.
Vương Bản Cố tức giận, định lôi Thiệu Phương ra chém đầu, Tương Nghị vội khuyên:
- Giết hắn là hỏng hết, chúng ta phải trả lời đại nhân ra sao?
- Ai biết hắn có lừa chúng ta hay không?
- Hỏi hay lắm.
Dù bị kiếm chỉ vào người, Thiệu Phương chẳng hề hoảng loạn:
- Để biểu thị thành ý, bọn họ sẵn sàng nộp quan ngân năm ngoài thiếu lên.
- Ở đâu?
Tới tận 100 vạn lượng, Vương Bản Cố không đổi thái độ không được.
- Xa tận chân trời, gần ngay trước mặt.
Thiệu Phương thần bí nói:
- Cậy gạch dưới đất lên, bọn họ nói ở ngay chỗ này.
Vương Bản Cố nhìn hắn rất lâu mới vung tay lên:
- Cậy.
Liền có hai tên thân binh mang đao nạy gạch lên, một tấm ván gỗ lộ ra... Vương Bản Cố thấy sống lưng lạnh toát, sau khi mấy viên gạch nạy lên, xuất hiện một cái rương, giọng hắn lạc đi:
- Mở ra.
Hai tên thân binh cầm đao chém lại khóa, nhưng uổng công.
- Tiết kiệm sức đi.
Thiệu Phương lấy chìa khóa ra:
- Bọn họ đưa cho ta cái này.
Một tên thân binh nửa tin nửa ngờ nhận lấy, cạch một tiếng, khóa bật mở, quả nhiên bân trong là một rương bạc chỉnh tề sáng lóa mắt.
Đám Vương Bản Cố nhìn mà sởn hết gai ốc, có thể thần không biết quỷ không hay đem số bạc này vào giấu trong phủ nha, đám người đó thật quá khủng bố.
Đó là thế lực lớn nhường nào không ai rõ, nhưng e rằng lấy đầu bọn họ dễ như trở bàn tay. Vương Bản Cố hiện giờ phải thừa nhận tên nhân sĩ giang hồ cùng thế lực sau lưng hắn có thực lực nói chuyện bình đẳng với mình rồi.
- Ở đây chỉ là một nửa.
Thiệu Phương cười tiêu sái:
- Một nửa còn lại đợi thảo dân về sẽ dâng lên... À phải, nếu như muốn tìm thảo dân, chỉ cần tùy tiện tới một thanh lâu hỏi là biết.
Nói xong chắp tay ung dung rời đi.
Vương Bản Cố đem tình hình bẩm báo cho Thẩm Mặc, kinh lược đại nhân tựa hồ hứng thú với Thiệu Phương lớn hơn số bạc.
- Chuyện tới nước này, nên làm sao, xin đại nhân ra quyết định.
Vương đại nhân gần đây áp lực cực lớn, nhìn Thẩm Mặc lười nhác nằm trên ghế dài, lửa giận lại bốc lên, cố nhịn hỏi.
Thẩm Mặc lấy một quả nho cho vào mồm, mặt đầy hưởng thụ, một lúc lâu sau mới hỏi:
- Ông thấy sao?
- Hạ quan không có chủ ý nên mới tới hỏi đại nhân.
- Ta không thể quyết định thay cho ông được, nhưng bất kể ông quyết định ra sao ta đều ủng hộ
Thẩm Mặt nhổ hạt ra:
- Ngon lắm đấy, thử chút không?
- Không cần.
Vương Bản Cố sắp mất kiểm soát rồi.
Đuổi Vương đại nhân gần phát cuồng đi, Thẩm Minh Thần đi vào, Thẩm Mặc không còn vẻ lười nhác vừa rồi, hỏi:
- Đàm phán ra sao?
Cùng lúc Thiệu Phương đàm phán với Vương Bản Cố, Thẩm Minh Thần cũng ngầm giao thiệp với Cửu đại gia, đây mới là cuộc đàm phán thực sự quyết định bình an của Cù Châu, thậm chí vận mệnh của Chiết Giang.
Sau lần gặp mặt “tình cờ” trước, Thẩm Mặc đưa cho đám thế gia hoảng loạn kia một phong thư nhờ Thiệu Phương chuyển hộ, phong thư viết:" Không dây dưa ở mỏ bạc nữa, ta sẽ cho các ngươi lợi ích lớn hơn."
Trên phong thư đó, Thẩm Mặc thể hiện tham vọng vĩ đại của mình, đem Giang Nam tạo dựng thành đế quốc thương nghiệp cực lớn, đem tài phú khổng lồ kết hợp quyền lực khuynh thiên hạ, sáng tạo ra thế lực vĩnh viễn không phải ngửa mặt nhìn chính quyền, tất cả gia tộc sóng vai chiến đấu với y, sẽ phồn vinh mãi mãi.
Đương nhiên Thẩm Mặc nói rất kín đáo, nhiều điều phải dùng tâm mới cảm thụ được. Y sẽ lợi dụng tất cả nguồn lực tạo ra trung tâm sản xuất gồm dệt, đóng thuyền, luyện kim... ở Giang Nam.
Cửu đại gia hiểu rồi, trong mười mấy nghành nghiệp Thẩm Mặc đưa ra, có thể trở thành người đứng đầu một trong số đó thôi là tiền bạc đổ vào cuồn cuộn.
Việc này thoải mái hơn đào bạc nhiều, dù sao đó là chuyện phi pháp, hơn nữa rồi sẽ một ngày đào hết. Cân nhắc hai bên, nặng nhẹ thế nào, chỉ cần đầu óc đủ khôn khéo không khó đưa ra quyết định.
Khi Cửu đại gia quyết định rút khỏi mỏ bạc, đám thổ hào Cù Châu hoảng ngay, bọn chúng biết thực lực của mình so với Tam Sao kém xa, nếu không có đám đại gia tộc kia đứng sau, quan phủ sẽ không dung thứ cho hành vi chẳng khác gì phản loạn này.
Chuyện ở đây tính chất khác hẳn ở Tam Sào, đây chỉ là xung đột lợi ích, phải tránh tình thế xấu đi, không tới lúc bất đắc dĩ không thể dùng vũ lực. Nếu là tranh chấp lợi ích, thì phải dùng lợi ích giải quyết.
Vì thế cùng lúc ngầm đàm phán với Cửu đại gia, Thẩm Mặc sai Thiệu Phương khua chiêng gióng trống đàm phán với thân hào đương địa, không đối kháng võ trang với quan phủ nữa, y cấp cho bọn họ quyền hợp doanh khai khoáng với quan phủ, phân chia lợi ích, đồng thời trong thời hạn hợp đồng được quan phủ bảo hộ.
Được khai khoáng hợp pháp là điều hào tộc địa phương ao ước, nhưng Đại Minh hạn chế tư nhân khai khoáng cực nghiêm, chính vì ban đầu Vương Bản Cố đàn áp khai thác lậu mà dẫn tới cục diện hôm nay.
Giờ Thẩm Mặc cho họ quyền này, tâm lý "của chùa không ăn cũng phí" đã thay đổi, bọn họ coi mỏ quặng thành sở hữu của mình, nếu có kẻ nào dám đào trộm sẽ liều mạng với kẻ đó.
Cái khó là để đám thanh lưu như Vương Bản Cố chấp nhận, đối với đám cứng đầu cho rằng tất cả thuộc về triều đình, thuộc về hoàng đế, nào chịu phân chia cho người khác?
Nên Thẩm Mặc mới gác chuyện này lại đợi ngoại sát, để tăng thêm sức ép với đám Vương Bản Cố, y còn cố ý suốt ngày tiêu diêu chơi bời, chọc giận đối phương. Y biết chỉ khi lửa cháy ngang mày, lòng đại loạn, Vương Bản Cố mới chấp nhận.
Quan trọng hơn, tương lai có rắc rối gì thì Vương Bản Cố tự gánh vác, y chỉ mang trách nhiệm lãnh đạo, rắc rối ít hơn nhiều.
Tới tháng ba, ngoại sát đến nơi rồi, người dưới thúc giục, kinh lược đại nhân khoanh tay ngồi nhìn, Vương Bản Cố đồng ý đàm phán với đối phương, nhưng mau chóng lại bế tắc...
Tranh chấp chủ yếu không phải lợi ích mà là danh phận, chẳng có gì mà lạ, đám Vương Bản Cố vốn coi tiền như rơm rác, chẳng bận tâm. Nhưng "danh phận" không thể hồ đồ. Đó là giới hạn không thể đột phá của Vương trung thừa.
Được Thẩm Mặc sai khiến, Thiệu Phương tung ra khái niệm "bao thầu", đem quyền sở hữu và kinh doanh tách biệt ra, sở hữu đương nhiên thuộc về Đại Minh, kinh doanh thuộc về thân hào, tất nhiên chẳng có gì khác, chỉ là nói khác đi.
Nhưng thay đổi đơn giản đó cho Vương Bản Cố lý do thuyết phục, hay phải nói là lừa gạt bản thân, đồng ý ký hợp đồng bao thầu.
Đương nhiên đối phương cũng bỏ ra thành ý, không chỉ đảm bảo nộp đủ quốc khố, còn ngầm cấp quan viên liên quan cổ phần, nên hợp đồng mới thuận lợi.
Hợp đồng ký kết xong, đám thân hào chủ động hiệp trợ quan phủ, đi khuyên đám thổ phỉ chiếm giữ mỏ trên núi:" Tam Sào lợi hại thế nào còn bị Thẩm kinh lược nói diệt là diệt? Vị diêm vương này không chọc vào được, xuống nước trước, tạm thời chiêu an, đợi y đi rồi hẵng gây chuyện cũng không muộn."
Đám thổ phỉ toàn do thân hào nâng đỡ, cho rằng mọi người đồng lòng, căn bản không ngờ đã bị bán đứng, liền tới thàn chấp nhận chiêu an.
Quả nhiên được quan phủ hoan nghênh nhiệt liệt, còn lấy danh sách quan chức ra cho bọn họ chọn. Đồng thời nói, tuần phủ đại nhân phí bao tâm tư mới dọn trống vị trí này, số lượng có hạn, tới muộn là hết.
Thế là không ai hoài nghi nữa, toàn bộ tranh nhau xuống núi, gần như trong một đêm, Cù Châu liền đầy đầu lĩnh thổ phỉ. Quan phủ ban đầu lấy lễ đối đãi, nhưng qua vài ngày, Vương trung thừa đột nhiên lệnh bắt hết cho vào nhà lao, đồng thời giết một số kẻ nổi danh tàn ác, sau đó cảnh cáo nghiêm khắc số còn lại, rồi thả chúng ra.
Ra rồi mới biết khu mỏ đã mở trở lại, bọn chúng choàng tỉnh, thì ra mình bị đám thân hào vứt bỏ rồi, nhưng lúc này thủ hạ bọn chúng đều tới mỏ làm việc, bọn chúng bị cô lập, còn làm gì được đây?
Đám thủ phỉ muốn báo thù, nhưng đám thân hào sớm có chuẩn bị, chưa đợi bọn chúng ra tay đã giết hết, ném xác vào mỏ quặng. Với loại vụ án này quan phủ chỉ mắt nhắm mắt mở, tạm thời xếp vào án treo, sau đó lâu dần coi như bỏ đó.
Đó là chuyện sau này.
~~~~~~~~~~~~~
- Kết thúc chưa?
Tuần thị vùng mỏ khôi phục lại trật tự, Vương Bản Cố vẫn có cảm giác không thực, hắn không chấp nhận được vấn đề quấy nhiễu mình bao lâu giải quyết một cách hồ đồ như thế.
Tương Nghị chắp tay nói:
- Toàn nhờ trung thừa đại nhân anh minh chỉ huy, lần này ngài nhất định chỉ còn đợi ngày thăng tiến về kinh.
Vương Bản Cố nghe vậy mỉm cười:
- Ta đi rồi, ghế tuần phủ là của ông, chúng ta cùng vui.
- Đa tạ trung thừa nâng đỡ.
Tương Nghị mừng khôn siết:
- Nghị gan óc lầy đất cũng không báo đáp hết.
- Nhưng sao ta cảm thấy giống như chẳng hề làm gì.
Vương Bản Cố ánh mắt hoang mang:
- Mỏ bạc vẫn nằm ngoài khống chế của quan phủ, đám đầu sỏ vẫn tiêu dao ngoài vòng pháp luật, chỉ giết được vài con dê thế tội.
- Nhưng vẫn đề đã được giải quyết, đó không phải kết quả ngài muốn sao?
- Đúng... Giải quyết rồi, sao lòng ta vẫn chưa yên.
Tương Nghị thầm nghĩ:" Vì nhiều chuyện ngươi chẳng biết gì." Nhưng tất nhiên mặc cho trung thừa đại nhân tiếp tục mơ hồ.
Giặc Oa cơ bản bị diệt, Nam Kinh, Cù Châu, Cống Nam liên tiếp được bình định, lực lượng có sức phá hoại chất chứa ở phương nam đã được dẹp hết.
Nhưng trong một năm qua, Đại Minh chẳng hề thái bình, ở Tứ Xuyên Bạch Liên Giáo - Thái Bá Quan khởi sự, liên hợp bảy châu huyện khác, xưng có mười vạn quân, đánh đâu thắng đó, cuối cùng đặt chân ở Đại Bảo, lấy quốc hiệu là Đại Đường. Tức thì thiên hạ chấn động, thiên tử nổi giận, lệnh tiêu diệt.
Nhưng sĩ khí quan binh Tứ Xuyên đã bị đánh tan, tuần phủ Lưu Tự Cường vội cầu viện triều đình, cần phái quan lớn tới chỉ huy tiễu phỉ. Nội các phê chuẩn, lệnh binh bộ tiến cử nhân tuyển, binh bộ cho rằng đông nam kinh lược Thẩm Mặc là thích hợp nhất, thế là dư luận cho rằng ngày Thẩm kinh lược tới tây nam không xa nữa.
Nhưng Thẩm Mặc tuyệt đối không nhận nhiệm vụ này, y đọc chuyện về Dương Minh Công, biết chuyện tệ nhất trên đời là liên tục làm đao phủ dẹp loạn cho triều đình.
Đừng ngây thơ cho rằng có sự công bằng tồn tại, ngươi càng giỏi, càng dễ bị lợi dụng, nếu biểu hiện quá xuất sắc thì xin chúc mừng, chỉ cần quốc gia có loạn là sẽ nghĩ tới ngươi, cả đời ngươi bôn ba ở vùng sơn cùng thủy tận, chỉ huy hết cuộc đồ sát đẫm máu này tới cuộc đồ sát khác.
Đương nhiên, trong quá trình đó chỉ cần ngươi biểu hiện ưu tú, phẩm cấp khẳng định sẽ tăng vòn vọt, chẳng cần bao năm lên nhất phẩm, thậm chí thành bá tước, hấu tước gì đó.
Nhưng cái phẩm cấp cao quý đó ngoài cho ngươi thêm chút bổng lộc thì vô dụng, khi ngươi toàn thân bệnh tật, tóc mai sớm bạc, mới bi ai phát hiện ra, đám đồng niên, hậu bối cả đời rúc ở kinh thành mà ngươi luôn coi thường đã leo lên thượng thư, thậm chí nhập các, thành thượng cấp có thể nói một lời định đoạt đường thăng tiến của ngươi.
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Không phải ngộ cố ý viết sơ lược, mà không cần lan man nữa, thế là đủ, về kinh sẽ viết trọng điểm hơn.
Loại bi kịch này không chỉ tồn tại ở tướng lĩnh quân sự, mà với tất cả ngoại quan đều là thế, dù ngươi giỏi tới đâu, nhưng rời khỏi trung tâm quyền lực, thì cả đời đừng mơ nhập các.
Thẩm Mặc không thể xem thường, y cần mau chóng quay về Bắc Kinh, nếu không y thành nhân vật đẩy ra rìa.
May là y sớm có chuẩn bị, sau khi bình định Cống Nam, thống khoái đầu ý cho Lưu Hiển nhập Xuyên, hào phỏng cấp luôn một năm kinh phí. Đáng lẽ số tiền này Tứ Xuyên phải bỏ, nên Lưu Tự Cường hết sức cảm kích y.
Đồng thời y tranh thủ dâng liền ba bản sớ, xưng mình thân mang bệnh, không kham nổi trọng trách, mong về Bắc Kinh điều dưỡng. Nhưng khi đó đông nam chưa yên, triều đình không thể thay tướng giữa chừng, Từ các lão đành an ủi, hứa chỉ cần giải quyết vấn đề Cù Châu là sẽ đưa y về kinh.
Thẩm Mặc dùng một hòn đá ném hạ ba con chim, một lấy lui làm tiến, để Bắc Kinh buông lỏng cảnh giác, tin y một lòng muốn về kinh, không lo y quyền bính quá lớn nữa. Như thế y có thể thỏa sức làm nhiều việc trước kia không dám làm mà không sợ nghi kỵ.
Thứ hai, để vỗ về y, Từ Giai đành cấp cho y nhiều quyền lực hơn, để y có thể làm những chuyện trước kia không làm nổi.
Thứ ba, dọn sẵn đường về kinh, một khi hoàn thành bố cục ở đông nam, lập tức xin Từ các lão thực hiện lời hứa đưa mình về kinh thành.
Chuyện ở Cù Châu còn chưa kết thúc, Thẩm Mặc đã xưng bệnh, dưới ánh mắt bao người, bị khiêng lên thuyền đưa về Hàng Châu tĩnh dưỡng, liên tiếp mấy tháng trời không lý tới chính sự.
Đáng lẽ như thế các vị quan lớn trong triều dù tín nhiệm y cũng không thể ép y tới Tứ Xuyên dẹp loạn nữa, nhưng lần này Bắc Kinh cố chấp ngoài dự đoán, còn phái khâm sai đưa nghị y tới trị bệnh cho y...
Đương nhiên trong mắt người ngoài là hoàng thượng tin sủng y, biết bao người hâm mộ không thôi.
Thẩm Mặc thì biết, bọn họ tới xem mình bệnh thật hay giả.
- Ép người quá đáng.
Thẩm Minh Thần cùng đại nhân "dưỡng bệnh" ở thôn Long Tỉnh, đang nổi giận:
- Bọn chúng muốn bêu xấu đại nhân.
Lúc này là tháng sáu, Thẩm Mặc mặc đạo bào thùng thình, ngồi trên ghế trúc, phe phẩy quạt nói:
- Bọn chúng đang đào hố hại ta đây mà.
Thẩm Minh Thần trợn trừng mắt:
- Là kẻ nào nhất định cứ muốn gây khó với đại nhân thế?
Nhớ tới năm ngoái Thẩm Mặc bị thiệt một vố, đối phương nhất định là người có thế lực còn lớn hơn Thẩm Mặc.
- Cái này khó nói lắm.
Kỳ thực trong lòng Thẩm Mặc sớm đoán ra, nhưng không có chứng cứ y không nói:
- Bắc Kinh quá xa, chuyện xảy ra ở Tây Uyển ta không biết được.
- Cũng không khó đoán, liên tiếp muốn ám hại đại nhân, ắt vì đại nhân uy hiếp tới hắn, kẻ có tư cách này không nhiều, có năng lực này càng ít.
Thẩm Minh Thần không hiểu thế lực kinh thành lắm, chỉ nói dựa theo cảm giác.
- Cũng có vài kẻ.
Thẩm Mặc không muốn dây dưa ở vấn đề này nữa:
- Đoán không ra được kẻ nào giở trò bẩn, thôi chẳng nghĩ nữa, qua được cửa ải này hẵng hay.
- Cửa ải này không khó qua.
Dư Dần đặt ấm nước lên lò, nói:
- Vấn đề là sau này đại nhân đi theo đường nào.
Thẩm Mặc ngồi thẳng dậy:
- Quân Phòng huynh có diệu kế gì?
- Bọn chúng tới thăm bệnh, đại nhân bệnh lớn một hồi cho bọn chúng xem.
Dư Dần gần đây cười nhiều hơn rồi, xem ra con người không phải là không biết cười, chỉ là có lúc cười không nổi mà thôi.
- Huynh nghĩ ra chủ ý thối gì đấy.
Thẩm Minh Thần lắc đầu:
- Đại nhân bệnh thật thì không cần tới Tứ Xuyên, nhưng cũng chỉ đành về nhà dưỡng bệnh, trong thời gian ngắn khỏi về Bắc Kinh.
- Cú Chương huynh nói có lý.
Thẩm Mặc gật đầu:
- Chiêu này rất độc, thế nào ta cũng nếm đủ.
Vốn giả bệnh là thủ đoạn thường dùng ở quan trường, chẳng ai thực sự quan tâm ngươi bệnh thật hay không. Nhưng đối phương bất chấp quy củ tung đòn này ra làm y rất khó chịu.
Dư Dần cười:
- Tại hạ sắp xếp cho đại nhân mắc bệnh này, vừa có thể qua ải, lại lập tức được về kinh tĩnh dưỡng.
Thẩm Mặc vui mừng:
- Bệnh gì hay thế, mau mau nói ra.
Y biết Dư Dần không thích nói khoác, thế tức là đã nắm chắc rồi.
- Bạch Hổ Lịch Tiết, được không?
Khóe miệng Dư Dần cong lên.
~~~~~~~~~~~~~~~~
Tháng 7, khâm sai triều đình tới, đương nhiên người chưa tới nơi, tư liệu của hắn đã ở trong tay Thẩm Mặc.
Người này tên Vương Triện, tự Thiệu Phương, người Hồ Quảng, năm nay 47 tuổi, cha là Vương Lương Sách, bậc đại nho nổi danh thiên hạ, gia giáo rất nghiêm.
Người này nhân sinh mang sắc thái truyền kỳ, thi đỗ cử nhân lại không đi thi hội, mà tham gia sĩ đồ là tri sự huyện Thủy Giang Tây. Bảy năm sau thi hội trúng tiến sĩ, hiện nhiệm giám sát ngự sự, sau lần truyền chỉ này sẽ trực tiếp làm tuần án Chiết Giang, xem ra là quan viên triều đình bồi dưỡng trọng điểm.
Khi gặp được hắn, Thẩm Mặc thấy nhãn quan của triều đình không tệ, người này dáng cao, nghi biểu bất phàm, khí độ trầm ổn, cử chỉ mực thước, xem ra gia giáo tốt cùng trải nghiệm sĩ đồ đúng là có lợi không ít cho hắn.
Hắn cũng dò xét Thẩm Mặc, vị kinh lược này nằm trên ghế tựa, sắc mặt không tốt, nhưng tinh thần rất tốt, mỉm cười ôn hòa. Nhưng giữa trời nóng nực lại mặc áo bông dầy, người còn đắp chăn, không sợ chết ngộp.
Phát hiện ra hắn nhìn mình, Thẩm Mặc cười khổ:
- Làm Vương đại nhân chê cười rồi, mấy ngày hôm nay không có mưa, ta mới đỡ một chút.
- Bộ đường đang tuổi xuân đỉnh thịnh, như mặt trời mới lên, chỉ là nhất thời đau bệnh, sẽ mau chóng khỏe thôi.
Vương Triện cung kính nói:
- Hạ quan phụng chỉ tới tuyên chỉ, trước khi đi thủ phụ có dặn, nếu sức khỏe đại nhân không tốt, không cần phải quỳ nhận chỉ.
- Không được, lễ tiết không thể phế bỏ.
Thẩm Mặc lắc đầu:
- Ta còn chưa tới mức bệnh không nhúc nhích nổi.
Nói xong vịn ghế đứng dậy, động tác như ông già sắp xuống lỗ, Vương Triện định đỡ nhưng y kiên quyết không chịu.
Chỉ quỳ xuống thôi, mà Thẩm Mặc hết sức gian nan, hai chân cứ cong lại chút nào, là mặt y đau đớn thêm chút đó, khi quỳ xon rồi thì trán đã đẫm mồ hôi.
Thấy y còn trẻ mà bệnh tới mức đó, Vương Triện thầm thở dài, bày hương án, đọc thánh chỉ. Nội dung chủ yếu khen thưởng, quan thăng một cấp thành phòng nhị phẩm, những thứ lụa là gấm vóc, nghi trượng tăng thêm khỏi cần nhắc tới.
Phong thưởng không thấp, nhưng toàn thứ màu mè mà vô dụng, địa vị quan trường đâu phải dựa vào thứ đó thể hiện ra.
Truyền chỉ xong, Vương Triện vội đi tới đỡ Thẩm Mặc:
- Bộ đường mau đứng dậy.
Đỡ Thẩm Mặc ngồi xuống, hắn lùi lại hai bước khấu đầu hành lễ, được Thẩm Mặc ban ngồi xong, nói:
- Bộ đường vất vả công cao, thân thể mắc bệnh, hoàng thượng và thủ phụ lo lắng, nên phái thái y đi cùng hạ quan, tới chẩn bệnh cho bộ đường.
Thẩm Mặc áy náy nói:
- Không ngờ làm hoàng thượng và thủ phụ phải lo, thật lỗi quá. Thái y đâu mau mời vào.
Không lâu sau một người trung niên đi vào hành lễ:
- Tại hạ Kim Học Cầu bái kiến đại nhân.
- Không cần đa lễ.
Thẩm Mặc mỉm cười ban ngồi:
- Phiền Kim thái y xa xôi ngàn dặm tới đây, ta thật ái ngại.
- Đó là bổn phận hạ quan, huống chi được ra sức cho kinh lược đại nhân, hạ quan vui vẻ mà làm.
Thẩm Mặc thầm nghĩ:" Vị thái y này thật biết nói chuyện." Liền nói:
- Vậy ta không khách khí nữa, thái y chẩn bệnh đi.
Vương Triện vội giúp thái y mang hòm thuốc, dọn chỗ, Kim thái y ngồi xuống bên cạnh Thẩm Mặc, nhắm mắt bắt mạch.
Trong phòng lặng ngắt như tờ, bắt mạch xong Kim thái y lại xem đầu gối Thẩm Mặc hỏi:
- Có phải đại nhân bôn ba trong sương gió thời gian dài.
- Y sinh khác cũng khỏi thế.
Thẩm Mặc mặt mày âu sầu:
- Giờ nhớ lại mười năm trước ta đảm nhận Chiết Giang tuần án, khi đó mùa đông, Giang Nam vừa lạnh vừa ẩm, ta bôn ba đông tây như cơm bữa. Nhiều năm qua khớp gối luôn tê xưng, song vẫn còn chịu được. Từ hồi tớ Cống Nam, bệnh nặng hơn hẳn, cứ như có sâu đục bên trong, đêm ngủ không yên, ban ngày lại đỡ hơn nhiều, vì thế ta đều làm việc ban đêm, ngủ ban ngày.
Nghe y nói, Kim thái y gật gù, Vương Triện hỏi:
- Đại nhân mắc bệnh gì thế?
- Đại nhân vì bị phong hàn ẩm độc nhập thể, lại không trị liệu kịp thời, làm phong tà chạy khắp các khớp, kinh mạch không thông, khí huyết ngưng trệ, từ đó thành bệnh. Nhưng dù sao đại nhân tuổi trẻ, bệnh trạng không hiện ra, năm ngoài tới vùng núi Cống Nam, lại nhiễm thêm phong hàn, khiến bệnh phát tác.
- Loại bệnh này có nặng không?
Vương Triện lại hỏi:
- Bệnh này bộc phát ban đêm, khớp xương như bị hổ gặm, lại nặng nhất vào tảng sáng, cho nên có tên Bạch Hổ.
Kim thái y nhìn Thẩm Mặc nói:
- Xem triệu chứng cả đại nhân, bệnh đã cực kỳ nghiêm trọng, cần chữa trị ngay.. Nếu không...
Ông ta ngừng lại, nhưng Vương Triện đã hiểu, lo lắng nói:
- Bộ đường là cột trụ của Đại Minh ta, chỉ cần chữa được bệnh dù có là gan rồng tim phượng cũng cứ nói ra.
Hắn quan tâm rất chân thật, nếu Thẩm Mặc nhìn nhầm thì chỉ có thể nói, kẻ này tâm kế quá sâu.
- Bạch Hổ bệnh còn gọi là Lịch Tiết, người mắc bệnh này nhiều lắm, không có tiên dược nào trị hết, chỉ còn cách trong uống ngoài xoa, thêm vào châm cứu thông mạch. Những cách này hẳn đại phu trước đều đã làm rồi, nhưng bệnh tới mức như đại nhân không thể trừ tận gốc.
Kim thái y cân nhắc rồi nói:
- Hạ quan có phương thuốc hẳn có thể giảm bớt đau đớn cho đại nhân.
Nghe ông ta nói, Thẩm Mặc mặt tái đi:
- Chẳng lẽ ta phải chịu thống khổ này cả đời sao?
- Đúng thế.
Vương Triện cũng hỏi:
- Không có cách nào sao?
- Cách thì có.
Kim Thái Y ngập ngừng:
- Nhưng y sinh không làm được.
Vương Triện lấy làm lạ:
- Y sinh không làm được, thì hi vọng vào ai?
- Bệnh này do phong hàn ẩm thấp gây ra, chỉ cần tới phương bắc khô ráo, bình thường ra vào dùng kiệu, không bị phong hàn, không đau nữa. Có điều đại nhân làm quan không được tự do, cho nên y sinh mới hết cách.
Thẩm Mặc hỏi:
- Vậy có vào Xuyên được không?
- Nơi đó tuy ít gió, nhưng ẩm thấp mưa nhiều, lại mây mù quanh năm, đại nhân nói thử xem.
Kim thái y hơi giận:
- Thứ cho hạ quan vô lễ, sức khỏe của đại nhân không có tư cách suy nghĩ viển vông nữa rồi, dựa theo cách hạ quan nói, còn tiếp tục sinh hoạt được, làm quan được. Nếu không trong vòng 10 năm nữa thôi, không thể tự lo liệu cho bản thân.
Vương Triện không nghi vấn gì nữa, trở về viết bảo cáo gửi gấp tới Bắc Kinh, mười ngày sau có câu trả lời, cho phép Thẩm Mặc an bài thỏa đáng xong, về kinh nghỉ ngơi.
Một chi tiết nhỏ không ai chú ý, Kim thái y là đệ tử của Thôi Duyên...
Phải thừa nhận, qua mười năm khổ tâm tích lũy, Thẩm Mặc đã dệt lên một tấm lưới lớn vượt ngoài sức tưởng tượng của tất cả. Thứ y lộ ra bên ngoài là một góc của tảng băng chìm, sức mạnh thực sự của y, luôn bị vẻ ngoài vô hại của nó mê hoặc.
Chẳng lẽ mỗi lần y vượt qua gian hiểm đều dựa vào vận may?
Đương nhiên là không. Như lần ứng phó với khâm sai này, Thẩm Mặc có được toàn bộ tư liệu của Vương Triện và Kim thái y, phân tích kỹ càng, tìm ra mối liên hệ với Thôi Duyên.
Hỏi Thôi Duyên được biết, tổ trạch của hắn bị Nhữ Dương Vương Chu Mục Cận chiếm mất, luôn kiện cáo muốn lấy vệ, dù Nhữ Dương Vương chẳng là cái gì, nhưng một quan thái y nho nhỏ chẳng làm gì nổi.
Thôi Duyên viết thư cho Kim Học Cầu, bảo hắn chuyện tổ trạch Thẩm kinh lược sẽ xử lý giúp, tiền đề là giúp Thẩm Mặc về Bắc Kinh thì lời nói mới có tác dụng.
Kim Học Cầu hiểu ý vâng theo, huống chi có quan hệ sư đồ ở đó, liền phối hợp với Thẩm Mặc lừa Vương Triện.
Kim Học Cầu y thuật rất tốt, bắt mạch xong biết Thẩm Mặc giả bệnh ngay, nếu không mua chuộc được hắn trước khẳng định là không qua được ải này.
Nhìn bề ngoài Thẩm Mặc chẳng làm gì tốn công, kỳ thực chuyện y bỏ công ra người ngoài nhìn không thấy mà thôi.
Thời hạn đã định, Thẩm Mặc không vội nữa, y cảm nhận được lần này rời Giang Nam, e khó quay về nữa, phải tranh thủ thời gian, hoàn thành bố trí.
Đầu tiên là quan trường, nhiều năm qua đồng niên và học sinh của y đã trải khắp đông nam, nhưng đa phần chức quan thấp, đồng niên chỉ mới lên tới đồng tri, hoặc làm chức vụ ở tỉnh, rất ít người đảm nhận chức trọng yếu như tri phủ.
Nhưng chính vì thế Thẩm Mặc không cần phải làm gì oanh động, ung dung làm người của mình chiếm nửa giang sơn đông nam.
Tuy y không có quyền bổ nhiệm quan viên trên lục phẩm, nhưng có quyền điều phối tuyệt đối ở đông nam.
Chỉ cần giao nhiệm vụ có cơ hội thăng tiến cho người mình, là có thể thuận lợi thăng chức. Hơn nữa lại bộ thượng thư là bè đảng thân thiết với Cao Củng, hai người đang đoàn kết mọi lực lượng chống Từ Giai, đương nhiên không bỏ cơ hội lấy lòng Thẩm Mặc.
Quách Phác không quen Thẩm Mặc, nhưng Cao Củng biết y lợi hại, cho rằng chỉ cần đổi vài quan chức được y không giúp bên nào đã là lợi rồi.
Cho nên an bài của Thẩm Mặc đều được thỏa mãn, nhưng y không tham lam, không chọn chức trọng yếu, nên không hề lộ ra chút nào.
Thẩm Mặc chưa bị mê muội, y biết đề bạt quá nhanh đốt cháy giai đoạn là không có ích lợi gì. Cho nên tuần tự từng bước, đừng thấy y chỉ rút gọn thời gian thăng tiến cho họ có vài ba năm, nhưng tương lai ưu thế không gì sánh bằng.
Tiếp đó là bố cục công thương nghiệp, phải nói rõ là đỉnh cao công thương nghiệp Trung Quốc là thời Tống, quan doanh làm chủ, tư doanh là bổ sung mà thôi. Nhưng tới thời Minh, công nghiệp quan doanh cơ bản không thể bì với tư doanh.
Thẩm Mặc đã thống kê, năm Gia Tĩnh thứ 43, trong 3000 lò gốm ở trấn Cảnh Đức, lò quan chỉ có hơn 100 cái, chất lượng càng thua xa lò dân.
Thậm chí ngay cả nghành khai khoáng các triều đại luôn khống chế nghiêm ngặt cũng biến hóa nghiên trời lệch đất.
Trừ vàng bạc ra thì các loại mỏ quặng khác đã mở cửa cho dân gian. Mỏ quan tới nay chỉ còn mấy tỉnh thiểu số Vân Nam còn kiên trì kinh doanh, nhưng chẳng có tiền đồ gì.
Nhược lại nghề sắt dân doanh phát triển bừng bừng, dần thành trung tâm chế luyện dân gian, xưởng luyện sắt chuyên nghiệp không ngừng mở rộng.
Ngay cả cấm chỉ dân gian khai thác kim ngân cũng trở thành giấy lộn, vì khu mỏ thường ở đâu trong núi, muốn cầm gần như không thể. Chuyện trộm khoáng xảy ra khắp các tỉnh, có mỏ ngang nhiên thành lập lực lượng vũ trang đối kháng với quan phủ, ví dụ như ở Cù Châu chỉ là điển hình, chứ không hề hiếm.
Cuối cùng mấy năm qua, nghành muối ăn vốn được coi là nguồn tài chính quan trọng cũng dần mất đi tác dụng.
Vì là đối thượng trưng thu thuế của triều đình, muối quan giá quá cao, lượng tiêu thụ ngày một hẹp lại, đương nhiên thuế thu cũng ngày càng ít. Nhu cầu toàn quốc ước chừng 1tỷ 800 triệu cân, nhưng muối quan cố định lượng tiêu thụ ở mức 500 triệu cân, nên thị trường muối ăn bị muối tư độc chiếm, ảnh hưởng nghiêm trọng tới thuế muối.
Triều đình luôn nỗ lực tăng cường lượng tiêu thụ, nhưng muối chẳng ăn được thay cơm, mà thị trường có hạn, giá muối tư rẻ chất lượng tốt ăn đứt muối quan, nên nỗi lực của triều đình đều kết thúc thất bại.
Thay đổi kể trên chẳng liên quan gì tới Thẩm Mặc, cố muốn nói là có, nhiều lắm cũng chỉ thúc đẩy nó phát triển mà thôi. Có thể nói cuối triều Gia Tĩnh, kinh tế quan doanh nguồn chi tiêu của hoàng thất và triều đình đã bên bờ sụp đổ, bị dân doanh chiếm thị phần tuyệt đối.
Đáng buồn là nên kinh tế phát triển này không mang lại mấy thu nhập tài chính, vì thương thuế cực thấp, mà trốn thuế tới mức ngang nhiên trắng trợn.
Hoàng đế và thủ phụ các triều đều muốn thay đổi tình hình này, nhưng những người đại biểu cho các tập đoàn loại ích kia đã trải khắp toàn triều.
Mỗi lần muốn tăng thuế là tiếng phản đối "tranh lợi với dân", "thừa cơ bóc lột" vang lên khắp triều đình, người đề xuất bị chửi mắng coi như tai họa, thậm chí bị phỉ nhổ đánh đập... Khiến cho chẳng ai dám giúp hoàng đế làm việc này.
Kết quả xảy ra hiện tượng quái đản, công thương nghiệp càng hưng thịnh, quốc gia càng nghèo khó.
Chương 751: Sóng gió ngày trở vềThẩm Mặc cũng không thể thay đổi cục diện này, vì quy cho cùng y chính là người đại diện lớn nhất của nền công thương nghiệp kia, nếu như phản lại, sẽ thành đối tượng bị đám đại gia tộc kia tiêu diệt.
Song y không mong muốn Đại Minh mãi không thu lợi được gì từ nền kinh tế phát triển.
Y không quên nguyên nhân diệt vong của Đại Minh, là Nữ Chân và nạn dân. Vì triều Sùng Trinh bần cùng không có tiền chẩn tai nên đám Lý Tự Thành, Trương Hiến Trung mới nổi dậy. Vì tài chính suy kiệt không ứng phó nổi với hai cuộc chiến cho nên mới mất nước.
Cho nên công thương nghiệp phải phát triển, quốc lực cũng phải tăng theo, đó là tư tưởng chỉ đạo chấp chính của Thẩm Mặc. Về phương án cụ thể, Thẩm Mặc chưa bao giờ dám nghĩ một cái là làm ngay, mà thông qua điều tra nghiên cứu, làm rõ hiện trạng, mới thận trọng thí điểm, rồi phổ biến ra các nghành nghề.
Về sản nghiệp quan doanh thì Thẩm Mặc dè dặt, nhưng đối với bố cục thương nghiệp đông nam thì y lại cực kỳ mạnh tay dứt khoát, vì các quan lớn trong triều còn chưa ý thức được, những hạng mục cải cách đó có thể thay đổi hoàn toàn diện mạo của một quốc gia.
Nói một cách đơn giản là y đem sản nghiệp chủ yếu của đông nam kết hợp với ưu thế địa khu bố trí lại, khẩu hiệu là "giảm thiểu đầu tư mù quáng, tránh cạnh tranh không lành mạnh, xúc tiến hợp tác đối bên cùng cơ lợi." Như lấy Tô Tùng làm trung tâm tơ lụa, Vu Hồ trung tâm sắt thép, Phúc Kiến chế tạo thuyền.. v.. v.. v..
Tối ưu hóa tổ hợp, là điều thương nhân cầu mà không được, tất nhiên vui vẻ làm theo. Nhưng ảnh hưởng sâu xa của nó thì phải để tương lai mới nhìn ra được.
Cuối cùng là phương diện mậu dịch đối ngoại, Thẩm Mặc tấu xin triều đình mở thị bạc ti ở ba nơi Tuyền Châu, Ninh Ba, Quảng Châu. Đồng thời cho phép tư nhân ra biển làm ăn, chỉ cần đăng ky nộp thuế là được.
Nhưng trên biển khơi vạn dặm, đâu phải chỉ có thương thuyền sáng tạo tài phú, mà còn có hải tặc nhiều như long trâu, thế lực giặc Oa ngoài biển vẫn không nhỏ, hải tặc Phật Lãng Cơ và Hà Lan, càng thường xuyên qua lại Nam Dương, ý đồ cướp đoạt tài phú trên thương thuyền Đại Minh.
Cho nên không có hạm đội hùng mạnh hộ tống là không được, hiện giờ phụ trách tuyến đường biển Nam Dương là Từ Hải, duyên hải Đại Minh do Vương Trực phụ trách, nhưng hai kẻ đó sớm chán chuyện này rồi, Thẩm Mặc cũng không yên tâm về chúng.
Y đem hi vọng gửi gắm lên thủy sư của Đại Minh, chuyện này giao cho Trịnh Nhược Tằng đứng sau thao tác, lấy thủy sư của Du Đại Du làm gốc, chiêu mộ thêm 2 vạn binh sĩ, kế hoạch tiền kỳ là đóng 200 chiến hạm hỏa lực lớn, phòng hộ hoàn thiện.
Nhưng triều đình không gánh nổi số quân phí này, kế hoạch của Thẩm Mặc là các tỉnh duyên hải bỏ một phần, thủy sư thông qua hộ tống thương thuyền kiếm một phần, còn lại y tự bỏ...
Đương nhiên lấy danh nghĩa tập thể phú hào đông nam quyên tặng.
Sở dĩ y gấp gáp như vậy là vì theo báo cáo của Từ Hải, người Tây Ban Nha đã đổ bổ lên phía bắc đảo Lữ Tống, thiết lập cứ điểm. Với kẻ thực dân đầy tai tiếng này, Thẩm Mặc hiểu rất rõ, biết bước tiếp theo của bọn chúng là nuốt cả đảo Lữ Tống.
Lúc này trên đảo Lữ Tống đã có hơn 2 vạn hoa kiều định cư, Thẩm Mặc chỉ thị Từ Hải làm tốt quan hệ với những người này, luôn đợi cơ hội hoàng kim tới để sử dụng. Đương nhiên Lữ Tống là phiên bang của Đại Minh, nên cần kiên nhẫn đợi thời cơ thích hợp cùng chuẩn bị vẹn toàn.
Tháng 9 năm Gia Tĩnh thứ 44, Thẩm Mặc hoàn thành tất cả chuyện giao ban, Thẩm Mặc mang theo lưu luyến vô hạn lên quan thuyền trở về đúng lúc mùa thu Giang Nam đang độ đẹp nhất.
Khung cảnh như họa đó trở thành nổi khắc khoải vĩnh viễn của y.
Không chỉ hi vọng của y gửi gắm ở vùng đất này, mà các huynh đệ y đang ở đây phấn đấu... Từ Vị làm đốc học Giang Tây, Đào Đại Lâm làm tế tửu Nam Kinh quốc tử giám, Tôn Đĩnh làm Chiết Giang án sát sứ, Lục Quang Tổ làm bố chính sứ Phúc Kiến.
Từ này huynh đệ mỗi người một phương, chẳng biết đến bao giờ mới gặp lại, trong lòng Thẩm Mặc có chút buồn bã.
Nhưng làm y cảm thấy vui mừng là bốn vị đại mưu sĩ mình phí bao tâm tư mời lại không theo thông lệ giải tán, mà ở lại ra sức dưới trướng của y. Trịnh Nhược Tằng ở lại Tô Châu chịu trách nhiệm hải quân, ba vị còn lại thì lấy thân phận môn khách cùng y bắc thượng.
Khi qua Huy Châu, Thẩm Mặc muốn đi thăm Hồ Tôn Hiến, liền lệnh đội ngũ dừng lại, hành trang gọn nhẹ tới thôn Long Nham, ai ngờ không gặp được hắn.
Gia nhân nói, đại soái an nhàn ở nhà, thường tới sơn miếu uống rượu đánh cờ với hòa thượng, ít khi ở nhà.
Thẩm Mặc hỏi miều nào, gia nhân không rõ, phái người đi tìm cả ngày trời không kiếm được người, chỉ đem lại một lá thư của Hồ Tôn Hiến.
Thẩm Mặc lấy thư ra xem, thấy hàng chữ quen thuộc:" Nửa đời long đong cũng an nhàn, trăm năm tâm sự về bình đạm. Mài mòn ngạo nghễ chỉ có rượu, rửa sạch hùng tâm say chưa đủ."
Chỉ vài chữ ngắn ngủi đã nói hết tâm tình của Hồ Tôn Hiến, có thể nhìn ra vị đại soái từng nắm quyền nửa giang sơn này sau khi về cố hương, hi vọng có thể quên đi mọi thứ trước kia, sống cuộc đời bình đạm, nhưng hùng tâm cùng sự kiêu hánh của hắn sao chịu nổi sự chênh lệch lớn như tế? Đành dựa vào rượu mê muội bản thân sống qua ngày.
Chuyển bài thơ của Hồ Tôn Hiến cho đám Dư Dần xem, ai nấy đều bùi ngùi, Vương Dần nói:
- Với Mặc Lâm công, vận mệnh thật tàn khốc, nửa đời trước sĩ độ gập ghềnh, khi chính thức nở mày nở mặt đã trên 40. Cho nên khát vọng quyền thế, thành công hơn hẳn đại nhân.
- Nói ta làm gì?
Thẩm Mặc lắc đầu:
- Mười năm trước lần đầu gặp đại soái, ông ấy mới là tuần án thất phẩm, mười năm gian khổ vừa làm ra chút sự nghiệp đã bị người ta tước đoạt hết... Chuyển biến quá nhanh.
Vương Dần hỏi:
- Nếu là đại nhân, ngài có bình thản tiếp nhận được không? Hay cũng như đại soái lấy rượu sống qua ngày.
Thẩm Mặc nhìn rặng núi trùng điệp xa xa:
- Có lẽ ngày nào đó ta mới trả lời tiên sinh được. Nhưng trước khi đạt được mục tiêu, thế nào ta cũng không từ bỏ.
Ánh mắt Vương Dần trở nên phức tạp:
- Nhưng vận mệnh đại nhân luôn nắm trong tay kẻ mạnh.
Thẩm Mặc hiểu ý ông ta:
- Ta đúng là không thể hoàn toàn nắm được vận mệnh của mình.
Vương Dân vái y một cái:
- Bất kể đại nhân muốn làm sự nghiệp kỳ vĩ gì, xin hãy nắm vững vận mệnh của mình trước. Nếu không xin đừng làm những chuyện nguy hiểm.
- Xin tiên sinh chỉ bảo.
Thẩm Mặc biết ông ta nói tới bố cục của y ở đông nam, chuyện đó đương nhiên mang nguy hiểm không nhỏ, nhưng khi đó ở đông nam y nhất ngôn cửu đỉnh, quan lớn trong triều không chú ý, thời cơ quá tốt, Thẩm Mặc không khống chế được bản thân.
Vương Dần nhìn thấy tất cả, lòng như lửa đốt, có điều Thẩm Mặc là tên đã lên giây, không thể không bắn. Tới Huy Châu, mượn cớ Hồ Tôn Hiến, ông ta mới nói ra, nếu câu trả lời của Thẩm Mặc không làm ông ta hài lòng, ông ta sẽ xuống thuyền về nhà.
Nhưng sự khiêm tốn của Thẩm Mặc làm ông ta thấy có thể dạy bảo được. Đệ nhất mưu sĩ của Hồ Tôn Hiến lần đầu thể hiện phong thái của mình:
- Đương kim không còn bao lâu nữa, tân chủ chỉ đợi ngày đăng cơ, lúc giao thời cũ mới, phong vân biến áo, tất cả sau máu đấu đá, tất cả cái gọi là thể diện, tư cách đều vứt bỏ hết, chỉ có ngươi sống ta chết, thắng làm vua thua làm giặc.
Trên thuyền không có người ngoài, giọng ông ta trầm hùng:
- Đại nhân đã chuẩn bị xong chưa?
Thường ngày Vương Dần ung dung nhàn nhã, không xen vào chính vụ, không chỉ chỏ bảo Thẩm Mặc làm gì, lúc này thể hiện sự ngạo nghễ của mình, không hề khách khí nói:
- Đại nhân phải quên đi uy quyền hô phong hoán vũ một tay che trời ở đông nam, trong các phe thế lực ở kinh thành, ai cũng hơn ngài.
Thẩm Mặc gật đầu, Vương Dần nói đúng, về kinh, y chỉ là thị lang mà thôi, còn có mười mấy vị quan chức lớn hơn y.
Vương Dần bình tĩnh phân tích thế cục:
- Bệnh quân đa nghi, thái tử tâm tư khó lường, quyền thần ngang ngược, đám tiểu nhân rình rập ở bên. Càng bất lợi là đại nhân rời kinh lâu ngày, lòng người nguội lạnh, hiển nhiên trong thế yếu mà bị động.
- Phân tích của tiên sinh ta hoàn toàn tán đồng, vậy phải đố diện thế nào.
Y biết Vương Dần thường ngày không nổi bậ, nhưng nắm vững đại cục, luôn đứng cao nhìn xuống, không bao giờ lún vào vũng lầy.
- Đây là già phút tranh hùng, không nên tùy tiện ra mặt gây chuyện thị phi.
Vương Dần lời lẽ kiên định:
- Phải chú ý thu mình lại, ẩn nhẫn đợi thời. Ta có mười sáu chữ tặng đại nhân, xin hãy nghe kỹ.
- Vâng, xin tiên sinh chỉ bảo.
Thẩm Mặc cung kính nói.
- Không gần nhị long, không gia nhập đảng, không gây thị phi, không tranh nhất thời.
Thẩm Minh Thần không nhịn được phì cười:
- Thập Nhạc công nói thẳng là rút đầu làm rùa cho xong.
- Làm rùa rụt đầu có gì không hay.
Vương Dần thản nhiên nói:
- Sống lâu hơn tất cả, là kẻ thắng lợi cuối cùng. Từ Hoa Đình đã trên 60, Cao Tân Trịnh trên 50. Nhìn khắp toàn triều, quan lớn tứ phẩm thì đại nhân trẻ nhất, đó là vốn lớn nhất của đại nhân. Ngài đợi được, chúng ta đợi được, chỉ cần bảo vệ tốt bản thân, nhất định đợi được tới thời kỳ tốt nhất.
- Bảo ta ẩn nhẫn không khó.
Thẩm Mặc cười:
- Sợ là có kẻ không bỏ qua.
- Đại nhân đã thể hiện thực lực của mình rồi.
Vương Dần nói tới đòn đánh trả của y với Bắc Kinh khi ở Cống nam:
- Không cần lo bị coi là kẻ yếu. Kỳ thực có hình mẫu ngay trước mặt mà ngài có thể học.
- Ai?
- Vương Bác, người này công tích trác tuyệt, quan hệ trải rộng, dù Từ Giai và Cao Củng cung không dám đụng chạm, sợ đẩy ông ta sang phe đối phương. Nếu có kẻ muốn gây bất lợi là ông ta đánh trả không dung thứ, nhân vật như vậy không ai dạm đụng vào, cũng không muốn đụng vào... Luận thực lực, thế lực, ông ta đều thuộc hàng kiệt xuất trong triều, nhưng ông ta không hề có hành động gì, không phải là cam nguyện sống bình đạm, mà là thời cơ chưa tới.
Thẩm Mặc cảm khái:
- Năm xưa Nghiêm Đông Lâu luận kỳ tài thiên hạ, cho rằng chỉ có hắn, Lục thái bảo và Dương Bác được coi là anh hùng, chớp mắt chỉ còn lại ông ta.
- Nghiêm Thế Phiên dù nhân phẩm thấp kém, tham lam háo sắc, nhưng ít nhất không nhìn nhầm Dương Bắc. Đại nhân xem lại mấy chục năm sóng gió của ông ta, tin rằng sẽ thu được lợi ích.
- Ta hiểu rồi.
Thẩm Mặc ngầm nhắc nhở mình, Đại Minh ngọa hổ tàng long, không thể đắc ý coi thường anh hùng thiên hạ.
Về sau sự thực chứng minh, đòn cảnh tỉnh này của Vương Dần rất đúng lúc, Thẩm Mặc mới không ngã ngựa trong thời điểm bước ngoặt lịch sử đó.
~~~~~~~~~~~~~~~
Cuối thu, qua một tháng hành trình, Thẩm Mặc tới điểm cuối Đại Vận Hà, thành Thông Châu, đã sắp về tới nhà rồi.
Nhưng chưa kịp thở phào đã phát hiện ra Đại Vậ Hà xích sắt chắn ngang sông, thủy môn đóng chặt, trạng thái như đối diện với đại địch. Hiện đang mùa gạo chuyển tới kinh, không ít thương thuyền bị chắn ngoài thành, mặt sông rộng lớn không ngờ xuất hiện cảnh tượng ách tắc không thể tiến lui.
Hồ Dũng vội tới thuyền khác nghe ngóng, không bao lâu về báo cáo:
- Đại nhân, Thát Đát xâm phạm, Thông Châu giới nghiêm rồi.
- Thế à?
Thẩm Mặc thái độ dửng dưng, chuyện này nhiều tới nhàm rồi.
- Không thể chặn chúng ta ở đây chứ, Thát Đát chả nhẽ có thể đánh tới từ đường thủy.
Thẩm Minh Thần lên tiếng.
- Tình hình chưa rõ, đừng nóng ruột.
Dư Dần nói nhỏ:
- Đại nhân, chúng ta mới về cứ ngồi xem tình thế biến hóa đã.
Thẩm Mặc một mặt lệnh thủ hạ đi nghe ngóng, một mặt nấp ở chỗ bí mật an toàn, đợi giới nghiêm giải trừ.
Tới chập tối, Chu Thập Tam tìm tới, hai năm không gặp, hai người thân thiết hàn huyên xong, Thẩm Mặc hỏi tới chiến sự.
Chu Thập Tam thở dài:
- Lần này Hoàng Thai Cát, Đóa Nhan Bộ của Liêu Đông câu kết với nhau xâm phạm. Tổng đốc Kế Liêu là Lưu Đào phát hiện ra cấp báo cho triều đình, kinh sư giới nghiêm, các phủ huyện cũng đóng cửa đề phòng.
- Triều đình có đối sách gì?
- Nội các đã sai tổng đốc Tuyên Đại suất binh cứu viện, triệu tập đại thần nghị luận. Hoàng thượng lệnh kinh doanh trải khắp trong ngoài thành.
Chu Thập Nam đối đáp lưu loát mạch lạc, có thể thấy mấy năm qua hắn cũng trưởng thành không ít.
~~~~~~~~~~~~~~~
Lúc này thành Bắc Kinh đang bao phủ trong không khí bất an.
Tới ngay cả Gia Tĩnh đễ đang bệnh cũng bị kinh động, gọi Từ Giai vào hỏi:
- Trẫm thấy ánh lửa cách kinh thành không xa, sao các tướng không ra chặn đánh. Ài, cứ dăm ba năm lại một hồi thế này, trẫm mặt mũi nào đi găp tổ tông nữa.
Từ Giai xấu hổ lắm, lòng thầm hận tổng đốc Tuyên Đại vô dụng, còn Lưu Đào quan hệ với ông ta không tệ, nên nghĩ cách bảo vệ:
- Xảy ra sơ xuất này là do chúng thần vô dụng, làm kinh động bệ hạ, xin người trách phạt.
- Tính sổ là chuyện sau này, cứ đuổi Thát Đát đi rồi hẵng tính.
Gia Tĩnh đế tinh thần phấn chấn, trông sức khỏe tốt hơn trước nhiều, nhưng ánh hồng không bình thường trên mặt làm người ta không khỏi lo lắng.
- Vâng.
Từ Giai biết hôm nay hoàng thượng sẽ chấn vấn nên chuẩn bị kỹ càng rồi, chậm rãi nói:
- Binh bộ đã hạ lệnh truy quét giặc, đồng thời nghiêm thủ châu huyện, phân tán lương thảo, bảo vệ lăng tẩm. Xin hoàng thượng yên tâm, Lưu Đào đã lĩnh binh tới Thông Châu nghênh địch, chỉ cần đại quân tới, Thát Lỗ ắt bại.
Gia Tĩnh đế đột nhiên nổi giận:
- Tên Lưu Đào này làm ăn kiểu gì thế, trẫm nhất định phải giết hắn.
- Lâm trận đổi tướng đã không kịp nữa rồi.
Từ Giai kinh hãi, đánh liều nói:
- Lưu Đào cũng có tài, không thiếu hùng tâm lập nghiệp vì triều đình. Lần này để xảy ra sơ xuất, chắc vì thời gian nhậm chức còn ngắn, chưa rõ tình hình. Mong hoàng thượng cho cơ hội lập công chuộc tội.
Gia Tĩnh thở dài:
- Đánh vậy thôi.
Từ Giai thầm thở phào.
Nhưng không phải phải ai cũng chịu tha thứ, trong thiêm áp phòng lại bộ thượng thư, Cao Củng đùng đùng nổi giận nói:
- Chuyện này là sao? Kế trấn gần 10 vạn đại quân, lại có Trường Thành hiểm yếu, sao để Mông Cổ xâm phạm được?
Quách Phác ánh mắt vô cùng ác liệt:
- Chẳng phải do họ Từ diệt người khác phái, nhất định muốn cánh cửa kinh sư phải là người của mình thì đâu ra kiếp nạn ngày nay.
- Hành vi kẻ này có khác gì Nghiêm đảng?
Quách Phác gật đầu:
- Thật làm người ta quá thất vọng.
Quan điểm giống như bọn họ ở trong kinh không ít. Kỳ thực cách nhìn này có chút bất công, lúc đó tổng đốc Kế Liêu là môn nhân Nghiêm Thế Phiên, thử hỏi triều đình sao an tâm cho người như thế trấn thủ cánh cửa kinh sư?
Mặc dù hai năm qua Từ Giai chuyên quyền độc đoán, dùng không ít thân tín. Nhưng ở chuyện này oan uổng cho ông ta rồi. Từ các lão sao có thể không biết nặng nhẹ đem vị trí trọng yếu nhất thiên hạ đi tặng ân tình được?
Lưu Đào là nho tướng hiếm có của triều đình, thông thao lược, giỏi xạ kỵ, văn võ toàn tài, Từ Giai phái ông ta tới tóa trấn Kế Liêu là coi trọng nơi này chứ không phải là thích dùng người thân.
Lưu Đào nhậm chức rồi cẩn trọng làm việc, nhưng khi xui xẻo thì uống nước cũng giắt răng. Thủ hạ của ông ta phụ trách Lĩnh Tứ khẩu bị Tiêu Cần dụ dỗ thành giáo đồ cuồng nhiệt của Bạch Liên, kết quả đem vùng mình phụ trách dâng lên làm công đầu tặng cho Tiêu giáo chủ.
Có cơ hội đương nhiên người Mông Cổ không khách khí, lập tức tập trung lực lượng thẳng tiến. Bọn chúng biết Thông Châu là kho lương của kinh sư, phòng bị lại kém xa kinh thành, nên nhào bổ vào đó.
Lưu Đào biết chuyện gay to rồi, một mặt điều động bộ đội bao vây, một mặt suất lĩnh binh mã bản bộ truy kích.
Nhưng người Mông Cổ toàn kỵ binh, tới lui như gió, dù Lưu Đào suất lĩnh khinh kỵ chất lượng tốt nhất Đại Minh cũng chỉ có thể ở sau hít bụi.
Có điều Lưu Đào phán đoán chuẩn xác mục đích của Mông Cổ là Thông Châu, gửi bồ câu đưa thư cảnh báo trước, khi Thẩm Mặc tới Thông Châu đúng lúc nhận đư thư đóng cửa thành đón địch, người Mông Cổ thì chưa tới nơi.
Chu Thập Tam phụ trách thăm dò quân tình, thấy tín hiệu liên lạc liền tới gặp mặt. Hắn cho Thẩm Mặc biết một canh giờ trước thám mã của người Mông Cổ đã tới dưới thành, đoán chừng đã đem tình hình về báo cho đại quân rồi.
Nghe xong Thẩm Mặc nhìn ra ngoài, lúc này trời đã tối, chỉ nhìn thấy bóng dáng lờ mờ những chiếc thuyền, cùng ánh đuốc bập bùng.
Thẩm Mặc hỏi:
- Sao không ai bỏ đi, chẳng lẽ không biết người Mông Cổ tới.
- Năm nào người Mông Cổ cũng tới, nhưng chưa bao giờ đến Thông Châu, hẳn là bọn họ xem thường.
Người Mông Cổ xưa nay tới từ phía tây, Thông Châu lại nằm ở phía đông Bắc Kinh, lại có đại quân Kế Liêu trấn thủ phía bắc, cho nên chưa bao giờ phải nghe tiếng cảnh báo giặc tới.
Nhìn những chiếc thuyền còn chưa ý thức được nguy hiểm kia, Thẩm Mặc trầm giọng nói:
- Sáng sớm ngày mai là người Mông Cổ có thể tới nơi rồi, thành Thông Châu có chuẩn bị, bọn chúng không dám đụng vào, nhưng những chiếc thuyền kia thì nguy rồi.
Có hai cách để những chiếc thuyền kia thoát hiểm, một là nhân lúc trời tối mở thủy môn cho bọn họ vào; hai là tổ chức bọn họ rút lui ngay trong đêm. Hiển nhiên cái trước đỡ khó khăn hơn, nguy hiểm nhỏ, có thể chấp nhận.
Nhưng khi Thẩm Mặc sai người đi truyền lời, mời thị lang Vương Quốc Quang trú đóng ở Thông Châu mở thủy môn cho đội thuyền vào thành tránh nguy hiểm, lại bị từ chối, Vương Quốc Quang nói trước khi giải trừ giới nghiêm không mở cửa.
- Cho người Mông Cổ mười lá gan bọn chúng cũng không dám bỏ ngựa lên thuyền đánh vào thủy môn.
Hay tin Thẩm Minh Thần không nhịn nổi:
- Tên Vương Quốc Quang này rõ ràng nhát gan, sợ trách nhiệm.
Thẩm Mặc không nghĩ thế:
- Chức trách của hắn không liên quan tới chuyện này, cẩn thận một chút cũng là bình thường.
Liền hạ lệnh chấp hành phương án thứ hai.
Thẩm Minh Thần vẫn lo lắng:
- Không có chứng cứ gì nói Thát Đát tới, nhưng chiếc thuyền kia ai chịu tin.
- Không cần lo, bọn họ chẳng những tin ta lại còn nghe ta nữa.
- Thật sao?
Thẩm Minh Thần không tin:
- Xem đại nhân có phép thần thông gì.
Thẩm Mặc bảo với Hồ Dũng:
- Lời vừa rồi ta dặn đã nhớ chứa.
- Nhớ rồi, tiểu nhân nhớ kỹ lắm, hồi nhỏ không đọc sách chứ nếu không cũng đã trúng cử nhân rồi.
Hồ Dũng ba hoa.
- Ít nói thôi.
Thẩm Mặc lườm hắn:
- Theo lời ta đi truyền lời từ trong ra ngoài, đợi bọn họ đi rồi mời tới thuyền tiếp theo, thà chậm chứ đừng để loạn.
Hồ Dũng liền dẫn người lên thuyền nhỏ, đi một lúc mới phát hiện ra Thẩm Minh Thần cũng đi theo, hỏi hắn đi làm gì, hắn cười hăng hắc:
- Xem đại nhân làm phép thế nào.
Không đưa hắn về được nữa, Hồ Dùng đành mặc kệ, tới chiếc thuyền thứ nhất gõ chậu đồng.
Người trên thuyền cảnh giác đi xuống, Hồ Dũng chắp tay xong, ngón cái tay phải chỉ lên trời.
- Thiên hà vạn đạo quy nhất tông, thiên hạ tào bang thị đệ huynh, vất vả vất vả rồi.
Người kia vội đáp lễ:
- Vất vả vất vả, thân huynh nhiệt đệ đỡ một tay, có lừa lại có ngựa, vị huynh đệ này có chuyện gì?
Có câu mở miệng nói vất vả nhất định là người giang hồ, cho nên thái độ đối phương trở nên nghiêm túc.
Hồ Dũng hắng giọng nói:
- Đại bàn nhà ta nói, cướp đường tới rồi, mời chư vị tới hoàng đế độ tạm lánh.
Người kia hỏi:
- Xin hỏi là bàn nào? Xuân điển ra sao?
- Chiết hải giang thâm ba lãng lưu, đạt đạo tiêu diêu viễn cận du.
- Thì ra là đại gia ngoài cửa.
Người kia cả kinh, chắp tay nói:
- Lập tức đi ngay.
Thấy thuyền kia lên đường, Hồ Dũng đắc ý nhìn Thẩm Minh Thần:
- Cảm giác thế nào?
Thẩm Minh Thần lắc đầu quầy quậy:
- Chẳng hiểu gì cả.
- Không hiểu là đúng, kỳ thực ta cũng không hiểu, nhưng đại nhân bảo nói thế, đảm bảo không vấn đề gì.
Tới chiếc thuyền tiếp theo truyền lời, quả nhiên cũng ngoan ngoãn tới "hoàng đế độ" quái quỷ gì đó, tới khi trời sắp sáng, cuối cùng toàn bộ đi hết, khi thiết kỵ Mông Cổ tới nơi, thấy trên sông trống không, đâu ra "thương thuyền nhiều như đàn dê"?
Không phải là hoàn toàn không có, có một cái thuyền nhỏ giữa sông, bên trên có một tướng quân mặc khôi giáp vàng sáng loáng nói lớn:
- Cẩu Thát Đát mắc lừa chưa, đại quân chúng ta từ bốn phương tám hương bao vây rồi, Thông Châu là mồ chôn các ngươi.
Nói xong chèo thuyền rời đi, cung tên người Mông Cổ chỉ kịp bắn vuốt đuôi nó.
Người Mông Cổ chẳng kiếm chác được gì, lại nghe quân Minh từ bốn phía tăng viện tới, không dám ở lại, thúc ngựa chạy cho xa, càn quét nông thôn.
Bọn chúng chia ra thành nhiều đội, đồng thời cướp phá các thôn trấn khác nhau, khi quân Minh tới cứu, bọn chúng lập tức tụ lại dùng trọng binh đánh tan quân Minh truy kích mỏi mệt.
Chiến thuật mang tính cơ động cao này khiến quân Minh truy kích cực kỳ khó khăn.
Lưu Đào khốn đốn, quân Minh đối diện kỵ binh Mông Cổ lại không có tường thành bảo hộ, ưu thế binh lực và trang bị không phát huy nổi.
Dưới tình huống bị động đó, điều duy nhất ông ta làm được là từng bước ép Thát Đát rời khỏi kinh sư nơi nhân khẩu đông đúc, giảm tổn thất tới mức thấp nhất.
Bất kể thế nào thì thành Bắc Kinh cũng không có chiến hỏa, mà người Mông Cổ cũng không dừng trong nội địa quá lâu, vừa đánh vừa lui ra ngài Trường Thành. Cho nên hoàng đế ngày ba bận hỏi tới, Từ Giai đem tấu báo của Lưu Đào "Thát Lỗ rút lui", hi vọng làm hoàng đế bớt giận.
Gia Tĩnh xem xong quả nhiên bớt giận không ít, nhưng Từ Giai chẳng thể thở phào.
Theo thông lệ, kinh thành bị người Mông Cổ quấy nhiễu, hoàng đế phải thỉnh tội liệt tổ liệt tông, Gia Tĩnh sức khỏe không tốt, và lại chẳng phải chuyện vẻ vang gì, cho nên sai Cao Củng đi tới thái miếu khấu đầu xin lỗi hộ ông ta.
Cao Củng thay tế phục tới thái miếu ở phía nam Tử Cấm Thành, nhìn cửa cung sập xệ đóng chặt, lại nhìn thái miếu cung phụng liệt tổ liệt tông Đại Minh, nhớ lại hoàng triều năm xưa đánh dẹp thiên hạ, tung hoành thảo nguyên, không ngờ bị bại tướng cũ làm nhục tới độ này.
Nghĩ tới đó Cao Củng không kìm được bi thương, quỳ gối trước thái miếu khóc ròng, cửu khanh đi thỉnh tội cùng chẳng hiểu ra sao. Nhưng lúc này Cao Củng đại biểu cho hoàng đế, bọn họ cùng khóc theo... Tiếng khóc vang vọng trời xanh, ai không biết còn tường hoàng đế băng rồi.
Cao Củng đi ba bước khấu đầu một lần, tới trước đại điện đọc sớ thỉnh tội của hoàng đế, sau đó thiêu trong bồn than, lại khấu đầu tạ tội lần nữa, nếu không phải có thái giám bên cạnh đỡ lấy thì ông ta dập đầu nát gạch mất... Khi được đỡ lên thì trán Cao Củng đã chảy máu tím đen cả mảng.
Mọi người thầm nhủ:" Chẳng trách Cao Túc Khanh hai năm qua quan lộ thuận lợi như thế." Đương nhiên đó chỉ là đám ham quyền mê chức. Ai có đầu óc một chút có thể nhận ra lời không tầm thường trong sớ thỉnh tội vừa rồi, như " nhi thần dùng sai người, bị che tai bịt mắt, làm tổ tông bị sỉ nhục."
Nếu những câu đó xuất phát từ ý hoàng thượng thì Từ các lão nguy rồi, nhưng khả năng Cao Củng bịa ra quá nhỏ, đó là tội khi quân! Cho nên mọi người tin hoàng đế giận thủ phụ rồi, thừa cơ cảnh cáo Từ Giai.
Nhưng đúng không phải là lời hoàng đế thật, khi Gia Tĩnh đế xem bản sao tế văn, tức giận gọi Cao Củng tới, nghiêm khắc chất vấn, vì sao cả gan bịa đặt thánh ý.
Cao Củng chẳng hề sợ hãi đáp:
- Khi thần đưa bệ hạ xem bản nháp, người nói thần tránh nặng tìm nhẹ, hỏi thần sợ đắc tội với ai? Thần nghiêm khắc tuân theo giáo huấn của hoàng thượng, đem lời thật nói ra, không sợ đắc tội với ai cả.
Gia Tĩnh giờ mới nhớ lại đúng thế thật, khi ấy lời Cao Củng quá ôn hòa, đâu phải là chiếu thỉnh tội? Vì thế trách ông ta vài câu, ý tứ là thêm vào vài lời phê bình chẳng ảnh hưởng tới ai, đáng lẽ quan viên xuất thân hàn lâm như ông ta phải lĩnh hội được, ai ngờ cơ sự ra thế này.
Gia Tĩnh đế biết ông ta xưa nay không chịu nổi điều chướng tai gai mắt, thừa cơ chửi đám ăn hại kia, chứ không mang mục đích chính trị gì. Cho nên không làm khó xương sống của Dụ Vương này, vì thế thở dài:
- Ái khanh đừng quá phấn nộ, trị gia khó, trị quốc càng khó, Từ các lão cũng khó, đừng trách ông ta nữa.
Cao Củng nghe thế biết hoàng đế không thiếu Từ Giai được, nghiêm mặt nói:
- Thần không phải giận cái gì, mà vì bọn họ che giấu thánh thượng, coi người là hoàng đế hồ đồ.
- Hả? Nói tường tận nghe coi.
- Thần nghe nói hôm trước Từ các lão bẩm báo với bệ hạ, nói Thát Lỗ đã bị Lưu Đào truy sát khỏi biên cảnh, phải chăng có chuyện này?
Cao Củng hỏi.
Gia Tĩnh gật đầu:
- Đúng là thủ phụ nói thế.
- Thần lại nghe hiện giờ Thát Lỗ ở Bình Cốc? Đám Lưu Đào lại từ Kế Trấn chạy tới Thông Châu. Tựa hồ là tiễn chân chứ đâu phải là truy sát.
Gia Tĩnh đế nghe thế mặt biến đổi liên tục, choàng tỉnh:
- Đúng thế, Lưu Đào lại dám nói là truy sát, định lừa ai đây?
Cao Củng sục sôi căm phẫn nói:
- Hoàng thượng minh xét, nay ngoại binh bốn phương tụ hợp, cấm quân xuất kích, dấy đại binh như thế mà lại như trò chơi đáng cười, còn đâu thiên uy Hoa Hạ?
Gia Tĩnh đế bị Cao Củng khơi lên lửa giận, hừ một tiếng:
- Thể diện của trẫm bị bọn chúng làm mất sạch rồi.
Cao Củng đạt được mục đích liền thôi, thật ra ông ta cũng không muốn đâm lén sau lưng, nhưng không thể nhẫn nhịn được. Vốn khi Nghiêm đảng loạn triều chính đã bị trừ, ông ta hi vọng Từ Giai thay quyền có thể dẹp tà dương chính, mang lại hi vọng chấn hưng Đại Minh.
Nhưng Từ Giai làm ông ta quá thất vọng, khi Nghiêm Tung còn thì ông ta cung kính có thể xem như nhẫn nhịn giữ mình. Nay Nghiêm Tung đã đổ, hoàng đế mang bệnh, mệt mỏi chính sự, là cơ hội để Từ Giai thể hiện hùng tài đại lược.
Song ông ta càng thêm cẩn thận, chỉ mê đắm mỗi chuyện thanh toán Nghiêm đảng, quốc sự chỉ dừng ở chỗ tu bổ, không dám vượt quá giới hạn nửa bước.
Đương nhiên vì triều chính bị Nghiêm đảng làm cho quá thối nát, cho nên Từ các lão với tác phong " trả ân uy cho chủ thượng, trả chính vụ cho các ti, đem khen chê cho công luận" được đại đa số tán thưởng,
Nhưng trong mắt Cao Củng, Từ Giai không khác gì Nghiêm Tung. Thực ra công bằng mà xét, tiếng xấu của Nghiêm Tung đại đa số là do đứa con bảo bối mà ra, bản thân chẳng có tội ác lớn, nhưng thế tức là Nghiêm Tung vô tội?
Theo Cao Củng là ngược lại, thậm chí Nghiêm Tung tội cực ác, thân là thủ phụ mà chỉ làm cảnh là tội lớn nhất, thậm chí là lớn hơn tham ô hối lộ, kết đảng hại nước hại dân.
Chỉ vì vinh hóa phú quý bản thân mà trơ mắt nhìn quốc gia từng bước rơi xuống vực thẳm, cái loại "chiếm nhà xí không chịu ỉa" là hành vi Cao Củng hận nhất.
Đương nhiên Cao Củng cũng thừa nhận Từ Giai hi vọng quốc gia tốt lên, nhưng chỉ giới hạn trong trừ tệ nạn mà thôi, truy cầu lớn nhất là khôi phục pháp độ tổ tiên, chưa từng dám nói tới "cải cách", nói tới "thay đổi", tuyệt đối không dám đụng chạm vào kết cấu chính trị, càng không dám hạn chế hoàng quyền bị lạm dụng vô độ.
Nhân vật như thế thời thịnh thế là tướng quốc hoàn mỹ, nhưng Đại Minh hiện nay các loại mâu thuẫn đã tới mép bờ bùng nổ, hoàng triều đã đối diện với sự tồn vong.
Trong mắt Cao Củng, Từ Giai không quá tệ, nhưng tố chất khí phách, căn bản không nhận được trọng trách xoay chuyển càn khôn.
Cao Củng ngứa mắt với Từ Giai là ở đó, ông ta cho rằng phải đuổi hạng tế tướng chỉ biết viết thanh từ khỏi triều đình, để người có năng lực thượng nhiệm, mạnh mẽ cải cách, mới vãn hồi lại thiên hạ suy đồi.
Đương nhiên người có khí phách đó, nhất định phải là ông ta.
~~~~~~~~~~~~~~~~
Có câu chó cắn áo rách, Lưu Đào đúng là xui hết cỡ, bên kia Cao Cùng vừa cáo trạng một vố, bên này ông ta lại thua trận...
Thát Lỗ chia quân ra cướp bóc, đám tướng lĩnh Tuyên Phủ không nghe ông ta điều khiển, tự dẫn binh tới cứu, không ngờ Thát Lỗ tập kích, làm ba vị tướng lĩnh chiến tử, tổn thất gần nghìn người, là đại bại.
Vì đương sự đã chết hết, chi tiết cụ thể không phân biệt được nữa, chưa nói uy danh Lưu Đào mất sạch, hình tượng trong lòng hoàng đế cũng chuyển biến ngược hẳn lại.
Trung tuần tháng 10, hoàng đế lệnh nội các đình chức Lưu Đào, giao vị trí cho Giang Đông tổng đốc Tuyên Đại. Hai ngày sau, lệnh Cẩm Y vệ bắt Lưu Đào cùng hơn mười bộ hạ tiến kinh, giam Trấn phủ ti nghiêm hình tra khảo.
Ba ngày sau, tổng binh Đại Đồng kháng địch ở Mật Vân, bại trận. Sau đó Thát Lỗ lui dần, cuối tháng 10 Thát Lỗ rời khỏi Trường Thành, kinh sư giải giới nghiêm.
Lần này Thát Lỗ vào nội địa hơn mười ngày, càn quét hơn ngàn dặm, cướp mười mấy huyện, gần trăm thôn trấn, hàng vạn nhà cửa bị thiêu hủy, mười mấy vạn bách tính gặp nạn, tử thương hàng nghìn, tài sản nữ tử bị Thát Lỗ bắt đi không kể hết, là tổn thất thảm nhất mười năm qua.
Thẩm Mặc cuối cùng cũng xuống thuyền, trên đường về kinh, thấy thôn trấn tan hoang, mộ mới mọc khắp nơi, tiền giấy bay khắp nơi, tiếng khóc vang trời, tâm tình cực kỳ nặng nề. Tới khi nhìn thấy thành Bắc Kinh, y mới nỗ lực điều chỉnh tâm tình, xa cách hai năm, y không muốn đem tâm tình này gặp người nhà.
Thành Bắc Kinh lại khôi phục phồn hoa náo nhiệt ngày trước, trên phố Bàn Cờ người qua kẻ lại vẫn chen vai thích cánh, tiếng người rộn ràng. Nhìn từng cửa hiệu quen thuộc, nghe tiếng rao hàng trầm bổng, Thẩm Mặc tưởng chừng như tới nơi hoàn toàn khác, lòng rối loạn.
Y đi liền một mạch hai năm, không biết phải đối diện với vợ con ra sao.
Nhưng tiến vào ngõ Bàn Cờ, huyên náo bên ngoài thoáng cái bị ngăn cách, đất trời chỉ còn lại y và nhà, Thẩm Mặc chỉ mong lập tức gặp được những người thân yêu nhất của mình.
Hộ viện của nhà nghe thấy động tĩnh ra ngoài xem, vì hộ vệ Thẩm Mặc đã thay người mới, hai bên không nhận ra nhau, nên cảnh giác hỏi:
- Quý vị cần gì ạ?
- Quý cái đầu ngươi ấy.
Trong xe vang lên giọng quen thuộc, thấy Thẩm Mặc vén rèm lên:
- Hầu Tam, ngay cả lão gia cũng không nhận ra à?
Hầu Tam là hộ viện lâu năm rồi, nhìn kỹ lại, chẳng phải lão gia thì là ai? A một tiếng, quỳ xuống đất, không hành lễ mà quay đầu lại kêu lớn:
- Mau bẩm báo với các phu nhân, lão gia về rồi.
- Lão gia về rồi, lão gia về rồi.
Tiếng reo hò nối tiếp nhau, làm Thẩm phủ yên tĩnh tức thì trở nên huyên náo.
Thẩm Mặc hít sâu một hơi không khí trong nhà, y đã rời đây 20 tháng, cuối cùng lại nhìn thấy cánh cửa sơn đen quen thuộc, không đợi người nhà ra đó, liền sải bước đi vào trong.
Còn chưa qua tiền viện, hai bóng dáng gầy nhỏ đã lao vụt tới, Thẩm Mặc chưa kịp giang tay ra đón, hai con khỉ nhỏ đã tung mình nhào vào lòng, xô cho y loạng choạng thiếu chút nữa ngã phệt mông xuống đất.
- Giỏi lắm, đã lớn thế này rồi.
Thẩm Mặc cười hóp mắt lại, chẳng phải nhi tử bảo bối của y thì ai? Hai tên tiểu tử đã cao hơn hẳn rồi, nhưng vẫn gầy như khỉ, một đứa ôm lấy cổ y không chịu xuống.
Thẩm Mặc đành mặc chúng treo trên người, mỉm cười với thê tử.
Nhược Hạm mặc bộ váy màu hồng thêu hoa, khuôn mặt bạch ngọc xanh xao đi không ít, nhưng càng trở nên đẹp không gì sánh nổi, nếu chẳng phải đang ôm nữ nhi, thật khó làm người ta tin, nàng đã là mẹ của ba đứa bé rồi.
Nhìn thấy oan gia của mình, núm đồng tiền trên má thoáng hiện qua rồi mất, nhưng gò má bạch ngọc đã thành hồng ngọc.
Nhu Nương đi tới, giúp Thẩm Mặc tách A Cát và Bình Thường ra, nói nhỏ:
- Lão gia đã về.
Thẩm Mặc gật đầu "ừ" một tiếng, nhìn Bình Thường rụt rè đứng bên cạnh, đưa tay xoa đầu nó:
- Xú tiểu tử, để cha bế nào.
Rồi nhấc nó lên, thơm một cái:
- May tiểu nhi tử vẫn còn nhẹ, có nhớ cha không?
Bình Thường gật đầu, nói rất chân thật:
- Ngày nào cũng nhớ.
- Ha ha, ngoan quá.
Thẩm Mặc lại thơm nó cái nữa, rồi ánh mắt bị cô bé trong lòng Nhược Hạm thu hút.
Cô bé trong rất yếu ớt, lại cực kỳ nhút nhát, rúc trong lòng mẹ, mắt chớp chớp tò mò nhìn Thẩm Mặc.
- Bảo Nhi ngoan, để cha bế đi.
Nhu Nương đón lấy Bình Thường, dỗ cô bé:
- Đó là cha mà con hay tìm đấy.
Thẩm Mặc đưa hai tay ra, Nhược Hạm liền đưa nó cho y cẩn thận ôm vào lòng, trái tim mềm ra, đó là cảm giác mà ba đứa nhi tử chưa từng mang lại cho y. Thẩm Mặc thấy bao u ám, uất ức, phẫn nộ, những cảm xúc xấu bị tiểu thiên sứ xua tan sạch sẽ, chỉ còn lại nhu tình và ấm áp.
"Thật là thần kỳ..." Y đang hưởng thụ thì nghe Bảo Nhi òa khóc, tiểu nha đầu tròn một tuổi đã biết nhận ra người khác, chưa bao giờ bị người lạ ôm lấy, ban đầu chưa sao, đợi nó nhận ra, liền vùng vẫy khóc lên.
Thẩm Mặc vội dùng mười tám ban võ nghệ ra dỗ, Bảo Nhi càng khóc tợn hơn, khóc nấc lên, đôi chân mũm mĩm đạp liên hồi...
- Khó tính quá nhỉ.
Thẩm Mặc ngượng ngùng giao nữ nhi cho Nhược Hạm.
- Nữ nhi cũng không nhận ra chàng nữa.
Nhược Hạm lườm y một cái đón lấy con, thật là kỳ diệu, Bảo Nhi vừa vào vòng tay nàng, tức thì yên tĩnh lại, khuôn mặt nhỏ ép chặp vào lòng mẹ, lại tò mò nhìn Thẩm Mặc như chưa có gì xảy ra.
- Bảo Nhi mau mau gọi ba ba đi, đó là ba ba xấu của con đấy.
U oán trên mặt Nhược Hạm mau chóng bị nhu tình thay thế, nắm bàn tay nhỏ của nữ nhi:
- Gọi ba ba xấu.
- Sợ sợ..
Bảo Nhi mút ngón tay, lúng búng nói.
Thẩm Mặc đầu tiền là buồn bã nghĩ:" Mình đáng sợ vậy à?" Chớp mắt hiểu ra ngay, thì ra là gọi ba ba, hơn nữa còn cắt bỏ phần xấu đi, xem ra khuê nữ còn hướng về mình... Nhưng y không nghĩ thử xem, khuê nữ y còn chưa nói được từ phức tạp. Thẩm Mặc cười ngây ngốc, giọng lấy lòng:
- Gọi mấy tiếng nữa.
(phạ = sợ, phát âm gần giống ba ba)
- Sợ sợ.. Sợ sợ...
Trong sân vang lên tiếng gọi hàm hồ của cô bé, cùng tiếng cười của Thẩm Mặc.
~~~~~~~~~~~~
Cả nhà ăn cơm xong, Nhu Nương dẫn ba đứa bé trai đi ngủ trưa, Nhược Hạm bế Bảo Nhi về nhà chính, Thẩm Mặc lật đật theo sau, làm mặt xấu dỗ khuê nữ.
Bảo Nhi ban đầu cười khanh khách, ai ngờ y vừa vào phòng ngủ, nó liền khóc toáng lên, hiển nhiên không hoan nghênh "khách không mời" này.
Bị khê nữ xa lạ Thẩm Mặc xấu hổ lắm, thầm nghĩ:"May mà ta còn có tuyệt chiêu." Liền sai người mang rương gỗ ở gian ngoài vào, lấy ra một cái hũ sứ bọc kín, mở nút xi ra, bên trong thấy bột màu nâu.
Thẩm Mặc lấy chén trà trên bàn, thấy hơi nhỏ, liền bỏ luôn nắp ấm trà ra, múc hai thìa bột nâu cho vào.
Nhược Hạm bế khuê nữ đứng ở bên, Bảo Nhi mở to mắt tò mò, không biết vị "thúc thúc" này muốn làm gì.
Thẩm Mặc rót nước sôi vào ấm, khuấy nhẹ nhẹ. Thấy thứ trong ấm trà đã tan ra, Nhược Hạm hỏi:
- Có uống được không?
- Đương nhiên là được.
Thẩm Mặc cười rót thứ bên trong ra chén:
- Không tin nàng thử xem.
Nhược Hạm hít hít, nửa tin nửa ngờ cầm chén trà lên nhấp một ngụm, cám thấy hương vị chưa bao giờ nếm trải qua, làm lòng nàng ấm áp, rất thỏa mãn... Cảm giác tựa như lần đầu mới yêu.
- Mùi vị thế nào? Hương thuần không?
Thẩm Mặc hớn hở hỏi.
Nhược Hạm gật đầu, cho Bảo Nhi đang sốt ruột đợi bên cạnh một ngụm nhỏ, tức thì lấy lòng của cô bé con, Bảo Nhi chóp chép không ngừng, chớp mắt đã uống hết cả chén, còn liếm quanh miệng một vòng, mắt long lanh nhìn mẹ:
- Muốn, muốn nữa.
- Mẹ không có, phải xin ba ba.
Nhược Hạm lắc đầu.
- Gọi ba ba đi mới cho.
Thẩm Mặc cười như con hồ ly già.
- Sợ sợ...
Bảo Nhi rất dễ thương lượng.
- Để ba ba bế nào.
Thẩm Mặc đưa tay ra bế nó, thơm lên gò má non mềm của khuê nữ, Bảo Nhi bị râu của y đâm phải, mếu máo định khóc, cha nó uy hiếp ngay:
- Khóc là không cho.
Tên gia hỏa này ở ngoài uy hiếp dụ dỗ quen rồi, không ngờ mang ra dùng với khuê nữ.
Bảo Nhi không chịu, chân tay quẫy đạp khóc thét lên, khiến Thẩm Mặc vừa xin lỗi vừa làm mặt xấu, lại dâng ca cao lên, dốc hết chiêu số hầu hạ tiểu tổ tông, Bảo Nhi mới dần ngừng khóc uống ca cao, thỏa mãn chùi miệng lên y phục của y, rồi mơ mang thiếp đi.
Nhược Hạm đứng bên cạnh nhìn, thấy vẻ luống cuống sợ hãi của trượng phu với nữ nhi, trong lòng trào dâng hạnh phúc lâu chưa từng có.
Thẩm Mặc nhè nhẹ đặt nữ nhi vào nôi, đắp chăn cho nó, lúc này mới rảnh nhìn nó. Cô bé con đã nhắm mắt lại, nhưng tựa hồ phát hiện ra có người nhìn mình, mơ màng mở mắt ra nhìn, lại mơ màng khép mắt lại.
Mặc dù khuôn mặt nhỏ bị cha nó làm cho lấm lem, nhưng không hề hao dung mạo xinh xắn của Bảo Nhi chút nào, hàng mi dài, cái miệng nhỏ hồng hồn, giống con búp bê sứ đẹp nhất, đẹp tới làm người ta ngạt thở.
Hạ nhân lui hết, trong phòng chỉ còn đôi phu thê xa cách lâu ngày, ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ, buổi trưa đầu đông tràn ngập ôn tình. Nhìn khuôn mặt đáng yêu của nữ nhi, Thẩm Mặc hỏi vợ:
- Lúc còn nhỏ nàng cũng thế này phải phải không?
- Ừ, Lưu ma ma nói khuôn mặt giống nhất, có điều mắt lại giống chàng.
Bảo Nhi gần như kế thừa toàn bộ ưu điểm hai người, mười mấy năm sau, không biết bao nhiêu vương tôn công tử sẽ phải tương tư đứt ruột.
Thẩm Mặc đột nhiên hỏi:
- Nhược Hạm, Bảo Nhi luôn bú sữa của nàng phải không?
Nhược Hạm mặt đỏ lên, nhưng thấy phải để oan gia này biết mình sống chẳng dễ dàng, liền nói:
- Bảo Nhi vừa sinh ra cơ thể đã yếu, đại phu nói tốt nhất là tự nuôi, nên không tìm nhũ mẫu.
- Chẳng trách.
Giọng Thẩm Mặc lập tức trở nên quai quái.
- Chẳng trách cái gì?
Thấy mắt y hấp háy nhìn minh, Nhược Hạm bỗng hoảng loạn, người ta nói tiểu biệt thắng tân hôn, bọn họ đã hai năm không gặp nhau.
Thẩm Mặc đưa tay ra minh họa, giọng khàn khàn:
- Chỗ này rõ ràng to hơn.
- Đáng ghét.
Nhược Hạm mặt đỏ dừ, nhưng lại ưỡn ngực lên, khoe đường cong ngạo nghễ trước mặt trượng phu.
- Nương tử, ta cũng muốn nếm thử.
Thẩm Mặc nuốt nước bọt.
- Không cho.
Nhược Hạm ôm ngực, tư thế dụ hoặc vô cùng, nàng khẽ cắn môi hồng, mắt lim dim:
- Còn chưa tối mà.
- Mặc kệ.
Thẩm Mặc nhào tới, bế thê tử lên, đi qua rèm châu, tới chiếc giường lớn gian trong.
Mây tan mưa tạnh, sau một phen triền miên, Nhược Hạm tóc tai rối loạn lười nhác dựa vào trượng phu, ngón tay thon thon khấy vòng trên ngực y, oán trách một cách ngây thơ:
- Chàng thật nhẫn tâm, đi liền hai năm, bỏ mặc thiếp và con.
Thẩm Mặc nắm lấy tay còn lại của nàng, đưa lên miệng thơm, áy náy nói:
- Làm quan đâu được tự do, ta đương nhiên muốn đi đâu cũng mang nàng theo, nhưng triều đình không cho, phải tách chúng ta ra mới yên tâm.
- Khi nào chàng mới rảnh được.
Nhược Hạm thỏ thẻ:
- Chúng ta sống như những nhà bình thường.
Cả hai đều thông minh, thời gian đã làm lành vết thương xưa, không cần khơi nó lên nữa.
Thẩm Mặc nghe ra ý ngầm của nàng, Nhược Hạm cuối cùng đã nhượng bộ rồi, không còn yêu cầu đãi ngộ mà người ngoài thấy là không thực tế nữa. Y lại không nghĩ thế, nói:
- Ta nói hai năm qua ở ngoài, ta không đụng vào bất kỳ nữ nhân nào, nàng có tin không?
- Ban đầu không tin.
Nhược Hạm người vẫn còn mềm nhũn, khó khăn mới đưa tay xuống, nắm lấy thứ vẫn cứng như đá kia, ánh mắt đầy mật ngọt:
- Giờ thì tin rồi.
Thẩm Mặc cười đắc ý:
- Ngày mai ta vào cung giao công văn, trước năm mới ta ở nhà nghỉ ngơi.
Nói rồi siết chặt tay, hai tấm thân dán chặt vào nhau:
- Trả hết nợ lẫn lãi cho nàng trong hai năm qua.
Nghe trượng phu nói ở nhà lâu như thế, Nhược Hạm vui mừng, không chú ý tới lời xấu hổ của y, hỏi tới:
- Thật không?
- Đương nhiên.
Thẩm Mặc cười tủm tỉm:
- Ta về nhà dưỡng bệnh mà, tất nhiên phải có dáng vẻ dưỡng bệnh.
- Phì phì, nói bậy.
Nhược Hạm bịt miệng y lại:
- Còn trẻ như thế, nguyền mình bị bệnh gì chứ.
- Nương tử không biết rồi.
Thẩm Mặc thơm tay nàng, cười khì khì:
- Ta bị bệnh tương tư, chỉ nương tử chữa được..
Nói rồi xoay người đè nàng xuống:
- Nương tử cứu mạng.
Nhược Hạm chủ động vươn tay ra, ôm chặt lấy y, đón nhận đợt công kích dồn dập của trượng phu, trên đỉnh khoải lạc, nàng vứt bỏ hết khúc mắc, lòng bình an chưa từng có.
****
Chú Thẩm qua ải nhẹ nhàng quá, hơi thất vọng..