- Biểu hiện của Nặc Nhan Đạt Lạp ngươi cũng thấy đấy, mặc dù hắn hơi hèn nhát, nhưng là đại biểu cho tâm tính của người thảo nguyên. Họ là một dân tộc thờ phụng thực lực, nếu muốn khiến họ an tâm nghe lời ngươi an bài thì phải đánh cho họ phục trước.
Trong noãn thính, Thẩm Mặc nói cho Vương Sùng Cổ kế sách bình Mông của mình:
- Nhưng chỉ dựa vào vũ lực là không được, không thay đổi cách sống của người thảo nguyên, họ vẫn khó có thể khống chế, không thay đổi diện mạo bần cùng của họ, họ vẫn sẽ bí quá hoá liều, sa vào cường đạo, cho nên ta chuẩn bị hai dạng lễ vật khác tặng cho họ.
- Đại nhân nắm bắt rất sát vấn đề, nhưng không biết là hai dạng pháp bảo nào đây? - Vương Sùng Cổ hiếu kỳ hỏi.
- Một trong số đó, chính là mục đích mà các thương nhân tài trợ Phục Sóc.- Thẩm Mặc cười nói.
- Ngài nói là... lông cừu? - Vương Sùng Cổ sáng mắt ra.
- Không sai, chính là lông cừu.- Thẩm Mặc vuốt vê tấm thảm ngồi bằng lông cừu trong tay: - Đây là một thứ tốt, dùng để kéo tơ dệt ra đồ len dạ, nó có thị trường trong ngoài nước rất rộng. Mấy năm trước, không ít hương thân địa chủ phía nam thấy được điểm này nên đã thử làm chuồng nuôi cừu, nhưng đất lành cũng không phải cái gì cũng nuôi được. Cừu không quen khí hậu ở phía nam, chất lượng và sản lượng lông rất kém. Vì thế nên thôi.
Rồi y thản nhiên cười nói:
- Lúc trước ta bảo người nhắn với hắn, lẽ nào các ngươi không biết cố sự "Nam quất bắc chỉ" sao? cũng một đạo lý, cừu không thích hợp nuôi ở phía nam, nước ta đất rộng của nhiều, lẽ nào tìm không được nơi thích hợp để nuôi cừu?
- Sau đó khi họ nghe ngóng được, thì ra thảo nguyên tây bắc bất kể là khí hậu hay là thủy thổ đều rất thích hợp để chăn nuôi cừu. Huống hồ ở đây khí hậu lạnh cũng có thể nâng cao chất lượng xén lông cừu.
Thẩm Mặc thảnh thơi cười nói:
- Lúc này, các Tấn thương bỏ chủ ý tới ngành tơ dệt, bông vải, cũng bắt đầu tiến công vào ngành dệt len. Thế là song phương ăn nhịp với nhau, quyết định phương bắc bỏ tiền bỏ người, phía nam xuất kỹ thuật. Song phương hợp tác khai phá Hà Sóc, cho nên mới sẽ giựt giây khai chiến, chủ động cho triều đình vay tiền chiến tranh.
Y nói nghe thì đơn giản, kỳ thật ngẫm lại đủ biết phía sau chuyện này còn không biết có bao nhiêu báo giấy tuyên truyền oanh tạc, nhiều lần đại biểu đàm phán bàn bạc nữa.
Nhưng bất kể thế nào thì thương nhân xuất tiền, triều đình xuất binh đã trở thành sự thật rồi, ai cũng không thể đổi ý, chỉ có thể một đường đi đến cùng thôi.
- Nói đến nuôi cừu tự nhiên không có mục dân nào tốt hơn người Mông Cổ, cho nên sau khi khống chế Hà Sóc sẽ do Tấn thương phụ trách thuyết phục các bộ lạc Mông Cổ nuôi thả cừu trên diện tích lớn, mùa xuân cung cấp lương thực, công cụ cùng với vật tư sinh hoạt cần thiết cho họ. Đợi đến mùa hè thì sẽ lấy giá cả hợp lý thu mua lông cừu. Cứ như vậy sẽ giải quyết được vấn đề nguyên liệu của ngành dệt len. Thứ hai, có thể giải quyết vấn đề sinh kế cho người Mông Cổ, khiến họ có thể chuyên tâm chăn thả, không còn dựa vào cướp bóc mà sống nữa. Thứ ba sẽ khiến người Mông Cổ trên kinh tế phải dựa vào Đại Minh mà sống. Thật ra nó đều đáng tin hơn bất cứ loại quan hệ nào. Hơn nữa song phương theo như nhu cầu, đều có thể có lợi, hợp tác mới có thể lâu dài." - Thẩm Mặc ngồi trên kháng nói.
- Như vậy thậm chí có thể thay đổi phương thức sinh tồn của họ.- Vương Sùng Cổ sáng mắt lên: - Làm cho họ trở thành một bộ phận của kinh tế Đại Minh! Đến lúc đó cho dù vương công Mông Cổ muốn gây chuyện cũng chưa hẳn có nhiều mục dân đồng ý theo.
- Ai nói không phải đâu.- Thẩm Mặc gật đầu cười nói: - Hơn nữa nguồn lao động của ngành dệt len cần nhiều hơn so với nông nghiệp, có thể giúp Vương tổng đốc giải quyết vấn đề lưu dân làm phức tạp Cam Thiểm đã lâu.
- Xem ra chuyện này thuộc hạ còn phải ra sức ủng hộ rồi.- Vương Sùng Cổ chợt cao hứng nói.
Cái gọi là lưu dân, chính là bởi thổ địa sát nhập mà mất đi sản nghiệp, nông dân phá sản xa rời quê hương. Vấn đề sinh tồn của những người này đã thành nguy cơ, sức ăn mòn và thiệt hại của nó đối với sự thống trị trật tự của phong kiến khó mà tưởng tượng. Nói tổng thể thì nông dân Trung Quốc khá cần cù, nhưng nhát gan sợ phiền phức, lực nhẫn nại rất mạnh, nếu như không đến tình cảnh sơn cùng thủy tận, cùng đường bí lối, họ kiên quyết sẽ không chó cùng rứt giậu. Cho nên sự xuất hiện của rất nhiều lưu dân thường thường ý nghĩa vương triều này đã đến hồi chuông cảnh báo rồi.
Chu Nguyên Chương, lưu dân xuất hiện tại Nguyên mạt có nhận thức sâu sắc đối với việc này, cho nên sau khi ông ta thành lập bản triều từng tam lệnh ngũ thân rằng: 'Người làm ruộng sẽ theo số nam đinh mà phát ruộng đất. Để người ngheo cũng có tài sản, người giàu không được thôn tính. Nếu như kẻ thôn tính nhiều làm của mình khiến bần dân không có đất thì nghiêm trị không tha. ' Đồng thời hạn lệnh vương công các đại thần, sơn trường thuỷ bộ điền địa của họ cũng phải cấp phát theo quy định, không được quá phận chiếm làm của mình. Thậm chí còn làm thiết bảng cửu điều thân giới công hầu, nghiêm cấm công thần cùng công hầu ỷ thế chiếm đoạt ruộng đất của quan dân.
Vì ngăn cản lưu dân sinh sôi tại Đại Minh, để nông dân an tâm trồng trọt, Chu Nguyên Chương còn chế định "chế độ lộ dẫn". Cái gọi là "Lộ dẫn" chính là giấy thông hành, cần phải xin của quan phủ địa phương. Không có lộ dẫn thì sẽ không thể tùy tiện rời bỏ ruộng đất, như vậy đã quản chế việc đi lại của nông dân trong vòng 100 dặm.
Nhưng mà sự tình lại bị phá hủy ở trong tay ông ta. Sự thương yêu của Chu Nguyên Chương đối với đám con cháu đã tạo nên số lượng tôn thất kinh khủng nhất trên đời. Đời sau của đám tôn thất này trên chính trị không thể xuất đầu, cũng chỉ có thể theo đuổi hưởng thụ xa xỉ, liền lợi dụng đặc quyền đối với bách tính và quan phủ địa phương, trắng trợn thôn tính ruộng đất. Tôn thất chiếm đoạt đất đai, tầng lớp đặc quyền khác tự nhiên đều làm theo, văn võ huân quý, ngoại thích thái giám, thân hào quan lại, không ai nhường ai chiếm đoạt của bách tính. Kết quả của nó là... Căn cứ vào Ngư Lân sách (một loại sách đăng ký ruộng đất) của năm Hồng Vũ thứ 26, tổng số ruộng đất toàn quốc là trên 850 vạn khoảnh, đến năm Hoằng Trị thứ 15 lại giảm còn 420 vạn khoảnh. Phân nửa bị giảm đi này chính là các tầng lớp đặc quyền thôn tính, cho nên không ở quan sách.
Lần này trước khi đo đạc đất trong phạm vi toàn quốc, Đại Minh đã có 70 năm chưa có đo đạc rồi, mặc dù kết quả vẫn chưa có, nhưng căn cứ vào thuế má thụt lùi, cũng có thể biết tại sách đất đai đã bị giảm đi phân nửa.
Thật ra 850 vạn khoảnh của năm Hồng Vũ thứ 26 là một con số thấp nghiêm trọng, ngoại trừ đại lượng ruộng đất chưa khai khẩn nên chưa được thống kê, còn có đại lượng ruộng đất đã bị tầng lớp đặc quyền giấu đi. Mà hiện tại đã thái bình 200 năm, nhân khẩu tăng mạnh, sông núi đất rừng, khe sâu sườn núi, phàm là nơi có thể khai khẩn đều đã được khai phá. Đất trong danh sách của Đại Minh hoặc là nói ruộng đất trong tay nông dân bình thường lại giảm mạnh đến trình độ này.
Kết quả chính là số lượng lớn trung nông chuyển hóa thành tá điền, bị ép tiếp thu hai tầng bóc lột của địa chủ và quốc gia, năm được mùa còn không chịu nổi gánh nặng, vừa gặp thiên tai thì triệt để phá sản. Khi công việc lao động chân tay vất vả cũng không thể no bụng, còn phải chịu thuế ruộng và cho vay nặng lãi, các tá điền đành phải lưu vong.
Tá điền lưu vong càng nhiều, sưu cao thuế nặng mà trung nông phải gánh vác cũng càng trầm trọng, vì vậy nông dân có ruộng cũng bắt đầu vứt bỏ ruộng trốn đi. Lại bởi vì chế độ lộ dẫn của bản triều, những nông dân lưu vong này đến vùng khác bị quan phủ đuổi bắt, tự nhiên trở thành cái gọi là lưu dân. Loại hiện tượng này xuất hiện khắp nới trên toàn quốc, nhất là Cam Thiểm, Hà Nam, Sơn Tây, các tỉnh phương bắc nghiêm trọng nhất.
Khu vực phòng thủ của Vương Sùng Cổ chủ yếu tại Cam Thiểm. Ở đây đất đai cằn cỗi, sản xuất lạc hậu, thuế má và lao dịch nghiêm trọng, lại còn thêm mấy năm liên tục xảy ra thiên tai, cuộc sống nông dân càng gian khổ hơn các vùng khác. Vùng này vừa Mông, Hán, Hồi, là vùng các dân tộc đấu tranh kịch liệt, các loại mâu thuẫn gay gắt, cho nên hiện tượng lưu dân nghiêm trọng nhất.
Thật ra mấy năm gần đây theo Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ suy thoái, áp lực biên phòng của Đại Minh đã Đông di, chủ yếu tập trung tại vùng Tuyên Đại và kế liêu, mà nhiệm vụ chủ yếu của tây tam biên cũng từ ngăn Mông Cổ xâm lấn trước kia chuyển thành đàn áp các khởi nghĩa nông dân liên tục. Cho nên lần này Phục Sóc tác chiến, Vương Sùng Cổ sau khi chắt bóp ra 4 vạn tinh binh, đã không thể điều thêm binh mã xuất quan nữa, bằng không cảnh nội sẽ xảy ra đại loạn.
Làm sao giải quyết vấn đề lưu dân, đó là nhiệm vụ trọng đại quan hệ đến sự tồn vong của vương triều. Cho tới bây giờ, bao gồm những nhà cải cách trác việt như Cao Củng và Trương Cư Chính cũng chỉ đặt ánh mặt trên việc đả kích thôn tính ruộng đất. Nhưng Thẩm Mặc biết, như vậy hoặc là nhất thời có thể dựa vào cường quyền đạt được đột phá, nhưng kết quả của việc tổn hại nghiêm trọng đến lợi ích của tập đoàn quan thân chính là nhân vong chính tức, thậm chí nhân còn chưa vong, chính đã tức trước rồi.
Chịu hạn chế của thời đại, Cao Củng và Trương Cư Chính không thể cởi ra bế tắc này, nhưng Thẩm Mặc có tri thức siêu việt thời đại, y biết còn có một loại biện pháp đã đạt được hiệu quả có thể dưới điều kiện không tổn hại lợi ích cá nhân lại có thể giải quyết được vấn đề lưu dân.
Then chốt của nó ở chỗ, có thể mở ra một hoặc mấy bộ môn công nghiệp tại quốc nội có năng lực sản xuất và tiềm lực phát triển, cũng có thể đưa vào thị trường quốc tế, chuyển dời sức lao động từ các bộ môn nông nghiệp truyền thống, tự cấp, có giá trị sản lượng theo đầu người rất thấp thành các bộ môn công nghiệp có giá trị sản lượng theo đầu người đề cao trên diện rộng, hoàn thành chuyển biến thu nhập quốc dân từ giảm dần đến tăng lên. Trong quá trình này, giới quyền quý địa chủ sẽ chuyển hóa thành các nhà tư bản công nghiệp, do đó trở thành lực lượng thúc đẩy tiến bộ xã hội, đây chính cái gọi là con đường công nghiệp hoá.
Điều này làm cho Vương Sùng Cổ vẫn khổ vì vô pháp phá cục bỗng có loại cảm giác "Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn", hắn không khỏi hăng hái nói:
- Xem ra công thương nghiệp vẫn là rất quan trọng.
- Nhưng Đại Minh yêu cầu không phải là giá trị trao đổi, mà là năng lực đề cao sản xuất.- Thẩm Mặc nghĩ đến những năm gần đây, phương hướng phát triển của công thương nghiệp Đại Minh, y không khỏi cười khổ nói: - Đề thăng thực lực quốc gia còn quan trọng hơn cả theo đuổi tài phú, đạo lý này mấy người có thể hiểu chứ?
Rồi y phẩy tay nói:
- Lạc đề quá xa rồi, việc này để hôm khác nói tiếp đi.
Vương Sùng Cổ gật đầu nói:
- Đại nhân nói tam quản tề hạ, vũ lực tính một cái, lông dê tính một cái, còn thứ ba là cái gì?
- Thứ ba, chính là tôn giáo.- Thẩm Mặc ánh mắt sâu thẳm nói: - Ta muốn cho tôn giáo thay thế chiến tranh, trở thành công cụ duy trì thống trị quý tộc Mông Cổ, đây cũng là nguyên nhân vì sao ngày hôm nay ta nói nhiều với Nặc Nhan Đạt Lạp vậy.
- Tôn giáo.- Vương Sùng Cổ nhỏ nhẹ nói: - Môn phái nào?
- Đạo Lạt-ma.- Thẩm Mặc nhàn nhạt nói.
- A, thì ra là Phật Giáo Tây Tạng.
Vương Sùng Cổ không xa lạ gì cái này. Giáo này có nguồn gốc tại Tây Tạng, rất phổ biến tại Thanh Hải, nó có tác dụng như phật giáo, tuyên truyền tứ đế ngũ minh, lục đạo luân hồi, coi trọng là tu kiếp sau, cho nên đặc quyền của quý tộc là "thiện báo" được tu hành từ kiếp trước, mà vất vả chịu khổ chịu tội là bởi vì "ác báo" của nghiệp chướng kiếp trước, có thể khiến tín đồ an tâm với hiện trạng, tự nhiên có lợi đối với thống trị quý tộc.
- Nhưng người Mông Cổ không phải là tin đạo Tát Mãn sao? - Vương Sùng Cổ hỏi: - Tín ngưỡng lẽ nào có thể đơn giản thay đổi được?
- Tôn giáo khác không thể, nhưng đạo Tát Mãn có thể, bởi vì nó cũng không tính là một môn tôn giáo. Nó không phải do cá nhân nào đó sáng lập, mà là nương theo sự xuất hiện của bộ lạc nguyên thủy mà sinh ra, đối tượng sùng bái cực kỳ rộng khắp,, động vật thực vật sông núi đều có thể trở thành tín ngưỡng của nó. Không có kinh điển thành văn, không có tổ chức tôn giáo, không có chùa miểu, cũng không có thống nhất, nghi lễ tôn giáo theo quy phạm hoá, càng không có giáo lí. Nó hoàn toàn dựa vào Vu sư của bản bộ lạc khẩu truyền thân thụ theo thời đại, có thể nói tôn giáo của nó lực lượng rất yếu. Hơn nữa bởi vì thần tượng giữa các bộ lạc sùng bái không giống nhau, không những không có lực ngưng tụ, trái lại còn có thể dẫn đến nội loạn vĩnh viễn.
Thẩm Mặc giải thích cho Vương Sùng Cổ:
- Thứ gì đạo Tát Mãn không có, Phật Giáo Tây Tạng đều có, căn bản không phải đối thủ của cái sau. Hơn nữa quan trọng nhất là, kinh nghiệm thành công của đạo Lạt-ma tại đất Tạng cho thấy, bọn họ quả thật có thể hóa đi lệ khí của dân tộc thiểu số, khiến cho sức chiến đấu của họ giảm xuống rất nhanh.
- Ngẫm lại cũng đúng. Bắt đầu từ Tống triều, người Thổ Phiên vẫn không đối địch với Trung Nguyênm trái lại còn chủ động triều cống, bản triều càng như vậy.- Vương Sùng Cổ gật đầu nói: - Sức chiến đấu cũng quả thật giảm mạnh, hơn 10 vạn Tạng dân Thanh Hải bị hơn 1000 tàn binh bại tướng của Ngõa Thích (bộ lạc Oát Diệc Thích) khi dễ. Lẽ nào thật sự có quan hệ tới đạo Lạt-ma sao?
- Đương nhiên không tuyệt đối như vậy, nhưng quả thật quan hệ rất lớn. Ta suy nghĩ, nguyên nhân đại thể có ba. Một chính là vừa mới nói, đạo Lạt-ma tuyên truyền chỉ cầu kiếp sau, khiến tín đồ nhẫn nhục chịu đựng, tính khí hung tàn đã bị tiêu mòn hết bởi thắp hương niệm Phật. Thứ hai, tăng nhân của họ tuần hoàn, 'Nhị bất giới luật', một không tham gia sản xuất lao động, hai không cưới vợ sinh con. Điều này đối với Phiên tộc nhân khẩu vốn đã thưa thớt thì có ý nghĩa nhân khẩu và sức chiến đấu giảm xuống. Thứ ba chính là sau khi chính giáo hợp nhất, người Tạng đã không còn lý do để chiến đấu, trường kỳ bất chiến tất sẽ vong chiến, bị người Mông Cổ khởi phục cũng là hợp tình lý.
Thẩm Mặc uống cạn ly rượu lại nói tiếp:
- Đối với dân tộc thảo nguyên du mục thì dùng đạo Lạt-ma thay thế đạo Tát Mãn còn có một tác dụng, đó chính là có thể thu hút các mục dân du đãng bất định khắp nơi trước kia tới khu vực tương đối cố định. Bởi vì đạo Tát Mãn tế bái núi đá, cây cối, hồ nước, có thể tại bất cứ địa phương nào cử hành nghi thức tôn giáo, nhưng sau khi chuyển sang đạo Lạt-ma thì nhất định phải có chùa chiền mới được. Chính gọi là hòa thượng chạy trốn được nhưng miếu thì không!
- Như vậy tam quản tề hạ, phối hợp lẫn nhau, trải qua thời gian dài, đám con cháu bướng bỉnh của Thành Cát Tư Hãn cuối cùng cũng sẽ trở thành thuận dân của Đại Minh ta!
Cuối cùng, Vương Sùng Cổ bái phục khen:
- Lần đầu tiên ta có hy vọng đối với bình định cửu biên rồi!
Lần gặp sau, Thẩm Mặc khôi phục tự do cho Nặc Nhan Đạt Lạp, cho phép hắn tùy ý ra vào hành dinh tổng đốc, cũng có thể tự do đi lại trong Du Lâm bảo. Nói chung ngoại trừ không thể ra ngoài thành, hắn muốn làm cái gì cũng được. Nặc Nhan Đạt Lạp bị nhốt tới gần 2 tháng, cả ngày chỉ nhìn bốn vòm trời trên đỉnh đầu, hắn đã sớm bứt rứt khó chịu, muốn ra phố đi dạo rồi.
Thế là thừa dịp một ngày trời quang, hắn bảo một binh đinh hầu hạ dẫn mình ra phố đi dạo. Binh đinh liền thay một bộ đồ khác cho hắn, bận thành hình dạng như quân quan, rồi dẫn hắn ra khỏi phủ tổng đốc, tham quan phong tình thành Du Lâm.
Trong ấn tượng của Nặc Nhan Đạt Lạp, thành Du Lâm có lịch sử lâu đời, từ xưa là chỗ xung yếu tại Tây Bắc, còn là trọng trấn một trong cửu biên của bản triều, dân phong bưu hãn. Khi lần đầu hắn tới đây nhìn thấy đều là binh mã dân phu đầy thành, hỗn loạn, tiếng huyên náo, bách tính không chịu nổi quấy nhiễu nên cửa hàng phần lớn đóng cửa, không hề có vẻ phồn hoa lộng lẫy như trong tưởng tượng.
Nhưng lần này đi ra ngoài, hắn lấy tâm bình khí hòa tỉ mỉ nhìn, thật ra đường phố nơi đây chỉnh tề, phòng ốc đẹp, bất kể từ phương diện nào cũng tốt hơn nhiều thành Tế Nông của mình.
Hơn nữa hắn phát hiện, lúc trước khi tới đây thì con đường hỗn loạn, đầy phân trâu ngựa, lần này nhìn thì đã trở nên khang trang hơn... Rác trên mặt đường đã được quét dọn sạch sẽ, đại đội dân phu cũng đã giải tán để về nhà đón tết. Quan binh đi trên đường cũng không lôi thôi mà ăn mặc chỉnh tề, ngẩng đầu xếp thành hàng. Nhân mã đi tới đi lui rất nhiều đều như vậy, càng không có hiện tượng quấy nhiễu dân chúng.
Đối với loại chuyển biến này Nặc Nhan Đạt Lạp tự nhiên hiếu kỳ, hắn hỏi binh đinh đi cùng mình thì mới biết thì ra sau khi Thẩm đốc sư đến Du Lâm rất ghét thói quấy nhiễu dân chúng của quan binh, nên mới nghiêm lệnh chỉnh đốn quân kỷ, cấm tiệt nhiễu dân. Việc này đối với Thẩm Mặc cũng không phải mới mẻ gì. Khi tại Hàn Nam bình loạn y cũng đã cùng với Thích Kế Quang đem quân quy quân pháp đơn giản thông tục hóa, biên thành cùng loại như quân ca, tam đại kỷ luật bát hạng chú ý, yêu cầu mỗi một binh sĩ trong quân đều phải ca.
Sau khi trong lòng quan binh đã minh xác quân kỷ, liền do đội đôn đốc chuyên môn tùy thời giám sát, một khi phát hiện có người trái với kỷ luật thì dựa theo quân pháp nghiêm trị không tha. Cũng đưa ra thứ hạng xử phạt đối với quan binh các doanh xai phạm, đơn vị thấp nhất sẽ nhận được tưởng thưởng các loại tinh thần và vật chất, gần như nhận lương gấp đôi trong tháng đó, ban phát cờ thi đua.v.. v. Về phần quân quan đội sổ thì sẽ bị phê bình, thậm chí giáng chức. Dưới sự chỉnh đốn thưởng phạt phân minh này, chỉ trong gần thời gian 2 tháng. Quân phong quân kỷ trong Du Lâm bảo đã có chuyển biến tốt đẹp.
Dân chúng không còn bị quấy rối cả ngày, trong thành nhất thời có vẻ sinh khí nhiều... Các cửa hàng dần dần mở cửa lại, đại cô nương, tiểu tức phụ cũng dám lên phố, từ nam đến bắc các cửa hàng tạp hoá rực rỡ muôn màu, tửu quán tiệm cơm thơm nức mùi món ngon. Giữa các con phố tiếng rao hàng mời chào nhộn nhịp, thậm chí giữa chốn thanh lâu còn có tiếng sáo trúc truyền đến.
Đây vẫn là lần đầu tiên Nặc Nhan Đạt Lạp nhìn thấy cảnh tượng tấp nập ở thành thị của người Hán, hắn tự nhiên thấy thích, nghển cổ hết nhìn đông tới nhìn tây, giống như thế nào cũng nhìn không đủ. Binh sĩ bên cạnh không khỏi có chút tự đắc, thầm nghĩ mới có đến đây mà đã trấn trụ được Tế Nông Mông Cổ rồi, nếu đến thành Tây An nhìn, không biết có rơi cả tròng mắt hay không nữa... Đại Minh rất hợp với khẩu vị của mình, Nặc Nhan Đạt Lạp thầm nghĩ. Mặc dù Du Lâm phủ không phải là nơi trù phú của Đại Minh, binh còn nhiều hơn dân, nhưng đối lập với cảnh bần cùng khốn đốn, đấu tranh cầu sinh của các bộ lạc Mông Cổ cũng đã như trên trời dưới đất rồi.
**********
Dù sao hắn là Tế Nông Mông Cổ, cũng không thể rảnh rỗi liền ra ngoài đi loanh quanh, sau khi đi một lát, ăn vài món ăn Thiểm Tây liền trở lại hành dinh tổng đốc, đại môn không ra cổng trong không bước, chờ đợi vị quý khách mà Thẩm các lão nói giá lâm.
Nhưng mà đợi đến đầu tiên lại là tộc nhân của mình...
Khi hắn thấy con gái mình xuất hiện ở trước mắt, Nặc Nhan Đạt Lạp vẫn còn cho rằng là do mình nhớ nhung quá độ mà xuất hiện ảo giác. Mãi đến khi Chung Kim cất tiếng gọi "A ba", hắn mới định thần lại nhéo mu bàn tay mình một cái, nhếch miệng cười nói:
- Đau, xem ra không phải là đang nằm mơ.
- Đương nhiên không phải là nằm mơ rồi.- Chung Kim bảo mười mấy tùy tùng dọn ra cái lồng đem theo, kéo cánh tay hắn nói: - Vừa nhận được tin tức của phụ thân, con gái liền qua đây ngay, bao nhiêu vất vả mới được thấy ba đấy.
- Qua đây làm gì? - Nặc Nhan Đạt Lạp sủng ái nhìn khuôn mặt tuyệt mỹ của con gái, phát hiện nàng gầy đi không ít.
- Đương nhiên là chăm sóc ba rồi.
Thấy phụ thân không phải chịu ngược đãi, Chung Kim rốt cuộc cũng yên lòng:
- Cha đường đường là Tế Nông, bên người dù sao cũng phải có tộc nhân hầu hạ chứ?
- Cô bé ngốc, mình còn chưa chăm sóc cho mình được kìa.- Nặc Nhan Đạt Lạp kéo cánh tay con gái, thân thiết hỏi: - Thương thế của con tốt chưa?
- Tốt lâu rồi ba.- Chung Kim cười khanh khách nói: - Còn chạy nhảy được đây này.
- Thật tốt quá.
Nặc Nhan Đạt Lạp lại hỏi nàng về mẫu thân và hai ca ca, biết được đều khỏe mạnh hắn cũng yên tâm. Hắn lại kéo con gái ngồi xuống kháng, đưa bánh ngọt cho nàng ăn.
Thẩm Mặc không bạc đãi vị Tế Nông này chút nào, trên bàn bày tám loại bánh, bánh mứt táo, bánh móng ngựa, bánh xốp củ sen, bánh xốp táo, mọi thứ đều làm tỉ mỉ, người trên thảo nguyên đều chưa từng được ăn.
Chung Kim nếm một miếng liền không dừng được, miệng cứ thế nhét vào cổ, thiếu chút nữa bị nghẹn.
- Ăn từ từ, của con hết.- Nặc Nhan Đạt Lạp vội vàng rót cho nàng một chén trà táo đỏ, mắt đục đỏ ngầu nói: - Con gái phải chịu khổ rồi, có phải đã lâu rồi chưa có được ăn no không?
Chung Kim ngại ngùng đặt bánh trong tay xuống, cầm lấy ly trà cúi đầu nói:
- Các tộc nhân thời gian qua rất khổ...
- Ta cũng đoán vậy...
Nặc Nhan Đạt Lạp buồn bã nói:
- Tính tình của người thảo nguyên đều như lang, gặp phải đại nạn sẽ không có ai chịu giúp chúng ta.
Chung Kim nghe vậy cau mày, nhỏ nhẹ nói:
- Chỉ có thể tự mình cứu mình thôi.
- Đúng vậy.- Nặc Nhan Đạt Lạp hài lòng cười nói: - Xem ra con gái cũng có tâm tư như ba. Chỉ là không biết các ca ca của con thì sao?
- Các ca ca...
Chung Kim sửng sốt vài giây mới hiểu được ba đã hiểu lầm ý của mình, nhưng thoáng nghĩ qua nàng lại không có giải thích, có chút che giấu gật đầu nói:
- Đương nhiên nghe ba rồi...
- Vậy là tốt rồi, vậy là tốt rồi.
Nặc Nhan Đạt Lạp cảm thấy vui mừng nói:
- Ta còn lo lắng thanh niên nhân tính tình ương ngạnh, không biết suy nghĩ chứ.
- Không đâu.- Chung Kim cười tươi nói: - Chúng con thì biết gì? Vẫn là ba đứng cao, nghĩ xa.
- Đời sau càng mạnh hơn đời trước mới đúng chứ...
Nặc Nhan Đạt Lạp lắc đầu, nghiêm mặt hỏi:
- Đại ca con còn có tin gì cho cha không?
- Có!
Chung Kim lấy ra một tờ giấy trong ống tay áo rồi đưa cho phụ thân.
Nặc Nhan Đạt Lạp cầm lấy xem, là chữ của Biệt Hách, viết rằng: việc nói trên thư toàn do phụ thân làm chủ. Chỉ là nhanh nói người Hán đưa lương thảo tới để giải nguy nan của tộc nhân. Sau khi xem xong, Nặc Nhan Đạt Lạp nhíu mày suy nghĩ chốc lát mới gật đầu nói:
- Để ta xem có gặp lại Thẩm đốc sư hay không.
***************
Nặc Nhan Đạt Lạp không thể thấy Thẩm Mặc ngay được, bởi vì người sau lúc này đã đi về Tây 800 dặm, tự mình đến trấn Cố Nguyên để nghênh tiếp vị quý khách từ phương xa đến kia.
Rốt cuộc là người nào có thể khiến đường đường tể tướng Đại Minh, cửu biên đốc sư trịnh trọng đối đãi như vậy, điều này làm cho Vương Sùng Cổ dù biết nội tình cũng hết sức khó hiểu và hiếu kỳ.
Nhưng mà Thẩm Mặc biết, người này quan hệ đến tương lai giữa Đại Minh và Mông Tạng, cho đối phương một ấn tượng tốt đẹp là điều hết sức cần thiết vả lại đáng giá, người này tên gọi Sách Nam Gia Thố (Sonam Gyatso), chuyển thế Lạt Ma của phái Cách Lỗ (Gelugpa) Phật Giáo Tây Tạng, một nhân vật đã định trước phải lưu danh thiên cổ.
Thật ra rất lâu trước đây khi Thẩm Mặc nhậm chức Lễ bộ thượng thư đã từng viết thơ cho vị cao tăng này, mời hắn tới Bắc Kinh triều cống. Sách Nam Gia Thố hồi âm lại nhiệt tình, cũng phái lạt ma A Hưng có địa vị gần với mình mang theo cống phẩm hậu hĩnh vào kinh, nhưng vẫn chưa đích thân tới. Hiện tại sau khi nhận được Long Khánh duyệt qua, Thẩm Mặc lần thứ hai thông qua A Hưng lạt ma đang dự lễ tại Bắc Kinh, chính thức mời Sách Nam Gia Thố Lạt Ma đời thứ 3 của Triết Bạng Tự tới thăm Hán địa.
Thẩm Mặc vốn đoán là lấy cái mác Phật sống mình sẽ phải ba lần đến mời, nhưng mà không ngờ được chỉ hai tháng trôi qua Sách Nam Gia Thố đã có hồi âm, nói mình đang ở Thanh Hải truyền pháp, tùy thời có thể khởi hành, mời triều đình an bài hành trình. Thấy đối phương thống khoái đáp ứng, hơn nữa khoảng cách còn không xa, Thẩm Mặc hết sức cao hứng, một mặt thượng tấu hoàng đế, một mặt phái người gặp mặt Sách Nam Gia Thố, thương thảo với hắn về việc an bài hành trình cụ thể triều kiến. Bởi vì con đường từ Thanh Hải nhập Thiểm rất gian nguy, vả lại trộm cướp hoành hành, trạm dịch cũng không hoàn bị, Thẩm Mặc đặc biệt mệnh Lan Châu Vệ phân phối 2000 tinh binh hộ tống.
Đồng thời y còn mệnh lệnh xây dựng một tòa miếu Tu Di Phúc Thọ tại Du Lâm bảo để cho Lạt Ma ở dùng để giảng kinh. Lúc trước Nặc Nhan Đạt Lạp thấy cảnh tượng hỗn loạn bên trong thành Du Lâm hơn phân nửa là vì xây dựng tòa hoàng tự này. Thậm chí vì gặp mặt đàm đạo với đối phương khỏi phải xấu hổ, ngoài công vụ, khi rỗi rãi Thẩm Mặc còn học đặc ngữ Đường cổ, nghiên cứu Tạng sử, có thể nói y dụng tâm lương khổ.
Trên đường Sách Nam Gia Thố đi, Thẩm Mặc không chỉ tại ven đường phái người tiếp đãi, hơn nữa không ngừng biểu thị quan tâm và thăm hỏi của mình, còn đích thân đi tới Cố Nguyên chờ đón. Rốt cuộc cuối tháng chạp năm Long Khánh thứ 3 gặp được đoàn người Sách Nam Gia Thố trải qua mấy nghìn dặm đường vất vả đến đây.
Được vô số tác phẩm văn sử hậu thế tô vẽ, giống như Ngưu Lang gặp Chức Nữ, lần đầu tiên hai nhân vật vĩ đại gặp mặt thật ra là ở trong băng thiên tuyết địa. Hai người thanh niên bị lạnh đến nước mũi cũng bị đóng băng, sụt sịt hỏi nhau: "Ngài chính là Thẩm các lão?" "Ngài chính là Sách Nam Lạt Ma?", đợi đối phương gật đầu rồi, hai người mới gian nan nặn ra nụ cười, hoạt động thân thể nặng trịch ôm lấy nhau.
Năm đó, Thẩm các lão 32 tuổi, Sách Nam Gia Thố còn chưa đến 30 tuổi, mặc dù thân thiết ôm lấy nhau, nhưng trong lòng hai người không khỏi nghĩ thầm, sao người này còn trẻ thế nhỉ, rốt cuộc hắn có được việc không đây?
Tuy nhiên chỉ thoáng tiếp xúc hai người liền bỏ đi nghi hoặc này, phong độ khí chất của Thẩm Mặc tự nhiên khỏi cần phải nói. Sách Nam Gia Thố trẻ hơn y 5 tuổi cũng có thể khiến người hoàn toàn quên đi tuổi tác của hắn, thay vào đó là nhìn vào cao tăng đại đức.
Điều này cũng không lạ, bởi vì người ta là chuyển thế tới. Chuyển thế tương thừa là biện pháp đặc biệt để tìm người lãnh tụ kế thừa của phái Cách Lỗ. Trước khi Lạt Ma tiền nhiệm viên tịch sẽ tiên đoán phương vị chuyển thế của mình, sau đó do cao tăng của Tam Đại tự (Cam Đan Tự, Sắc Lạp Tự, Triết Bạng Tự) tìm kiếm, sau khi nhận định linh đồng chuyển thế sẽ mang về tự dốc lòng bồi dưỡng, đợi nó thành niên rồi sẽ tiếp chưởng quyền Lạt Ma.
Lạt Ma đời thứ ba của Triết Bạng Tự sinh ra trong một gia đình nông nô vào ngày 15 tháng giêng năm Gia Tĩnh thứ 22. Khi 4 tuổi được tăng chúng của Triết Bạng Tự xác nhận là "chuyển thế linh đồng" của Lạt Ma đời thứ hai và được đón vào trong tự, do ba vị cao tăng chủ trì lấy cho pháp danh là Sách Nam Gia Thố.
Sách Nam Gia Thố đáng thương từ đó ngày qua ngày bắt đầu cuộc đời nghiên cứu kinh Phật. Có lẽ hắn thực sự là chuyển thế linh đồng, tuệ tính thâm sâu, linh dị đặc biệt, khiến mỗi một cao tăng dạy qua hắn đều cảm thấy rất khâm phục, cũng càng thêm nhận định hắn là chuyển thế của Lạt Ma.
Sau khi trải qua 18 năm khắc khổ tu luyện, Sách Nam Gia Thố đã trở thành một cao tăng rất có phong thái, học phú ngũ xa. Bắt đầu từ hơn 10 tuổi hắn đã chu du khắp đất Tạng, giảng kinh truyền pháp, cũng dùng lực ảnh hưởng của mình tích cực làm hoạt động xã hội.
Vào năm hắn 14 tuổi, Sách Nam Gia Thố liền hòa giải bất hòa giữa Đông Đệ Ba và Quỳnh Cát đại nhân, khiến hai người đình chỉ giới đấu, cuối cùng hòa hảo. Sau đó tận sức tiêu trừ xung đột chảy máu giữa các thế lực, cũng giành được cho mình danh dự cực cao. Tại vùng hậu Tạng không ai không biết, sở hữu tín đồ vô số.
Khi 22 tuổi hắn chịu Tỷ khưu giới, giành được tư cách đảm nhiệm phương trượng Triết Bạng Tự. Mấy năm sau, tăng chúng của Sắc Lạp Tự, một trong Hoàng Giáo Tam Đại Tự cũng mời hắn kiêm nhiệm cai tự phương trượng... Trước khi tới Hán địa hắn tại Thanh Hải truyền pháp ba năm, quy y mấy vạn tín đồ, xây dưng ba tòa miếu lạt ma. Thử hỏi nhân vật như vậy ngươi làm sao dùng tuổi tác đi so sánh hắn được?
Hai người thanh nhiên tuổi còn trẻ mà đã thân cư cao vị gặp mặt nhau, rất có thể sẽ khó chịu lẫn nhau. Nhưng hai người đều là người tính tình khiêm tốn, lại đều mang trong lòng mục đích rõ ràng, hết sức nguyện ý kết giao với đối phương, cho nên vừa thấy mặt liền tỏ vẻ thương tiếc nhau, sau đó lời lẽ vui vẻ, thật như hận vì gặp nhau quá trễ.
Lộ trình từ Cố Nguyên về Du Lâm hết 10 ngày, hai vị này cả ngày ngồi ở trong xe nói chuyện... Đều là người học phú ngũ xa, tài trí hơn người, tự nhiên không thiếu đề tài.
Có lẽ lúc đầu tương giao còn có tính hiệu quả và lợi ích bên trong, nhưng hiện tại, họ quả thật đã đem đối phương là tri kỉ, xưng huynh gọi đệ.
Trên đời này còn có chuyện gì khiến người kích động hơn khi hai thiên tài vĩnh viễn sẽ không sản sinh cạnh tranh phát hiện ra đối phương thì ra là đồng loại?
Đợi khi thu xếp Lạt Ma trong căn miếu mới xây rồi, Thẩm Mặc như mới nhớ cái gì nói:
- Ngày mai ta sẽ dẫn vị Nặc Nhan Tế Nông tới bái kiến Lạt Ma.
***********
Buổi trưa ngày hôm sau, Thẩm Mặc đang ở trước phòng đợi Nặc Nhan Đạt Lạp đến thì thấy còn có một thiếu nữ thanh xuân đi cùng.
Tuy Thẩm Mặc mấy năm nay tâm như chỉ thủy, sớm đã qua cái tuổi háo sắc, nhưng thấy được thiếu nữ này y vẫn không khỏi sáng mắt. Thấy nàng trong bộ trang phục quý nữ Mông Cổ, tóc bim hai vai, trường bào xanh lá mạ khảm đường viền đỏ tươi hai bên, bên hông thắt dây lưng tết dây tua màu vàng hơi đỏ, đeo thêm một viên bảo thạch ngọc lục bảo trong suốt, vòng tay xanh biếc, ánh mắt thu ba, như Lạc thần xuất thủy diễm lệ kinh người!
Thẩm Mặc nhìn nữ tử này, nữ tử cũng đang đánh giá Thẩm Mặc, thấy y còn chưa tới 30, vóc người thon gầy, không tính quá cao, mặc cũng chỉ là bộ áo dài vải bông xanh tay áo rộng Tùng Giang. Nhưng y đứng đó, cái loại khí độ, phong thái đó lại không một công tử cẩm y ngọc đái nào có thể sánh bằng. Từ trước đến nay nàng cảm thấy phụ thân của mình là một nam tử phong lưu tiêu sái, rất có mị lực, nhưng nàng cảm thấy không thể bằng được người thanh niên trước mắt.
Cũng không phải là chênh lệch trên tướng mạo, mà là khí chất, cái loại khí chất tao nhã mà lại khiến người cảm thấy thân thiết đó khiến người thoải mái như được tắm gió xuân, thật không biết mới lần đầu gặp mặt sao lại khiến người sản sinh loại cảm giác này được?
Có lẽ cũng không phải lần đầu tiên gặp mặt, một bóng hình khắc thật sâu trong lòng nàng đã hiện ra, dần dần trùng hợp hoàn toàn với bóng người trước mắt này... Ngoại trừ chòm râu, nguyên lai giống nhau như đúc.
Thẩm Mặc thì vẫn lần đầu tiên nhìn thấy có nữ tử dám đối diện với mình, y không khỏi đỏ mặt, rồi rất nhanh thu hồi ánh mắt. Mũi liền ngửi được một mùi thơm đặc biệt tự lan phi lan, tự xạ phi xạ truyền tới, y không khỏi thầm nghĩ: "Nơi biên hoang thảo nguyên không ngờ lại có nữ tử tuyệt sắc xuất chúng như vậy." Tuy nhiên chung quy y định lực siêu phàm, vẫn chưa đến mức thất thố, rất nhanh chuyển ánh mắt qua Nặc Nhan Đạt Lạp, thấy hình dạng hai người này có vài phần giống nhau, y mỉm cười nói:
- Vị tiểu thư này có phải là của nhà Tế Nông?
- Chính là tiểu nữ Ô Nạp Sở.- Nặc Nhan Đạt Lạp nói: - Ô Nạp Sở, mau mau bái kiến Thẩm đốc sư của Đại Minh đi.
Thiếu nữ liền theo lời chân thành hành lễ, nói tiếng vạn phúc với Thẩm Mặc.
- Miễn lễ miễn lễ.- Thẩm Mặc cười nói: - Nghe nói Tế Nông chỉ có một vị Chung Kim Biệt Cát, không biết có quan hệ thế nào với vị này?
- Là cùng một người.- Nặc Nhan Đạt Lạp cười giải thích: - Chung Kim là phong hào của nó, ngoại bang gọi lung tung, không vào tai của đốc sư chứ?
- Nếu là hiền điệt nữ thì phải có quà gặp mặt rồi.- Thẩm Mặc nói rồi sờ sờ trong tay áo, phát hiện trống rỗng, y có chút xấu hổ cười nói: - Nhưng không có chuẩn bị, đành phải đợi lần sau thôi.
Mình cũng thấy bó tay với mình, thế là y khẽ ho một tiếng rồi nói với Ô Nạp Sở:
- Thích cái gì cứ nói, thúc thúc sẽ kiếm tặng cho.
Chính mình cũng không biết tại sao lại nói ra lời càn rở như vậy, đúng là theo bản tính.
- Thật có thể chứ? - Chung Kim Biệt Cát Ô Nạp Sở lại không ngượng ngùng như nữ tử Hán, nháy nháy cặp mắt sáng ngời nói: - Muốn cái gì cũng được?
- Đương nhiên.- Thẩm Mặc thầm nghĩ không ổn, những lại không thể sửa lời.
- Vậy ta muốn...
Ô Nạp Sở dùng ngón tay thon thon hếch cằm nói:
- Hỏa thương, được chứ?
- Con gái con nứa, đừng có cả ngày vũ đao lộng thương.- Nặc Nhan Đạt Lạp khẽ giật giật nơi khóe miệng, ngăn cản nàng.
- Nhưng con lại không thích mấy thứ son phấn, trâm cài lăng la của nữ tử Hán.- Ô Nạp Sở chu miệng nói: - Không cho thì thôi, cũng không phải con chủ động đòi đâu.
"..."
Nặc Nhan Đạt Lạp có chút lo lắng nhìn Thẩm Mặc một cái, nhỏ giọng quát con gái:
- Đừng có mà tùy hứng, nữ nhi Hán không có như con đâu.
- Được rồi được rồi! - Thẩm Mặc mỉm cười nói: - Việc đã đáp ứng thì phải làm được, bằng không thì sau này còn gì uy tín với hậu bối nữa.
Nghe y luôn mồm tự cho mình là trưởng bối, Ô Nạp Sở liếc Thẩm Mặc một cái không nói gì.
- Đừng để quý khách phải sốt ruột chờ lâu.- Thẩm Mặc tiếp nhận áo khoác trong tay thị vệ nói: - Chúng ta xuất phát đi.
Rồi dẫn hai người rời khỏi hành dinh, đi về hướng hoàng miếu Sách Nam Gia Thố đang ở.
Miếu mà Sách Nam Gia Thố đang ở mặc dù chỉ xây trong vòng mấy tháng nhưng quá trình hết sức dụng tâm, cũng thể hiện quốc lực lớn mạnh của đế quốc Đại Minh. Tường đỏ cao vời vợi, đại môn tráng lệ, vẽ đầy các loại đồ án tôn giáo thần bí, Phạn âm như có như không từ bên trong tự truyền ra khiến người không nhịn được liền cảm thấy trang nghiêm.
Ba người theo lạt ma dẫn đường đi tới hậu điện Phật sống gặp khách, nơi đó cách chỗ ông ta ở thường ngày chỉ một bức tường. Vừa vào cửa liền thấy trên hai bên tường thờ phụng hơn 100 bức tượng phật nhỏ bằng đồng, hình thái khác nhau, tràn ngập khí tức thần bí. Vào trong nữa là đại điện rộng rãi, pháp tọa của Phật sống được đặt trên cao, một bức thảm đỏ thẩm dài từ pháp tọa trải cho đến cửa đại điện.
Lúc này, Sách Nam Gia Thố trong bộ áo cà sa màu vàng, cầm trong tay niệm châu đang mỉm cười đứng ở cửa, hướng ba vị thí chủ chắp tay trước ngực. Ba lạt ma lớn tuổi bên cạnh hắn khom người cúi đầu, hai tay dâng lên khăn ha- đa, trong miệng còn ngậm tụng lời khấn cát tường. Thẩm Mặc mỉm cười khom người hai tay hứng lấy để biểu thị kính trọng và lòng biết ơn. Lễ nghi rất hợp quy củ Tạng địa này làm cho ba vị lạt ma cao cấp tự giác hạ mình cảm thấy hưởng thụ.
Nặc Nhan Đạt Lạp và Ô Nạp Sở cũng học theo tiếp nhận khăn ha- đa rồi quàng lên cổ, sau đó mới đứng dậy theo Thẩm Mặc.
Sau khi ba vị lạt ma lui ra, Thẩm Mặc giới thiệu qua lại cho Sách Nam Gia Thố và Nặc Nhan Đạt Lạp, hai vị quý nhân Mông Tạng thi lễ với nhau lần nữa, sau đó mới theo nhau vào đại điện.
Sau khi vào điện, Sách Nam Gia Thố dẫn người tụng lời cát tường và tán hoa chúc phúc. Thẩm Mặc tại phật tượng Thích Ca Mâu Ni thay mặt hoàng đế bệ hạ Đại Minh tặng cho Phật sống đời thứ ba Kim Như Ý, Kim Thủ Trượng, trân bảo trang sức, thắt lưng tơ vàng cùng tơ lụa; Nặc Nhan Đạt Lạp cũng dâng lên dương chi ngũ hương lô, bát sứ có đồ án thất dũng sĩ. Những tặng phẩm này là Thẩm Mặc đặt mua thay. Sách Nam Gia Thố thì đáp lễ hoàng đế Đại Minh phật tượng, phật bảo, tặng cho Nặc Nhan Đạt Lạp áo cà sa. Trong bầu không khí tường hòa, chủ tân an vị, thị tăng dâng lên trà bơ.
Sách Nam Gia Thố mỉm cười nói với Nặc Nhan Đạt Lạp:
- Hôm nay có thể nhìn thấy hậu nhân của Tiết Thiền Hãn, thật sự là khiến người khác vui mừng.
- Tiết Thiền Hãn...
Nặc Nhan Đạt Lạp thoáng kinh ngạc, mới nhớ tới đó là tôn hiệu của tổ hoàng đế Hốt Tất Liệt đời Nguyên, tiếp theo nhớ lại trên sách sử có nói, Hốt Tất Liệt phong lạt ma Bát Tư Ba là quốc sư, định đạo Lạt-ma là quốc giáo. Hắn không khỏi nghiêm nghị nói:
- Chẳng lẽ Phật sống là truyền nhân của Bát Tư Ba.
Sách Nam Gia Thố mỉm cười nói:
- Nói phải thì phải, nói không phải cũng không phải.
- Đây là ý gì? - Nặc Nhan Đạt Lạp khó hiểu nói.
- Chúng tôi đều là đệ tử của Phật tổ, luân hồi khổ tu chỉ vì phổ độ chúng sinh.- Sách Nam Gia Thố trang nghiêm nói:
- Ngươi có thể nhìn ta là chuyển thế của Bát Tư Ba, cũng có thể nói, chúng tôi không có chút quan hệ nào.
- Ngài không phải là chuyển sinh của Phật tổ? - Nặc Nhan Đạt Lạp giật mình nói.
- Cách xưng Phật sống đúng là truyền bá sai lầm.- Sách Nam Gia Thố thản nhiên nói: - Phật Giáo Tây Tạng ta đối với tu hành có thành tựu, có thể căn cứ vào ý nguyện của mình mà chuyển thế nhân xưng là 'Chu tất cổ', dùng tiếng Mông nói chính là 'Hô tất lặc hãn'. Chữ này ý nghĩa chính là "Chuyển thế giả', hoặc gọi 'Hóa thân'
Dừng một chút hắn mới nói:
- Về phần cách xưng Phật sống chính là xưng hô tập tục của bách tính Hán địa, điều này có lẽ quan hệ với Vĩnh Lạc hoàng đế bệ hạ phong Thích Ca Mâu Ni của phái Cát Cử (Geju) khi đó là 'Tây Thiên Đại Thiện Tự Tại phật.
Rồi hắn nhìn sang Thẩm Mặc nói:
- Xin đại nhân chớ trách, ta không phải là có ý định mạo phạm, thật sự là loại phong hào và xưng hào này trên phật giáo giáo lí của ta đều nói không thông... Phật là Thích Ca Mâu Ni, những tín đồ ngồi như chúng tôi sao dám đi quá giới hạn.
- Thế thì là phật gì? - Một thanh âm êm tai vang lên, hỏi là Ô Nạp Sở.
- Chung Kim, đừng có nhiều chuyện.- Nặc Nhan Đạt Lạp chỉ sợ Sách Nam Gia Thố không thích.
- Không sao, trước mặt Phật tổ chúng sinh bình đẳng.- Sách Nam Gia Thố mỉm cười nói: - Câu hỏi của nữ thí chủ rất hay, chỉ khi biết là phật gì mới có thể lý giải bản chất sở tại của phật giáo.
Thấy hắn một bên khẽ lần tràng hạt, một bên sắc mặt thánh khiết nói:
- Phật, là phật đà, nhưng không chỉ có tổ sư Thích Ca Mâu Ni của phật giáo ta, cũng chỉ tất cả người trí tuệ đại giác. Đó bởi vì phật chỉ là tên thường gọi đối với một người giác ngộ mà thôi. Tựa như người Hán có thể gọi người giáo sư là "truyền đạo, thụ nghiệp, giải hoặc" vậy... Giáo sư không chỉ một vị, người người có thể làm giáo sư, chỗ nào có thể có giáo sư. Cũng một đạo lý, phật không phải chỉ một mình Thích Ca Mâu Ni, người người có thể thành Phật, chỗ nào có thể có phật, nhân tại phật trung, tự nhiên thành phật. Cho nên nói phật chính là tự nhiên, mà tự nhiên chính là vạn vạn thiên thiên, bao gồm hoa cỏ cây cối, người quỷ cầm thú, mặc dù ngay cả ma, chỉ cần phóng hạ đồ đao, cũng có thể thành Phật.
- Vậy thành Phật có chỗ tốt gì chứ? - Ô Nạp Sở hỏi.
- Nếu như thành Phật, ngươi sẽ đạt được toàn bộ thế giới.
Sách Nam Gia Thố nhón một viên châu dầu từ trong chén vàng, dưới ánh đèn chiếu rọi, châu dầu lưu động, rực rỡ trong ngón tay của hắn:
- Biến pháp giới hư không giới ngươi hoàn toàn đạt được, chư phật Như Lai giáo dục cho chúng ta chính là cái này. Ngươi vì sao đạt được? là vì ngươi vốn đã có nó.
Thấy trong mắt hai người có chút mê hoặc, hắn lại giải thích:
- Giống như ngươi vốn là hào môn quý tộc, nhưng sinh ra đã bị thất lạc với phụ mẫu, sống bần cùng, thống khổ, căn bản không biết mình có gia nghiệp to lớn. Hiện tại có người nhận ra ngươi, biết tình hình nhà ngươi, hướng dẫn ngươi, mang ngươi về nhà, ngươi sẽ vô cùng kinh ngạc, thì ra nhà của ta là như này, ta vốn có giàu có như vậy. Phật, chính là người dẫn ngươi về nhà.
- Vậy làm sao mới có thể tìm được nhà của mình chứ? - Nặc Nhan Đạt Lạp hỏi: - Hoặc là nói làm sao thành Phật?
- Thành Phật đâu có thể dễ dàng thế.
Sách Nam Gia Thố nhẹ nhàng bắn hạt châu vào trong chậu than, tia lửa rực rỡ nhiều màu nổ bùng lên, hắn mỉm cười nói:
- Dù cho ai có thiên tài, cũng không thể nhất sinh nhất thế mà thành Phật. Bởi vì thành Phật yêu cầu tỉnh ngộ, mà tỉnh ngộ yêu cầu chuyên tâm học tập, ngươi lý giải đủ kinh thư rồi mới có khả năng đạt đến cảnh giới ngộ. Nhưng chúng ta tại thế gian này thọ mệnh quá ngắn, học cái gì cũng học không thành. Nói thật thì, học một bộ kinh cũng học không thành. Bởi vì thọ mệnh không đủ, thời gian không đủ. Cho nên học tập đồng thời chúng ta phải tu hành, chúng ta phải đến thế giới cực lạc, đổi lại một thân thể, tiếp tục học tập.
- Vì sao phải tu hành ở đó, bởi vì đó là một nơi có nhiều thứ diệu dụng. Chỗ tốt thứ nhất chính là vô lượng thọ! Ngươi có thọ mệnh vô lượng. Thọ mệnh vô lượng, vậy cả đời đương nhiên ngươi sẽ thành công, sớm muộn gì ngươi có thể chứng đắc cảnh giới phật.
Sách Nam Gia Thố nhìn Thẩm Mặc, hình như y đang nghiêm túc lắng nghe, nhưng hai mắt thanh minh, trong lòng không khỏi thầm than một tiếng. Hắn lại tiếp tục nói với hai cha con:
- Không chỉ có vô lượng thọ, còn có thể nhiều của cải. Cho dù không tiếp tục tu hành nữa, Thích Ca Mâu Ni Phật nói, thế giới cực lạc phương tây lại gọi là thế giới ngọc lưu ly. Ngọc lưu ly là thứ gì? Người thế gian chúng ta nói là ngọc bích. Mặt đất ở đó là ngọc bích, phía trên lát hoàng kim, phòng ốc để ở do thất bảo tạo thành. Thất bảo là gì? Kim ngân, lưu ly, xa điệp, mã não. Ngươi muốn cái gì, muốn ăn cái gì, chỉ cần động niệm sẽ sinh ra thứ ngươi muốn. Sau khi ăn xong, không cần, lập tức sẽ không có nữa, cũng không cần rửa chén, cũng không cần thu dọn. Nó liền biến đi không còn, quy về không. Cái này gọi là đại tự tại.
- Còn có vô lượng tướng, thế gian này của chúng ta quý tướng của người có 32 loại, ba vị đều ở trong đó. Nhưng phật ở trên kinh nói cho chúng ta biết, thế giới cực lạc phương tây người có vô lượng tướng, tướng có vô lượng hảo. Cho dù tướng tốt nhất, phú quý nhất trên thế giới này của chúng ta cũng phải xếp chung với người hạ phẩm vãng sinh của thế giới cực lạc phương tây. Hắn tựa như một ăn mày, không thể so sánh! Không có dạng nào không vừa lòng đẹp ý. Đây là lợi ích của niệm Phật, chỗ tốt của vãng sinh!
- Điều này... có thật chứ? - Ô Nạp Sở hơi khó tin nói.
- Thực sự, không sai chút nào. Cả đời này ta ở trong đó tận mắt nhìn thấy, người đứng vãng sinh, người ngồi vãng sinh, ta thấy đến mười mấy người, nghe nói thì không biết có bao nhiêu.
Sách Nam Gia Thố trịnh trọng gật đầu, vẻ mặt đó khiến ngươi không tin cũng không được.
- Ta nghe nói, phật sẽ không nói dối? - Ô Nạp Sở nháy nháy mắt nói.
- Phương pháp Phật độ hóa chúng sinh rất nhiều, không cần nói dối tới độ chúng sinh. Lời nói dối có hay phật cũng không nói. Người tu hành chúng ta cũng vậy, trong suốt một đời từng nói dối qua một lần, thì lời nói của hắn sẽ không có ai tin.
Sách Nam Gia Thố gật đầu nói:
- Cho nên ta lập thệ suốt đời cũng không nói dối.
- Thế đời trước của ngươi cũng không nói dối? - Ô Nạp Sở nhìn hắn với ánh mắt trông mong.
- Không.- Sách Nam Gia Thố gật đầu nói.
- Thế đời trước nữa?
- Chúng tôi vốn là cùng một người.- Sách Nam Gia Thố nói.
- Đúng rồi, ta cũng đọc qua kinh thư, biết trong kinh điển nói cho chúng ta biết, người bình thường ba đời không nói dối thì đầu lưỡi có thể liếm đến chóp mũi của mình.
Ô Nạp Sở như con tiểu hồ ly trộm được gà, nở nụ cười giảo hoạt:
- Nếu như ngươi có thể liếm đến chóp mũi của mình thì ta sẽ tin.
Chương 848: Sách Nam Gia ThốTrong phật đường đàn hương lượn lờ, Thẩm Mặc vẫn đang bưng ly trà, mỉm cười nghe Sách Nam Gia Thố thuyết pháp, thật ra y rất ước ao những người có tín ngưỡng này, bất đắc dĩ mình đã rơi vào ma đạo, đời này sợ rằng không còn cơ hội đi tìm cảnh địa cực lạc đó nữa.
Nhưng khi nghe được Ô Nạp Sở lại muốn Phật sống liếm cái mũi của mình thì y không khỏi thầm mướt mồ hôi thay Sách Nam Gia Thố... Mặc dù y không phải là tín đồ, nhưng đọc nhiều sách vở, biết [Kinh A Di Đà] có nói: 'Phàm phu lưỡi qua chóp mũi, tỏ rõ ba đời không nói dối. Phật là vô lượng kiếp tới nên chưa từng nói dối! ' cho nên Sách Nam Gia Thố không thể cự tuyệt.
Thẩm Mặc đành phải khẽ ho một tiếng, nghĩ tạo ra một đường lui cho Sách Nam Gia Thố. Nhưng thấy Phật sống cười tủm tỉm nói:
- Không biết nữ thí chủ tin rồi thì đối với ta có tác dụng gì?
- Làm được rồi... thì ta sẽ quy y.- Ô Nạp Sở khéo cười nói.
- Phật của ta chỉ độ người thành tâm.- Sách Nam Gia Thố cười nói: - Không bằng như vậy đi, nữ thí chủ đáp ứng ta một việc, được không?
Ô Nạp Sở lanh lẹ gật đầu.
- Nữ thí chủ xem đây.
Sách Nam Gia Thố nói xong liền từ từ thè lưỡi ra, dưới ánh mắt chăm chú của ba người, khẽ liếm chóp mũi của mình một cái...
Nặc Nhan Đạt Lạp thè lưỡi ra thử, phát hiện cho dù có nhăn mặt thành cúc hoa cũng không thể làm được. Hắn không khỏi khâm phục:
- Thượng sư quả nhiên là đại đức.
'Cừ thật, thảo nào năng ngôn thiện biện như thế. ' Thẩm Mặc không khỏi thầm líu lưỡi, đây là tiêu chuẩn của miệng lưỡi không xương, trăm đường lắt léo.
Về phần Ô Nạp Sở thì nhìn đến ngây người, thì ra trên đời này thật sự có người liếm được mũi của mình?
Sách Nam Gia Thố cố ý dừng đầu lưỡi tại trên mũi chốc lát, đợi ba người đều thấy rõ rồi mới chậm rãi thu lại, cười nói:
- Nữ thí chủ nhìn rõ chưa?
Ô Nạp Sở gật đầu, không lời nào để nói, đành phải áy náy biểu thị thất lễ.
- Thế gian này chúng ta giảng Sa Bà thế giới là thế giới ô nhiễm. Sa Bà thế giới chúng sinh kiên cường khó cảm hóa, nghiệp chướng sâu nặng. Tại Sa Bà thế giới khổ! Chúng sinh trong cái khổ này lại không biết được phương tây có một Niết bàn cực lạc, cho nên phật giới thiệu cho chúng ta. Dựa vào cái gì chúng ta có thể tin tưởng? Bằng phật không nói dối.
Sách Nam Gia Thố liền trang nghiêm nói:
- Không biết ba vị thí chủ có nguyện hao tâm tốn sức nghe ta giảng một đoạn [Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh] không?
- Rất sẵn lòng.- Ba người chắp tay lại nói.
***********
[Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh] nghe nói là Thích Ca Mâu Ni phật sau khi thành đạo trong thiền định tuyên giảng cho các Bồ Tát thượng thừa như Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát khi giải thích vô tận pháp giới, là một trong những kinh điển quan trọng nhất của đại thừa phật giáo, được đại thừa chư tông tôn sùng là 'Kinh trung chi vương' của tuyên giảng đốn giáo viên mãn, được cho rằng là bản giới thiệu về thế giới quan hoàn chỉnh nhất của phật giáo.
Đành phải thừa nhận, 4 tuổi bắt đầu học kinh, 8 tuổi lên đài giảng kinh, đến nay đã phát dương phật pháp 20 năm, Sách Nam Gia Thố quả thật có lý giải thấu triệt đối với kinh học, lại còn miệng lưỡi lưu loát, khiến người nghe không thể tự kềm chế...
Mặc dù đã nói rất thô sơ giản lược, nhưng Sách Nam Gia Thố vẫn nói hết ba ngày mới tính là đưa ba người cưỡi ngựa xem hoa xem qua [Hoa Nghiêm Kinh] một lần.
Nhưng chỉ có loại cưỡi ngựa xem hoa này cũng đã làm cho Nặc Nhan Đạt Lạp hãm sâu vào trong, đợi Sách Nam Gia Thố vừa nói, hắn liền phủ phục dưới chân thượng sư khẩn cầu quy y.
Thấy phụ thân như vậy, Ô Nạp Sở cũng chỉ quỳ xuống khẩn cầu theo.
Quy y là cơ sở nhập môn của Phật tử tu hành. Sách Nam Gia Thố nói cho tín đồ tu tập phật pháp, đầu tiên phải phát bồ đề tâm, xác lập chí hướng thành Phật. Mà khi phát bồ đề tâm lại phân hai loại, Nguyện bồ đề tâm và Hành bồ đề tâm. Cái trước là cơ sở của cái sau, có thể lý giải là nguyện vọng và hành động. Nếu như muốn làm tốt Hành bồ đề tâm thì trước tiên phải có cơ sở của Nguyện bồ đề tâm, mà cơ sở của Nguyện bồ đề tâm chính là quy y.
'Quy y' theo như lời của Phật Giáo Tây Tạng chính là đem thể xác và tinh thần của mình tất cả đều ký thác trên người đối phương, dưới sự chỉ dẫn tu luyện của đối phương đạt được mục đích siêu thoát luân hồi, đăng bỉ cực lạc. Mà trong giáo lí của Phật Giáo Tây Tạng, đối tượng quy y chỉ có thể là tam bảo.
Cái gọi là tam bảo, tức là 'Phật, pháp, tăng'. Phật đà, là dịch âm của 'Giác' trong Phạn văn. 'Giác' là 'Đoạn, lợi, trí', là nhị chướng thanh tịnh, trí tuệ đều viên mãn. Một người đại thành tựu như thế được xưng là phật; 'Pháp' chính là giáo huấn giáo pháp phật đà tuyên giảng; 'Tăng' không phải là tăng nhân bình thường, mà là thánh tăng đã thành tựu, tỷ khưu đã có lĩnh ngộ.
Nói cách khác, ngươi muốn siêu thoát luân hồi, đăng bỉ cực lạc, nhất định phải đem toàn bộ thể xác và tinh thần đều ký thác trên người 'Phật pháp tăng'. Sau khi ngươi quy y phật sẽ không thể tái quy y quỷ thần thế gian; sau khi quy y pháp sẽ không thể tái thương tổn sinh chúng khác; sau khi quy y tăng thì sẽ phải toàn tâm toàn ý bảo vệ hắn, cung phụng hắn, nghe theo giáo huấn của hắn, cẩn tuân dụ lệnh của hắn... Bởi vì hắn là người duy nhất trong tam bảo có thể đối thoại với ngươi, ý của hai người trước đều yêu cầu do hắn tới chuyển đạt, trình bày và phát huy, cho nên 'tăng' chính là người phát ngôn của phật pháp tại thế gian, địa vị của tăng tự nhiên chí cao vô thượng, mỗi một câu tăng nói tự nhiên đều tồn tại như chân lý phật pháp.
Mà thánh tăng có thành tựu là ai? Tự nhiên là Phật sống chuyển thế như Sách Nam Gia Thố rồi.
Những lời này thật sự lợi hại, có thể khiến tín đồ hoàn toàn không để ý tới chính quyền thế tục quyền... Bởi vì các quý nhân của chính quyền thế tục tự thân còn đang trong luân hồi, tự nhiên vô pháp dẫn đạo các tín đồ siêu thoát vãng sinh, chỉ có hoàn toàn nghe theo các thánh tăng tỷ khưu, mới là phương pháp duy nhất được cứu trợ.
***********
Sách Nam Gia Thố đưa tay đặt lên đỉnh đầu Nặc Nhan Đạt Lạp, quán đỉnh cho hắn, cũng sau khi trải qua Phạn âm tụng ca dùng tịnh thủy vẩy lên đầu hắn, tiếp nhận hắn quy y, cũng ban thưởng pháp danh 'Tán khắc lạp ngõa nhĩ', ý tứ là 'Nhân từ như hải'.
Nhưng khi đến Ô Nạp Sở thì Sách Nam Gia Thố lại nhắm mắt lắc đầu nói:
- Nữ thí chủ còn chưa thể quy y.
Ô Nạp Sở trừng con mắt đen lúng liếng nói:
- Vì sao chứ?
- Bởi vì đã quy y phật đà thì sẽ không thể bái chư thiên thần quỷ khác, đã quy y thánh pháp thì phải lấy giáo pháp của phật đà mà hành chỉ, nhất là không thể giết người hại mệnh; đã quy y thánh tăng thì không tin dị giáo bàng môn, cũng không lui tới cùng tội hữu.
- 'Tội hữu' là gì chứ? - Ô Nạp Sở không dám nhìn thẳng vào ánh mắt của Sách Nam Gia Thố, ánh mắt đó đen kịt sâu thẳm, giống như ẩn chứa vũ trụ ảo diệu, khiến người không sinh ra được ý nghĩ nói dối.
- 'Tội hữu' chính là những người chỉ bảo, dụ dỗ chúng ta thương tổn người khác, không nghe theo nhân quả.- Sách Nam Gia Thố mỉm cười nhìn Ô Nạp Sở nói: - Nữ thí chủ có tội hữu như vậy không?
"..."
Ô Nạp Sở biến sắc vài lần, cuối cùng cúi đầu nói:
- Không có.
- Được, ta tạm tin tưởng thí chủ - Sách Nam Gia Thố mỉm cười nói: - Tuy nhiên Mật tông có luật, pháp không tuỳ tiện truyền. Cơ duyên của thí chủ chưa tới, lần này ta không thể tiếp thu thí chủ quy y, nữ thí chủ còn phải chịu thêm khổ ải tại nơi hồng trần.
Nặc Nhan Đạt Lạp vừa muốn mở miệng thì thấy thượng sư giơ tay lên rồi nói với Ô Nạp Sở:
- Ta thấy nữ thí chủ tướng mạo bất phàm, tương lai có lẽ liên quan đến phúc lợi của nghìn vạn người, hy vọng thí chủ có thể tự giải quyết cho tốt, đừng rơi vào tà môn ma đạo.
Rồi hắn vươn ngón tay khẽ điểm một cái lên trán Ô Nạp Sở, nàng liền cảm thấy một cổ mát lạnh dọc theo đầu ngón tay của hắn tiến vào đầu rồi một đường xuống phía dưới, qua đầu mũi cằm rồi đến ngực, cuối cùng dừng lại tại tim. Tiếp đó nghe Sách Nam Gia Thố nhỏ nhẹ nói:
- Ta đã để lại một điểm thanh minh trong lòng thí chủ, hy vọng từ nay về sau thí chủ làm gì cũng phải suy nghĩ kĩ, để tránh khỏi hối tiếc cả đời.
Nếu như trước khi nói Ô Nạp Sở còn có thể bảo vệ cho lòng thanh minh, nhưng trải qua ông Phật sống này một phen vân vê kéo thả, nàng không khỏi thất hồn lạc phách, giống như vô hạn tâm sự nảy lên trong lòng.
- Lạp Ngõa Nhĩ, dẫn con gái của ngươi đi nghỉ ngơi trước đi.- Sách Nam Gia Thố phân phó: - Ta và đốc sư đại nhân có lời muốn nói.
- Vâng...
Nặc Nhan Đạt Lạp phủ phục hành lễ, sau đó dẫn con gái lui xuống.
Sách Nam Gia Thố cũng cho hạ nhận lui ra, trong đường chỉ còn lại hắn và Thẩm Mặc. Thẩm Mặc mỉm cười hỏi:
- Thượng sư xem ta có phật duyên không?
Phật sống đi xuống pháp tọa, ngồi ở vị trí của Nặc Nhan Đạt Lạp lúc trước rồi cười nói:
- Đương nhiên là có, thật ra bản thân đốc sư không biết, ngài cũng là một vị tỷ khưu chuyển thế của Hoàng Giáo ta.
- Hả?
Thẩm Mặc ngưng lại ly trà đang bưng trên tay, nhìn Sách Nam Gia Thố nói:
- Vì sao bản thân ta không biết?
- Chuyển thế linh đồng là cần phải có cao tăng tiếp dẫn giáo huấn, tu hành hơn 10 năm mới có thể ngộ được bản thân của mình.- Sách Nam Gia Thố thần bí cười nói: - Mà sư đệ chuyển thế tại Trung Nguyên, giáo ta tại Hán địa bất lực, vô pháp tiếp dẫn sư đệ, cho nên sư đệ vẫn xuất phát từ trạng thái lờ mờ, vô pháp hiểu kiếp trước của mình.
- Ha ha...
Thẩm Mặc đưa ly trà lên môi, chậm rãi hớp một ngụm trà bơ không quen uống lắm, tâm niệm thay đổi chốc lát mới mỉm cười nói:
- Vậy làm sao mới có thể hiểu được kiếp trước?
- Nếu là tuổi nhỏ chưa kịp vỡ lòng, chỉ cần tỷ khưu quán đỉnh là được.- Sách Nam Gia Thố nói: - Nhưng hôm nay sư đệ đã qua cái tuổi lập niên, đã sớm tâm trí thành thục, khó có thể dao động, cố quán đỉnh có thể sẽ nhiễu loạn thần chí của ngươi, không thể làm.
Thoáng dừng lại hắn mới nói:
- Cho nên ngoại trừ bản thân tu hành, không còn con đường nào khác.
"..." Thẩm Mặc gật đầu, biểu thị đã biết.
- Có lẽ sư đệ đang cho là ta đang nói dối.- Sách Nam Gia Thố cười rộ lên nói: - Nhưng ta có thể chứng minh cho sư đệ xem.
- Làm sao chứng minh? - Thẩm Mặc trầm giọng nói.
- Dùng phương pháp Mật tông của ta.- Sách Nam Gia Thố càng cười đến thần bí hơn: - Thế nhưng muốn sư đệ phải hoàn toàn cởi mở tâm linh với ta, bởi vì mặc dù sư đệ chưa từng tu luyện, nhưng dù sao cũng là tỷ khưu chuyển thế, tinh thần hết sức cường đại, trừ phi sư đệ chủ động buông ra, bằng không ta cũng không thể giúp được.
Thẩm Mặc nhíu mày một cái rồi xòe ra, tâm tình trở nên có chút phức tạp... Mặc dù y không tin quỷ thần, nhưng đối phương dù sao cũng là thánh tăng một phương của Phật Giáo Tây Tạng, mãi cho đến 500 năm sau vẫn được giáo đồ cuồng tin, thủ đoạn đạo hạnh đều tuyệt đối không thể khinh thường. Vô ý thức nghĩ muốn cự tuyệt, rồi lại mơ hồ cảm thấy đối phương sẽ không hại mình, bởi vì nó đối với hắn không có chỗ tốt gì.
Thấy y trầm ngâm, Sách Nam Gia Thố cũng không nóng nảy, chỉ đốt thêm một cây Tạng hương rồi cắm ở giữa hai người.
'Mà thôi... ' Thẩm Mặc rất nhanh liền minh bạch tình cảnh, lúc này cự tuyệt là không có khả năng rồi, vậy cũng chỉ có cẩn thận ứng phó, nghìn vạn lần không thể trúng kế đối phương. Y liền gật đầu, trầm giọng nói:
- Mời.
Sách Nam Gia Thố vươn tay nói:
- Xin đưa tay phải của sư đệ cho ta.
Thẩm Mặc theo lời vươn tay, Sách Nam Gia Thố nhẹ nhàng cầm lấy, mỉm cười nói:
- Nhắm mắt lại, hít thở từ từ, nghe ta tụng một đoạn kinh văn.
Thẩm Mặc liền nhắm mắt lại, chậm rãi hít thở từ từ, nghe Sách Nam Gia Thố dùng một loại thanh âm trầm thấp dễ nghe ngâm thần bí Phạn âm.
Ban đầu Thẩm Mặc còn bảo trì cảnh giác, nhưng Phạn âm này lấy một loại tiết tấu kỳ quái truyền vào trong đầu y, lại dẫn dắt hô hấp của y từ từ chậm lại. Bất tri bất giác cả người cảm giác mơ màng, yên ả, cũng chìm vào giấc ngủ sâu, nhưng hình như lại rõ ràng minh bạch... Lại giống như trở về với trạng thái trẻ con, sinh mệnh lại bắt đầu một lần nữa. Y thấy được kiếp trước của mình, thuở nhỏ cha mẹ mất sớm, ở trong viện phúc lợi đến 16 tuổi thì thi đỗ vào trường đại học trọng điểm số một số hai toàn quốc, sau khi tốt nghiệp về quê bước vào một cơ quan Chính phủ, 10 năm rèn luyện, rốt cuộc đã đến thời gian xuất đầu, nhưng sau một lần bệnh nặng thì hôn mê, thần kỳ về tới 500 năm trước, trở thành một thiếu niên 14 tuổi tên Triều Sinh. Sau đó từ nỗi đau phụ tử gắn bó đến niềm vui động phòng hoa chúc; từ gian khổ học tập đến đắc ý kim bảng đề danh; từ thân hãm lao tù đến niên thiếu đắc chí; từ lệnh doãn một phủ Giang Nam đến tể chấp Long Khánh triều; từ tiểu tốt thời Nghiêm đảng đến nhất ngôn cửu đỉnh hậu Từ đảng; Từ chiến trường Đông Nam gian nan đến thảo nguyên Tái thượng (phương Bắc ngoài Trường Thành) hào hùng; Từ cùng chung chí hướng đến tính toán nhau trở mặt thành thù...
Từng màn lướt qua, từng đợt vui buồn trùng kích tâm linh y, khiến y khi thì lã chã rơi lệ, khi thì tự than tự vãn...
********
Loại trạng thái giằng co này không biết bao lâu, khi y mở mắt ra thì cây Tạng hương vừa mới cháy rụi. Y thấy Sách Nam Gia Thố đang mỉm cười nhìn mình. Y đưa tay xoa gương mặt mình, phát hiện hình như mình đã trở lại cái thời 18 tuổi, tâm tư thanh minh, sức sống vô cùng.
- Sư đệ đã hiểu ra chưa? - Sách Nam Gia Thố mỉm cười hỏi.
- Ngươi thôi miên ta? - Thẩm Mặc ý thức được dị thường của mình, nhưng cũng không cảm thấy tức giận cái gì.
- Ta chỉ cho sự đệ thấy rõ kiếp trước của mình thôi.- Sách Nam Gia Thố nghiêm mặt nói: - Sư đệ còn chưa rõ mình cũng là chuyển thế sống lại sao?
"..."
Thẩm Mặc đăm đăm nhìn Sách Nam Gia Thố, sau một lát y khẽ cười một tiếng nói:
- Phải thì sao? Ta cũng không làm lạt ma đâu.
- Sư đệ chấp niệm rồi.
Sách Nam Gia Thố mỉm cười nói:
- Sư đệ có thừa nhận hay không, sự thực là ở chỗ này. Trong minh minh tự có nhân quả, thúc đẩy bộ dạng của hai ta, cho nên mới có lần thiên lý gặp gỡ này...
Rồi hắn đột nhiên quát lên:
- Sư đệ, ta đến là vì tiếp dẫn cho ngươi đấy!
Trong đầu Thẩm Mặc ông một tiếng, trong nháy mắt này y cảm giác như mình đã bị nhìn thấy. Y biết Mật tông có rất nhiều pháp môn thần bí, cũng tin tưởng Phật sống chuyển thế có chỗ ảo diệu của nó. Càng quan trọng là, bí mật bản thân y thực sự là làm người hai thế hệ hình như bị đối phương vạch trần rồi... Lẽ nào phải quy y thật?
Thế nhưng, cho dù nhìn thấu thì sao? Đối với chính khách thì nói dối không chớp mắt đó là tố chất cơ bản không quan tâm không quan tâm sự thực làm sao, mình nói phải thì phải, không phải cũng phải, nói không phải là không phải, phải cũng không phải. Dù sao thì, chỉ cần không ở trước mặt mọi người bị bóp họng thì cái khác đều là phù vân.
Cho nên phục hồi tinh thần lại từ trong chấn động lúc đầu, Thẩm Mặc liền bắt đầu nhanh chóng vận chuyển đầu óc, phân tích tiền căn hậu quả của việc này... Đầu tiên mình khẳng định không phải là thánh tăng chuyển thế gì sất. Mình trước sau hai đời người, tuổi quá nửa trăm, thấy tiểu cô nương trẻ tuổi xinh đẹp còn nhịn không được nghĩ lung tung nữa mà, thánh tăng chuyển thế lẽ nào có đức hạnh này? Huống chi, cho dù mình là thánh tăng thì sao? Lẽ nào cùng hắn về miếu lạt ma quy y xuất gia thật?
Có thừa nhận hay không thì có gì khác nhau? Thẩm Mặc không khỏi cười tự giễu rồi nắm giữ tư tưởng của mình lần nữa. Cho dù đối phương nhìn thấu mình thì sao, hiện tại mình cũng nhìn thấu đối phương... Sách Nam Gia Thố, tương lai người này không chỉ là một trong ba vị cao tăng được người kính trọng, còn là một chính trị gia trác việt!
Trong đầu Thẩm Mặc nhanh chóng xẹt qua tư liệu Tạng địa mà Quân tình ti thu thập được...
Phật Giáo Tây Tạng giáo phái san sát, trước kia có bốn giáo phái chủ yếu dựa theo trang phục cùng màu sắc kiến trúc phân hồng, bạch, hoàng, hắc tứ giáo. Mà phái Cách Lỗ (Hồng giáo) do nhất đại thánh tăng Tông Khách Ba đại sư sáng chế giáo lý của nó có nguồn gốc với phái Cát Đương (Hắc giáo), nhưng nó vừa có đặc điểm rõ nét của mình, lại vừa có chế độ quản lý nghiêm mật, cho nên rất nhanh cái sau vượt cái trước, trở thành một trong những phái quan trọng của Phật Giáo Tây Tạng, xưng là tân phái Cát Đương, cũng xưng Hoàng Giáo.
Sự hưng khởi của phái Cách Lỗ không thể tránh sẽ nhận được các giáo phái khác cùng chính quyền thế tục ủng hộ họ căm thù và xa lánh. Hơn nữa phái Cách Lỗ mới thành lập bởi vì căn cơ văn hóa xã hội còn chưa vững chắc, chỉ có thể sinh tồn dưới cánh chim của Xiển Hóa Vương thống trị Lạp Tát (Lhasa). May lịch đại Xiển Hóa Vương thờ phụng phái Cách Lỗ, hơn nữa giáo phái của nó xác thực có chỗ phái của hắn không bằng, bởi vậy phát triển rất lớn mạnh, chùa miểu trải rộng khắp địa khu hậu Tạng.
(Xiển Hóa Vương: Phong tước của Minh triều đối với thủ lĩnh chính quyền Mạt Mộc Trúc Ba (gọi tắt là Mạt Trúc) - Tây Tạng. Lúc đó là một trong Tạng tộc ngũ vương.)
Nhưng mà ngày vui ngắn chẳng tầy gang, theo Xiển Hóa Vương đời thứ 8 -- Trát Ba Kiên Tán của Mạt Trúc vương tộc qua đời, nội bộ vương tộc vì tranh đoạt quyền kế thừa mà phát sinh nội chiến, thế lực của Mạt Trúc vương tộc từ thịnh mà suy. Không lâu sau Nhân Bạng Ba gia tộc lấy trọng thần và ngoại thích hai tầng thân phận can thiệp kế thừa vương vị, thay quyền chính vụ, thậm chí dùng võ lực uy hiếp vương thất. Nhân Bạng Ba gia tộc không chỉ ở trên chính trị phản bội Mạt Trúc vương tộc, trên tôn giáo cũng liên kết với Hồng giáo, bài xích, đả kích phái Cách Lỗ.
Tình cảnh của Phái Cách Lỗ chuyển biến bất ngờ, thoáng đã đến sát biên giới của sinh tử tồn vong. Dưới áp lực sinh tồn bức thiết yêu cầu một cơ cấu lãnh đạo ổn định, để toàn bộ tăng chúng của phái Cách Lỗ đoàn kết lại quanh nó, cùng đấu tranh với các thế lực đối địch. Vì vậy, phái Cách Lỗ đầu tiên áp dụng biện pháp để cho các nhân vật lãnh tụ của họ chuyển thế kế thừa nhau, do đó tránh được nguyên nhân nội bộ vì cướp đoạt quyền lãnh đạo mà gây nên tranh cãi, đạt được một tập đoàn lãnh đạo vững chắc. Hơn nữa bởi người lãnh đạo trước sau ở trên danh nghĩa là một người, quan hệ giữa người với người của hắn có thể danh chính ngôn thuận kế thừa tiếp, tư cách của hắn cũng có thể nâng lên địa vị trên quý tộc thế tục, càng dễ dàng chu toàn với các quý tộc lãnh chúa.
Sau khi chế độ 'Phật sống chuyển thế' xác lập, địa vị của phái Cách Lỗ rốt cuộc vững chắc, cũng dưới sự lãnh đạo của 'Phật sống' Căn Đôn Gia Thố có năng lực chính trị cao siêu trợ giúp Mạt Trúc vương tộc đuổi đi Nhân Bạng Ba từ Lạp Tát, cũng đạt được địa vị chủ trì Kỳ nguyện đại pháp hội. Căn Đôn Gia Thố còn tiến hành một loạt cải cách chính trị, khiến phái Cách Lỗ tổ chức càng nghiêm mật, càng có lực ảnh hưởng chính trị.
Nhưng mà lý tưởng còn chưa biến thành hiện thực thì Căn Đôn Gia Thố viên tịch, khiến giáo phái một lần nữa rơi vào nguy cơ. Điều này khiến cho thượng tầng phái Cách Lỗ quyết định tiếp tục chấp hành chế độ chuyển thế Phật sống, đem lựa chọn chuyển thế linh đồng xem như là đại sự quan hệ đến tồn vong của giáo phái. Trải qua tìm kiếm, rốt cuộc đã tìm được một đứa bé lý tưởng, hắn chính là Sách Nam Gia Thố ở trước mặt Thẩm Mặc.
Căn cứ điều tra tỉ mỉ của Quân tình ti, gia tộc thế tục của Sách Nam Gia Thố có quan hệ mật thiết với Mạt Trúc vương tộc, mà không phải là gia đình tiểu nông nô phái Cách Lỗ tuyên bố với bên ngoài... Cha ruột của hắn đảm nhiệm chức vị quan trọng trong chính quyền tại Lạp Tát, mẹ hắn còn là chi chính của Mạt Trúc vương tộc, hơn nữa hai phu thê đều là tín đồ phái Cách Lỗ.
Đến lúc này, điểm khác nhau giữa phái Cách Lỗ và các giáo phái khác đã triệt để hiển hiện -- đó chính là tính chính trị mạnh mẽ!
Khi Sách Nam Gia Thố trưởng thành, tiếp nhận chức vụ lãnh tụ phái Cách Lỗ thì tình thế lại hết sức bất lợi đối với giáo phái của hắn -- mặc dù Nhân Bạng Ba gia tộc bị đuổi xuống đài, nhưng mà chính quyền Mạt Trúc đã cực kỳ suy sụp, một gia tộc quyền thế khác là Tân Hạ Ba gia tộc nhân cơ hội nắm quyền. Gia tộc này vẫn còn ủng hộ Hồng giáo, không chỉ trả lại tư cách chủ trì Kỳ nguyện đại pháp hội cho Hồng giáo, còn cấm tăng lữ phái Cách Lỗ tham gia đại pháp hội.
Phái Cách Lỗ lần thứ hai bị biên duyên hóa tại Lạp Tát. Vì sinh tồn, bọn họ tận hết sức lực tìm kiếm người giám hộ và người ủng hộ mới trên chính trị và quân sự của mình, để thoát khỏi loại quẫn cảnh bị kỳ thị, xa lánh thậm chí chết yểu này. Thế nhưng địa khu Tây Tạng đã không có thế lực có thể đảm nhiệm được nữa.
Đúng lúc này, Yêm Đáp hãn cường thế kinh doanh Thanh Hải, thực lực nó thể hiện vượt xa bất cứ một thế lực nào tại Tạng khu, rất nhiều tăng chúng của Tạng tộc đã quy phụ hắn. Rất hiển nhiên, phái Cách Lỗ đưa ánh mắt tìm kiếm hậu đài đặt lên người hắn... Vấn đề là, mặc dù con trai của Yêm Đáp - Bính Thỏ Đài Cát đóng ở Thanh Hải đã quy y đạo Lạt-ma, Yêm Đáp cũng không bài xích loại tôn giáo này, nhưng cũng không cho phép hắn truyền bá trong dân chúng.
Căn cứ vào tình báo tin cậy, cậu của Sách Nam Gia Thố là A Hưng lạt ma đã bí mật đến Hồi Hột để cầu kiến Yêm Đáp, nội dung đàm thoại cụ thể thì không được biết, nhưng kết quả là Yêm Đáp đã tôn sùng A Hưng lạt ma là thượng khách, cũng phái con trai của mình Bính Thỏ Đài Cát mời Sách Nam Gia Thố đến Hồi Hột gặp mặt, nhưng Sách Nam Gia Thố không có đáp ứng ngay.
********
Bởi vì hầu như đồng thời, lời mời đến từ tể tướng Đại Minh cũng đặt ở trước mặt Sách Nam Gia Thố.
Mặc dù mấy năm nay Yêm Đáp hãn bị vương triều Đại Minh lấy hết mặt mũi, cũng rút ra hết tứ vệ của Minh triều tại tái ngoại Thanh Hải, chỉ còn lại một Tây Ninh Vệ. Nhưng Tạng địa dù sao vẫn cung phụng Đại Minh là chủ -- lúc trước Vĩnh Lạc hoàng đế tại Tạng địa phong tam đại pháp vương, phân lĩnh đạo Lạt-ma; phong hộ giáo ngũ vương, phân lĩnh Tạng địa, cũng cho phép họ định kỳ triều cống... Bởi vì triều đình từ trước đến nay tuân theo chính sách triều cống 'mỏng tới dày đi', thật ra đã chỉ rõ cho họ chỗ tốt, để đổi lấy họ ngoan ngoãn nghe lời. Cho nên từ Vĩnh Lạc đến nay, lãnh tụ tăng chúng Tạng địa tranh nhau triều cống, mặc dù tăng thêm gánh vác tài chính cho quốc gia, nhưng chính là bởi vì loại truyền máu này khiến cho Minh và Tạng địa vẫn gắn bó quan hệ chủ thần.
Đến cái hẹn của Yêm Đáp hay là cái hẹn của Đại Minh, nếu như là người bình thường nói chung sẽ lựa chọn người trước, dù sao lúc đó Đại Minh còn chưa biểu hiện ra ý đồ thu phục Hà Sóc, căn cứ vào tư tưởng chỉ đạo 'Huyện quan không bằng hiện quản', cũng sẽ trước tiên đặt một bên lời hẹn của Đại Minh, để tránh khỏi chọc giận Yêm Đáp.
Nhưng là một lạt ma chính trị mạnh nhất trên lịch sử, Sách Nam Gia Thố không mắc phải hồ đồ, vừa mới cử hành quân duyệt hắn liền hỏi tăng lữ trú kinh mượn hệ thống dịch truyền của Đại Minh mà đến, cũng đưa ra phán đoán Minh triều khả năng sẽ có đại động tác, cho dù không có đại động tác cũng có đại quyết tâm. Tại giờ phút quan trọng này, nếu hắn không để ý đến lời mời của tể tướng Đại Minh, đi đến cuộc hẹn với Yêm Đáp -- đại địch của Minh triều, không thể nghi ngờ sẽ cái được không bù đắp đủ cái mất... Chí ít Sách Nam Gia Thố cho là như vậy.
Vì vậy hắn lực bài chúng nghị, lập tức trả lời Đại Minh, vui vẻ khởi hành.
Trước khi xuất phát, A Hưng lạt ma, người chủ trương cùng Yêm Đáp gặp mặt có chút lo lắng hỏi:
- Bên Yêm Đáp hãn nên trả lời thế nào?
- Gia Cát Lượng còn phải ba lần đến mời cơ mà.- Sách Nam Gia Thố bác học đáp: - Vừa mời tới ngay, bản giáo bị coi nhẹ, ngày sau địa vị cũng chịu ảnh hưởng.
- Vậy, không sợ bị Đại Minh coi nhẹ sao? - A Hưng lạt ma thầm nghĩ ngươi không nghĩ đến hai phương diện sao?
- Ta đoán, lần này tể tướng Đại Minh cùng chúng ta không mưu mà hợp, chúng ta lại không dự định truyền giáo tại Hán địa, không cần thiết làm ra vẻ.- Sách Nam Gia Thố thản nhiên nói: - Huống chi quan viên của Thiên triều thượng quốc rất thích hư vinh, ngươi kính hắn một thước, hắn sẽ trả lại ngươi một trượng, chúng ta không chịu thiệt đâu.
Đến nửa đường hắn mới biết Đại Minh xuất binh Hà Sóc, cũng thuận lợi lấy được thành Đông Thắng, bắt Tế Nông Mông Cổ làm tù binh. Sách Nam Gia Thố ngoài may mắn cũng càng thêm vững tin phán đoán của mình... Đại Minh là muốn mình hoàn thành việc trên chiến trường làm không được rồi.
Sách Nam Gia Thố sẽ không cự tuyệt, bởi vì nếu có sự ủng hộ của Đại Minh, hắn truyền giáo trên thảo nguyên sẽ thành như hổ thêm cánh. Nếu như có thể thu phục người Mông Cổ, lại cùng Đại Minh làm tốt quan hệ, phái Cách Lỗ không phải vì sinh tồn mà phát sầu, mà phải suy nghĩ làm sao lãnh đạo toàn Tạng rồi.
Bất kể là phương hướng nào, là tể tướng Đại Minh, người chỉ huy cửu biên, Thẩm Mặc đều là nhân vật then chốt để Sách Nam Gia Thố thực hiện mục đích, nếu như có thể quy y người này, đại sự có thể thành!
Cho nên ngay từ đầu Sách Nam Gia Thố liền đem mục tiêu đặt ở trên người Thẩm Mặc, nhưng mà đối phương hiển nhiên không có cảm tình gì với tôn giáo, mình hao hết tâm lực, nói đến ba hoa thiên địa... Vì miêu tả phương tây cực lạc, thậm chí mượn dùng thuyết pháp của tịnh thổ tông cũng chỉ vì có thể đem y quy y. Bất đắc dĩ ba ngày liền, hai cha con kia đã bị tẩy não vài lần mà Thẩm đốc sư vẫn nghiêm túc nghe giảng này lại vẫn chỉ lấy ánh mắt thưởng thức đáp lại, trên thực tế là thờ ơ.
Đối với loại phần tử ngoan cố chỉ dựa vào miệng lưỡi vô pháp thuyết phục này Sách Nam Gia Thố đành phải xuất tuyệt chiêu. Bắt đầu một ngày hắn liền chậm rãi bố cục, đầu tiên là lợi dụng tình cảnh Nặc Nhan Đạt Lạp quy y, lại dùng mấy ngày qua quan sát lời nói và việc làm của Ô Nạp Sở cho ra kết luận, nghiêm khắc chấn động một chút tâm phòng bị của Thẩm Mặc. Thấy y vẫn là thờ ơ, đành phải dùng tới chân ngôn mật pháp, kết hợp An Hồn chi hương thôi miên đối phương, để y trong hoàn cảnh thôi miên cảm thụ thế giới cực lạc phương tây... Sau khi y phục hồi tinh thần lại, lại lấy ngôn ngữ cực giàu tính đầu độc, thậm chí lấy sư tử hống để khiến y quy y.
Nhưng mà, kết quả, thằng nhãi này không ngờ vẫn không chịu quy y, đây vẫn là lần đầu Sách Nam Gia Thố bố pháp điểm hóa mười mấy năm qua. Hắn tức giận thiếu chút nữa phạm phải sân giới.
Nhưng dù sao hắn cũng là cao tăng chuyển sinh ba đời, nét mặt không chút dị dạng nói:
- Sư đệ vốn là tỷ khưu đã có lĩnh ngộ, tự nhiên có pháp môn tu hành của mình. Xem ra đời này sư đệ đã quyết định phải tu hành trong triều rồi.
Đoạn hắn như hiểu ra cười nói:
- Cũng đúng, đang ở công môn tu hành tốt mà, sư đệ chỉ cần kiên định, nhất định tiến triển cực nhanh, thật sự khiến ta ước ao chết mất... Chỉ là phải ghi nhớ kỹ, cô gắng ít dính dáng tới nhân quả, làm việc thiện nhiều!
- Đa tạ sư huynh chỉ bảo.- Thẩm Mặc cũng thấy nên thu lại, mắc cho đối phương một bậc thang: - Ngày sau còn phải nhờ sư huynh chỉ giáo nhiều hơn.
- Chỉ giáo chưa nói tới, chỉ đem một số thứ sư đệ quên cho trả lại cho sư đệ thôi.- Sách Nam Gia Thố cười nói: - Bộ công pháp lúc nãy lát nữa ta sẽ truyền cho sư đệ. Mỗi ngày luyện một lần, có thể giúp mình bách bệnh bất xâm, thần thanh mắt sáng, bất kể tương lai sư đệ làm cái gì cũng rất có ích lợi.
- Công pháp này có thể biết được nội tâm người khác sao? - Thẩm Mặc cười hỏi.
- Đương nhiên không thể.- Sách Nam Gia Thố nhìn y một cái, cười nói: - Trái tim người có linh hồn thủ hộ, cho dù tiến nhập vào loại trạng thái huyền diệu cũng sẽ vô ý thức bảo hộ tâm linh của mình. Có lẽ có pháp thuật tà đạo có thể cưỡng mở ra được thủ hộ, nhìn được nội tâm người. Nhưng hai ta là tỷ khưu, nếu quy y phật pháp thì sao có thể nhúng chàm tà ma ngoại đạo chứ?
Hắn giới thiệu rõ ràng như thế hiển nhiên không chỉ là vì để cho Thẩm Mặc lý giải, còn có chối bỏ ý của mình:
- Pháp này chỉ có thể dẫn đạo ngươi trở lại nguyên trạng, lúc nào cũng lấy cái tâm hài đồng để tu chỉnh sai lầm trên phẩm hạnh của mình.
- Thế thì có hơi đáng tiếc.- Thẩm Mặc cười rộ lên nói: - Tuy nhiên cũng tốt, người có quyền lợi che giấu bí mật của mình.
- Đúng vậy.- Sách Nam Gia Thố gật đầu, cười nói: - Chỉ là bí mật của sư đệ có hơi nhiều đấy.
- Ha ha ha...
Thẩm Mặc cười nói:
- Lẽ nào sư huynh không có bí mật?
- Người tu hành phải có xích tử chi tâm (tấm lòng con đỏ).- Sách Nam Gia Thố lắc đầu cười nói: - Phải tri vô bất ngôn, ngôn vô bất tẫn, mới có thể nhị chướng (phiền não chướng, sở tri chướng) thanh tịnh, không ngại tu hành.
Lời này không thể nghi ngờ tuyên bố đấu pháp kết thúc, tiến nhập chính đề.
- Thật chứ? - Thẩm Mặc tự nhiên nghe ra rồi, trong lòng y quả thật rất bội phục cách nắm được, bỏ được của Sách Nam Gia Thố. Y cũng không khách khí, mỉm cười nói: - Vậy ta muốn hỏi, đầu năm, A Hưng lạt ma vì sao phải đi thảo nguyên.
- Là ta phái hắn đi.- Sách Nam Gia Thố quả nhiên thẳng thắn nói: - Vì để thuyết phục Yêm Đáp tiếp thu bản giáo.
- Kết quả thì sao? - Thẩm Mặc hỏi.
- Yêm Đáp hãn đã quy y rồi.- Sách Nam Gia Thố có chút buồn bực liếc y một cái, thầm nghĩ, lạt ma dưới ta cũng có thể đối phó Yêm Đáp, hiện tại bản tọa tự thân xuất mã lại không bắt được ngươi, thật sự quá không nể tình mà. Hay là nói Phật Giáo Tây Tạng ta trời sinh không thích hợp với người Hán?
Đại khái vào 20 năm trước, Yêm Đáp suất quân thảo phạt người Ngoã Lạt tại Thanh Hải, rất nhanh đạt được thắng lợi. Trên đường hồi quân Yêm Đáp hãn đã gặp phải một nhánh đội ngũ người Tạng, thấy họ chở đầy hàng hóa thì còn ngại gì nữa? Thế là toàn bộ thương đội đã thành tù binh của hắn.
Đối với người Mông Cổ lấy chiến đấu mà sống thì lần cướp bóc này thật sự không đáng nhắc tới. Dựa theo lệ cũ, tài vật cùng tù binh sẽ được phân phối, trở thành tài sản và nô lệ của bộ hạ Yêm Đáp hãn. Nhưng trong thương đội có hơn 100 tăng nhân áo đỏ nón vàng, lạt ma dẫn đầu yêu cầu được gặp Yêm Đáp.
Xuất phát từ hiếu kỳ, cùng cảm giác thân thiết nói không rõ, Yêm Đáp đã đáp ứng. Vị phật đồ đọc đủ thứ kinh thư đó gặp được Yêm Đáp hãn liền biểu đạt với hắn lời chúc phúc của Phật tổ, cho hắn biết những tù binh trước mặt hắn không phải có thể trở thành nô lệ của hắn, bởi vì bọn họ đã hiến thân với Phật tổ vĩ đại cả rồi. Đồng thời hắn nói ra cái tên làm cho Yêm Đáp chấn động -- đại nguyên quốc sư Bát Tư Ba. Họ là đệ tử của Bát Tư Ba.
Đây là tăng lữ từ sau Nguyên triều diệt vong người Mông Cổ lần đầu tiên tiếp xúc với Phật Giáo Tây Tạng. Có lẽ là lời nói của các phật đồ làm cho Yêm Đáp hãn cảm thấy chấn động và cũng bình tĩnh lại. Có lẽ là tôn trọng đối với tôn giáo mà tổ tiên đã từng tôn sùng, Yêm Đáp hãn thả những lạt ma này ra.
Sau đó song phương liền về nhà mình, không có liên hệ gì nữa.
Thế nhưng 20 năm sau, tăng lữ năm đó thuyết phục Yêm Đáp -- A Hưng lạt ma, lại đến thăm vương thành của Yêm Đáp.
Mặc dù xa cách 20 năm nhưng Yêm Đáp hãn vẫn bị thuyết phục bởi phong độ và thành kính của tăng lữ uyên bác này, bởi vậy cũng không phản cảm đối với lạt ma. Trong nghi hoặc hắn lần thứ hai tiếp kiến A Hưng lạt ma, hỏi đối phương ý đồ đến đây.
- Hiện thế hóa thân của Bát Tư Ba đại sư đã thức tỉnh, hắn phái ta đến đây nói cho Khả Hãn, ngài chính là hóa thân của Tiết Thiền hãn kiếp này!" - A Hưng lạt ma nói rõ điểm chính.
Tiết Thiền hãn đó là Hốt Tất Liệt, năm đó Nguyên thế tổ Hốt Tất Liệt sắc phong Bát Tư Ba là quốc sư để giúp đỡ chính quyền Tát Già, mà phật giáo cũng bị Hốt Tất Liệt phá vỡ truyền thống, thay đổi nguồn suối tâm linh của chế độ kế thừa hãn vị. Song phương hợp tác chặt chẽ, đã thành lập cơ chế giáo hội.
Những lời này đối với Yêm Đáp hãn như đề hồ quán đỉnh, khiến hắn giống như đã tìm ra được ngọn đèn sáng dẫn đường!
Kiếp này Yêm Đáp tiếc nuối lớn nhất là cái gì? Cũng không phải không thể cùng Minh triều thông biên hỗ thị, mà là ngôi vị đại hãn toàn Mông Cổ mà bản thân thủy chung đau khổ theo đuổi nhưng không cách nào đạt được. Hắn nỗ lực hơn nửa cuộc đời mà không thể được đền bù sở nguyện, là hắn không có đủ thực lực sao? Phóng nhãn Mông Cổ, ai có thể đánh một trận được với dũng sĩ dưới trướng của hắn? Là hắn không đủ khôn ngoan sao? Đồ Môn hãn bị đuổi đến Sát Cáp Nhĩ so sánh với hắn tựa như gà rừng và hùng ưng. Nhưng vì sao đối phương vẫn là đại hãn được Mông Cổ công nhận mà mình thì thủy chung không thể thay thế được chứ?
Nguyên nhân chỉ có một, mình xuất thân chi thứ, mà đối phương là chính thống chết tiệt. Cái chính thống chó má này mặc dù không đáng một đồng nhưng có thể làm cho anh hùng ôm nỗi hận cả đời. Tựa như phụ thân của hắn, con thứ ba của Đạt Duyên Hãn, Tế Nông Mông Cổ Ba Nhĩ Tư Bác La Đặc. Sau khi Đạt Duyên Hãn chết, đứa cháu Bác Địch tuổi nhỏ tự xưng đại hãn, nhưng dẫn tới các huynh đệ khác không phục. Đợi Bác Địch sau khi thành niên liền cùng nhau bức phụ thân của hắn thoái vị, đem Hán tặng cho chính thống.
Phần nhục nhã này khiến phụ thân của Yêm Đáp không gượng dậy nổi, rất nhanh trong một tiếng cười nhạo vội vàng qua đời. Điều này cũng kích thích Yêm Đáp khi còn nhỏ tuổi, từ đó hắn cả đời nam chinh bắc chiến, đông phạt tây thảo, liều mạng làm mình lớn mạnh, chính là nghĩ có một ngày có thể thực hiện tâm nguyện chưa toại của phụ thân, trở thành đại hãn chân chính của toàn Mông Cổ!
Mấy năm nay, thế lực của hắn từ Thượng Cốc cho đến Cam Lương trải dài nghìn dặm, trở thành thủ lĩnh tối cao trên thực tế của nam bắc đại mạc, chỉ còn kém đại hãn cái mũ miện. Muốn chân chính thay thế được đại hãn, 'vĩnh viễn đứng đầu chư bộ phương bắc', cản trở duy nhất chính là quan niệm truyền thống 'chế độ con trưởng kế thừa của Hãn thống' -- các bộ lạc Mông Cổ vẫn còn tôn hãn đình của Sát Cáp Nhĩ là chính thống, kiên quyết không muốn thay đổi địa vị. Hắn lại ngại tình máu mủ không thể hạ thủ độc ác với Đồ Môn hãn luôn tránh xa. Thế là cứ thế kéo dài, mắt thấy tóc mai đã nhiễm sương, anh hùng trì mộ, lý tưởng trong lòng vẫn khó có thể thực hiện.
Vì đạt thành nguyện vọng hắn đã thành lập quốc gia của mình tại Hồi Hột -- Kim quốc, tự xưng Kim quốc Khả Hãn. Đối với sự thành lập của chính quyền này, bất kể là Đại Minh hay là Hãn đình của Mông Cổ phản ứng đều hết sức lãnh đạm. Điều này làm cho Yêm Đáp ngoài an tâm lại cảm thấy hết sức thất vọng, thì ra họ đều coi chính quyền này như một trò cười... Đúng vậy ngay cả bản thân ta cũng không tin Kim quốc Khả Hãn này có thể thay thế đại hãn Mông Cổ đã khát vọng từ nhỏ. Lẽ nào bởi vì mình xuất thân chi thứ mà cuộc đời này đã định trước không thể trở thành chính thống sao?
Thế nhưng sự xuất hiện của A Hưng lạt ma, thuyết pháp mà hắn mang đến làm cho Yêm Đáp thoáng cái thì đã tìm được vũ khí đối phó với lực lượng truyền thống... Nếu như ta làm cho tôn giáo này truyền khắp thảo nguyên, tôn giáo mà mọi người quy y có thể chứng minh ta là hóa thân của thế tổ, tâm nguyện của mình không phải là đạt thành rồi sao?
Nghĩ tới đây, Yêm Đáp hãn niên cận cổ hi (~70t) trở nên hưng phấn, hùng tâm đang tiêu tan lại hội tụ trên người. Liên tiếp vài ngày, Yêm Đáp hãn cùng A Hưng lạt ma diện đàm, nghe hắn tường tận giải thích hàm nghĩa cụ thể của 'Tam bảo, lục đạo, bát giới' phật giáo, giới thiệu kinh điển phật giáo [Cam Châu Nhĩ] và [Đan Châu Nhĩ].
Yêm Đáp hãn bị hấp dẫn thật sâu, khi A Hưng lạt ma đi thì hắn đã quy y Hoàng Giáo, trở thành tín đồ của phái Cách Lỗ. Hắn khẩn cấp hy vọng có thể nhìn thấy Sách Nam Gia Thố, hy vọng Bát Tư Ba kiếp này có thể dành cho mình lực lượng xưng hãn. Nhưng trước khi nghênh tiếp Phật sống thì phải có chỗ ở, vì vậy Yêm Đáp hạ lệnh dốc toàn lực kiến tạo một tòa miếu lạt ma rộng lớn tại Hồi Hột.
Trên thảo nguyên thiếu thốn tài nguyên, xây dựng một tòa miếu lạt ma huy hoàng tất phải cần bóc lột đối với người Hán tại Bản Thăng, mâu thuẫn từ từ trở nên gay gắt. Nhưng vì tâm nguyện suốt đời Yêm Đáp vẫn khư khư cố chấp. Năm nay miếu lạt ma sắp sửa kiến thành, hắn liền phái đoàn đặc sứ do Bính Thỏ Đài Cát dẫn đầu mang theo rất nhiều lễ vật quý giá đi đến Tạng cung thỉnh Sách Nam Gia Thố đến Mông Cổ truyền giáo.
Thấy Yêm Đáp nhiệt liệt hưởng ứng, Sách Nam Gia Thố tự nhiên rất là mừng rỡ, ngay khi hắn suy nghĩ có khởi hành hay không thì lời mới của Thẩm Mặc đã đến.
**********
- Đây là toàn bộ gặp gỡ giữa ta và Yêm Đáp hãn.
Sách Nam Gia Thố là một người có chừng mực, phía sau tiến nhập chính đề hắn không thần bí nữa mà lấy chân thành nói:
- Về phần có tuyên bố quan hệ giữa Yêm Đáp hãn và Tiết Thiền hãn hay không thì đương nhiên còn phải nghe ý kiến của triều đình.
Trở lại chính sự, Thẩm các lão chấp chưởng càn khôn đã lại trở về, y khẽ hớp một ngụm trà bơ rồi thản nhiên nói:
- Việc đó có quan hệ rất lớn tới sự nghiệp của quý giáo sao?
Sách Nam Gia Thố gật đầu:
- Truyền giáo từ trên xuống dưới có thể làm ít công to; mà truyền giáo từ dưới lên trên không chỉ sẽ làm nhiều công ít, còn có thể bởi vì khuyết thiếu sự bảo hộ của chính quyền thế tục mà trả giá rất nhiều máu, thậm chí dẫn đến thất bại... Đây là kinh nghiệm phái ta dùng nhiều năm trắc trở để đổi lấy.
Rồi hắn thẳng thắn nhìn sang Thẩm Mặc nói:
- Nhưng chỗ hỏng từ trên xuống dưới ở chỗ thủ lĩnh của chính quyền thế tục phần lớn là người hùng tài vĩ lược, sẽ không chỉ bởi vì yêu thích của cá nhân mà cho phép truyền giáo, chỉ có đưa ra lý do khiến họ tâm động mới được.
- Yêm Đáp là chuyển thế của Nguyên thế tổ.- Thẩm Mặc khẽ cười nói: - Mặc dù ta chưa thấy qua Yêm Đáp, nhưng nghĩ đến hắn rất thích thuyết pháp này.
Sách Nam Gia Thố gật đầu nói:
- Triều đình có lo lắng bởi vậy hắn sẽ kiêu ngạo hay không?
- Cái nhìn của sư huynh thì sao? - Thẩm Mặc hỏi ngược lại.
- Không biết.- Sách Nam Gia Thố thành khẩn nói: - Ngã phật từ bi, nếu có thể hóa giải lệ khí nhất ta sẽ tận hết sức mình, khiến họ có thể kính cẩn nghe theo, bãi binh giảng hòa cùng triều đình, vĩnh viễn không vi hoạn.
- Ta tin tưởng.- Thẩm Mặc gật đầu nói: - Đây cũng là một tâm nguyện ta mời sư huynh đến đây.
Rồi y nhìn sang Sách Nam Gia Thố nói:
- Nếu sư huynh thẳng thắn tương đối, vậy ta cũng ngôn vô bất tẫn... Đối với chuyện phái Cách Lỗ truyền giáo tại Mông địa triều đình sẽ hết sức ủng hộ.
Sách Nam Gia Thố nghe xong không có lộ ra hỉ sắc nhiều lắm, hắn đang chờ câu "nhưng mà" của Thẩm Mặc.
Quả nhiên, liền nghe Thẩm Mặc dừng một chút mới nói:
- Nhưng mà, triều đình có ba kiến nghị, hy vọng sư huynh suy nghĩ.
- Sư đệ nói quá lời rồi.- Sách Nam Gia Thố nghiêm mặt nói: - Triều đình có phân phó, sư huynh sao dám không theo?
- Sẽ không khiến sư huynh khó xử đâu.- Thẩm Mặc nở nụ cười tỏa nắng: - Kiến nghị thứ nhất, đó là hy vọng có thể bình đẳng đối đãi với các bộ Mông Cổ.
Sách Nam Gia Thố gật đầu, ý bảo y nói tiếp. Thẩm Mặc liền nói:
- Kiến nghị thứ hai, hy vọng công tác phiên dịch kinh Phật từ Tạng chuyển Mông sẽ do Lễ bộ Đồng Văn quán cung cấp hỗ trợ; cái cuối cùng, mời sư huynh tại thời gian thích hợp hoà giải trận chiến tranh này, để cho giữa Hán Mông vĩnh viễn được sống trong hòa bình.
Nghe xong Thẩm Mặc nói, Sách Nam Gia Thố thật lâu không nói, ba yêu cầu này của đối phương đều có mục đích chính trị rất sâu... Thứ nhất, là muốn phòng ngừa Yêm Đáp thực sự dưới sự ủng hộ của phái Cách Lỗ trở thành đại hãn Mông Cổ nhất thống thảo nguyên; thứ hai, là muốn giáo lí truyền vào Mông Cổ có lợi với triều đình; thứ ba, là hy vọng phái Cách Lỗ trở thành cầu nối hòa bình giữa Mông Hán, mà không phải là giúp đỡ người Mông Cổ đối phó người Hán, cũng không muốn tự chui đầu vào rọ, dưỡng hổ di hoạn.
Đã hiểu mưu đồ của Thẩm Mặc, Sách Nam Gia Thố cũng có chút hiếu kỳ, muốn biết đối phương có tự tin từ đâu... Yêu cầu thứ hai còn dễ nói, về phần thứ nhất và thứ ba thì cho dù hiện tại đáp ứng, mình hoặc là người kế nhiệm bằng mặt không bằng lòng, thậm chí trợ Trụ vi ngược, thế thì triều đình có biện pháp nào chứ?
- Người ngay không nói lời mờ ám.- Nghe ra nghi vấn của đối phương, Thẩm Mặc trầm giọng nói: - Đại Minh đã hạ quyết tâm, toàn lực nâng đỡ hoạt động truyền giáo của Phật Giáo Tây Tạng tại những nơi Tạng Mông Thanh Hải, cũng thay đổi sách lược chia để trị trước kia, chỉ ủng hộ một phái Cách Lỗ.
Tuy Sách Nam Gia Thố định lực siêu nhân, nghe xong lời nói của Thẩm Mặc vẫn nhịn không được tinh thần rung lên, chắp hai tay niệm thanh phật, rồi lại cẩn thận hỏi:
- Không biết triều đình... Vì sao coi trọng phái Cách Lỗ ta, không dối gạt sư đệ, thật ra tình cảnh của phái Cách Lỗ cũng không tốt đẹp.
Thẩm Mặc thầm nghĩ, nếu ngươi đã tốt đẹp rồi thì ta tìm không được ngươi đâu. Nhưng không thể nói như vậy, y khẽ than một tiếng nói:
- Đại Minh kiến quốc 200 năm, cùng các bộ Mông Cổ cũng đánh 200 năm, kết quả ngoại trừ vô số nam nhi chết trận sa trường, bách tính lưỡng tộc nhiều lần trải qua trắc trở, quốc lực dân lực kiệt quệ, ngoài ra không có một kết quả tốt nào... Vẫn không ai làm gì được ai.
Nói đoạn y thở dài một hơi:
- Hiện tại, đã đến lúc hỏi một câu, vì sao nhất định phải ngươi chết ta sống, lẽ nào đôi bên không thể hoà thuận ở chung sao?
Sách Nam Gia Thố lại tuyên một tiếng phật hiệu, ánh mắt nóng bỏng nhìn Thẩm Mặc nói:
- Sư đệ còn nói mình không phải là tỷ khưu chuyển thế sao?
Rồi hắn nói với vẻ mặt cảm thán:
- Nếu như có thể hóa giải trường cừu hận trăm năm này, khiến Mông Hán như Tạng Hán hòa bình ở chung, phần công đức này đủ để sư đệ đại công cáo thành rồi.
- Chỉ hy vọng như thế.
Thẩm Mặc cười gượng một tiếng, nói tránh đi:
- Trải qua nhiều năm suy tư, ta ý thức được, ngoại trừ ở trên quân sự làm cho đối phương kính nể, chỉ có thể dùng kinh tế và văn hóa hai tay này để đạt được mục đích. Về phần cái trước ta sẽ tại thời gian thích hợp thúc đẩy Mông Cổ thông cống hỗ thị, cũng trợ giúp họ thoát khỏi bần cùng; cái sau thì so ra hao tổn tâm trí hơn cái trước. Trước tiên ta suy nghĩ đương nhiên là Nho học, nhưng muốn lĩnh hội tư tưởng nho gia thì ít nhất trong bụng có chút trí thức. Cái này tại Hán địa còn khó có thể phổ cập, càng đừng nói tới Mông địa.
- Vậy cũng chỉ có mượn tôn giáo. Hán địa có đạo giáo cũng có phật giáo, nhưng đều giáo lí hàm hồ, tổ chức sơ tán, không chịu nổi trọng trách, càng bởi vì thân phận người Hán của nó nên không thể đạt được người Mông Cổ tán thành.
Thẩm Mặc nhìn Sách Nam Gia Thố một cái nói:
- Trải qua một phen tìm kiếm, ta phát hiện Phật Giáo Tây Tạng từng là quốc giáo của Mông Nguyên đế quốc. Đây không thể nghi ngờ có thể khiến đám người Mông Cổ trong đầu toàn là vinh quang tổ tiên kia tiếp thu quý giáo.
Khẽ ho một tiếng, y nói tiếp:
- Về phần vì sao từ ngũ phái của quý giáo chọn ra phái Cách Lỗ. Đây là bởi vì theo ta được biết, những năm gần đây các giáo phái của Phật Giáo Tây Tạng hoành hành không hợp pháp, giới luật buông thả tăng nhân hủ hóa đi xuống, đã xuất hiện hiện tượng 'chán chường uể oải', hiển nhiên không chịu nổi trọng trách.
- Mà tân Hoàng Giáo của Tôn Khách Ba đại sư sáng chế lại xóa bỏ được bầu không khí bất lương của các giáo phái khác. Giáo quy nghiêm ngặt, ràng buộc tăng lữ, dạy người hướng thiện, dĩ hòa vi quý, rất được bách tính Tạng tộc tán thưởng và tôn sùng.
Thẩm Mặc khen:
- Mặc dù tình cảnh hiện nay còn chưa lạc quan, nhưng ta tin tưởng, tương lai của quý giáo cuối cùng sẽ huy hoàng!
Giọng điệu của Thẩm Mặc thành khẩn mà lại thành thực, khiến người rất khó không tin lời y nói. Sách Nam Gia Thố rốt cuộc nở nụ cười nói:
- Đa tạ cát ngôn của sư đệ! Ta bảo chứng với triều đình và sư đệ, phàm là nơi phật quang soi sáng sẽ không cho phép phát sinh việc tổn hại với Đại Minh!
- Sư huynh nhân đức, quả thật là may mắn của tam tộc!
*********
Song phương giờ đã tính là đạt thành nhận thức chung, Sách Nam Gia Thố hết sức thoả mãn, thái độ đối với triều đình tự nhiên càng thêm kính cẩn:
- Kế tiếp làm sao, cứ theo sư đệ phân phó.
- Tộc nhân của đồ đệ sư huynh mới thu hình như gặp phiền toái rất lớn.- Thẩm Mặc thản nhiên nói: - Trước kia ta đã đáp ứng giúp họ vượt qua cửa ải khó khăn, nhưng hiện tại ta muốn tặng nhân tình này cho sư huynh, không biết sư huynh có nguyện ý nhận nó hay không?
- Cứu 1 mạng người còn hơn xây thất cấp phù đồ.- Sách Nam Gia Thố chắp hay tay nói: - Cực kỳ nguyện ý.