Quan Cư Nhất Phẩm (Bản Dịch)

Chương 143 - Chương 849: Phong Dữ Đình

Chương 849: Phong dữ đình

Sau khi cùng triều đình đạt thành nhận thức chung, Sách Nam Gia Thố liền đi cùng với 1000 lạt ma chuẩn bị xuất phát. Nặc Nhan Đạt Lạp lo lắng cho tộc nhân của mình, nhưng chung quy cảm thấy Đại Minh không có khả năng thả mình trở về, cho nên khi Thẩm Mặc gọi hắn đến phòng Thiêm áp, hỏi hắn là có muốn tiếp tục đợi ở Du Lâm hay là đi về cùng các lạt ma, hắn có chút khó tin nói:

- Không phải là đốc sư đại nhân đang đùa ta đấy chứ?

- Ta đùa ngươi làm gì? - Thẩm Mặc khép sách lại, cười nói: - Đám lạt ma này mặc dù lòng đầy nhiệt tình, nhưng chung quy là nhân sinh địa không quen, không có người chủ nhà là ngài chiếu ứng, khẳng định từng bước khó khăn...

Nói đoạn Thẩm Mặc đứng dậy đi tới trước mặt hắn, mỉm cười nói:

- Ngài là Tế Nông của Mông Cổ, tại Hán địa giống như con hùng ưng bị buộc cánh, có thể làm được gì chứ? Cứ trở về đi, dẫn dắt tộc nhân của mình thoát khỏi khốn cảnh, bước trên con đường hòa bình hạnh phúc.

Lúc này Nặc Nhan Đạt Lạp mới xác định Thẩm Mặc thực sự không phải là nói đùa, trong lòng hắn không khỏi dâng lên cảm động, khàn giọng nói:

- Đa tạ đại nhân tín nhiệm, ta định không phụ nhờ vã.

- Sự tồn vong của tộc nhân, trọng trách hòa bình, tất cả đều đặt lên vai ngươi. Trọng trách của Tế Nông rất nặng, áp lực cũng tự nhiên rất lớn.- Thẩm Mặc nắm tay hắn: - Cần phải đứng vững trước áp lực. Chúng ta cùng nhau vì hòa bình Mông Hán mà phấn đấu!

- Ừh.

Nặc Nhan Đạt Lạp cũng cầm chặt tay Thẩm Mặc, động tình nói:

- Ta lấy danh nghĩa của Phật tổ phát thệ, đời này kiếp này quy thuận Đại Minh, tuyệt không làm bất cứ việc gì trái với đại nhân.

- Ta cũng lấy tổ tiên của mình phát thệ.- Thẩm Mặc trầm giọng nói: - Đối xử bình đẳng giữa người Mông và người Hán, toàn lực vì hòa bình vĩnh viễn của song phương, đưa người người Mông Cổ có được cuộc sống giàu có yên ổn!

Sau khi thề non hẹn biển, Thẩm Mặc đưa Nặc Nhan Đạt Lạp ra ngoài cửa, vừa thấy Ô Nạp Sở trong bộ võ sĩ phục màu đỏ tía cổ tròn, ống tay bó, đai lưng da trâu thặt chặt khiến vòng eo càng có vẻ thon nhỏ, hấp dẫn ánh mắt người. Ngày hôm nay nàng không đội loại quan mạo của Mông Cổ mà dùng cây trâm buộc mái tóc lên, trán quấn khăn khảm lục bảo thạch, nổi bật dưới cổ áo lông cừu nhung trắng mịn, đôi mắt càng sáng trong, tư thế oai hùng hiên ngang.

Trong tụ điểm quân sự thiết huyết trang nghiêm, nữ tử này tựa như một đóa tuyết liên hoa sáng rực, ngay cả Thẩm Mặc cũng nguyện ý nhìn thêm hai lần.

Thấy được ánh mắt thưởng thức của Thẩm Mặc, Nặc Nhan Đạt Lạp cười hỏi:

- Đại nhân cảm thấy con gái của thế nào?

- Rất tốt.- Thẩm Mặc mỉm cười nói: - Chung Kim Biệt Cát như vì tinh tú của thiên địa, rất có phong thái của nữ tử không thua đấng mày râu, quả thật là niềm kiêu hãnh của Tế Nông đấy.

- Đúng vậy.- Nhìn con gái, Nặc Nhan Đạt Lạp nở nụ cười kiêu ngạo: - Cả đời này điều ta kiêu ngạo nhất chính là nuôi được một đứa con gái tốt như thế.

Đang nói thì ánh mắt của hắn lại trở nên phức tạp:

- Con gái là bảo bối của ta, khối mỹ ngọc ta yêu thích nhất. Từ ngày nó trưởng thành, cả ngày ta suy nghĩ nên tìm cho con gái mình một người nam nhân thế nào thì mới có thể xứng đôi với nó.

- Ba...

Ô Nạp Sở mặc dù không sợ trời không sợ đất, nhưng chung quy là con gái, bị cha mình rao bán cũng xấu hổ đến đỏ mặt, có chút không nghe theo rồi.

"A." Nụ cười của Thẩm Mặc có hơi phức tạp, y nhìn Ô Nạp Sở nói:

- Chung Kim có lương phối chưa?

Mấy ngày này gặp mặt không ít, y và Ô Nạp Sở đã quen thuộc rồi, hỏi cái này cũng không tính thất lễ.

- Vẫn chưa.- Nặc Nhan Đạt Lạp ngạo nghễ nói: - Không phải là người làm cha này của mình mình quý, thật sự là trên thảo nguyên này, sau Yêm Đáp rất lâu đã không có anh hùng rồi, giới thanh niên không ai đáng để mắt hết.

Hắn không quản con gái đang ở bên nhéo hông mình thế nào, đăm đăm nhìn Thẩm Mặc nói:

- Lần này đến Hán địa, vốn tưởng vốn tưởng rằng mình có đến mà không có về, nhưng may mắn gặp được đại nhân, đối đãi ta như thượng khách, giúp ta như cha mẹ, phong tư khí độ, trí tuệ hàm dưỡng của đại nhân thật sự là ta bình sinh khó gặp. Ta nghĩ, đại nhân chính là người ta vẫn muốn tìm...

Thoáng dừng lại, hắn như đã hạ quyết tâm rất lớn:

- Nếu như đại nhân không chê, ta sẽ gả con gái cho đại nhân!

Lời vừa nói ra, trong viện tức thì có thể nghe được tiếng kim rơi, ngay cả các vệ sĩ huấn luyện có tố cũng không khỏi bắt đầu thất thần... Thầm nghĩ người này thật không biết thẹn, không ngờ rao bán cả con gái mình, sợ rằng ông trời cũng nguyền rủa hắn nửa đời sau làm hòa thượng thôi.

*******

- Ba...

Người thứ nhất định thần lại nhưng là Ô Nạp Sở, nàng đỏ bừng mặt, hàm răng cắn chặt môi dưới phúng phính:

- Không phải ba nói là hôn sự của con gái sẽ do bản thân làm chủ sao?

Xem ra chuyện này chưa có thương lượng qua trước, nàng tự nhiên trở tay không kịp.

- Là do con không có chủ ý nghiêm chỉnh.

Nếu nói ra rồi, Nặc Nhan Đạt Lạp đương nhiên phải giữ lập trường của mình:

- Tự nhiên ta phải giúp con quyết định rồi...

Hắn nhe răng cười nói với khuê nữ:

- Tin tưởng cha, nam nhân ưu tú hơn Thẩm đốc sư còn chưa sinh ra đâu.

- Ba thích thì tự ba gả đi.- Chung Kim cũng ngăn không nổi xấu hỗ tức tối nữa, giậm chân một cái nói: - Con sẽ không gả cho người Hán...

Nói xong không quản đến an toàn của cha mình nữa, nàng chạy đi ra ngoài mất.

- Con bé này...

Mắt thấy không thấy bóng nàng đâu nữa, Nặc Nhan Đạt Lạp xấu hổ cười nói với Thẩm Mặc:

- Thật ra nó vẫn rất có giáo dưỡng, chỉ là da mặt mỏng, xấu hổ thôi.

- Ha ha...

Thẩm Mặc lúc này mới từ trong tiết mục 'quái đại thúc chiếm đoạt tiểu la lỵ' định thần lại, cười khổ nói:

- Chẳng lẽ Tế Nông muốn chiếm tiện nghi của ta?

- Chỉ giáo cho? - Nặc Nhan Đạt Lạp khó hiểu nói.

- Vốn là hai ta lấy huynh đệ xưng hô.- Thẩm Mặc cười nói: - Sao đột nhiên muốn ta gọi ngài là nhạc phụ rồi?

- Ôi, ý ta không phải vậy...

Nặc Nhan Đạt Lạp rất sợ Thẩm Mặc sẽ hiểu lầm.

- Đương nhiên ta biết.- Thẩm Mặc nghiêm mặt nói: - Trước đây cũng chưa có giới thiệu qua với Tế Nông, thật ra trong nhà ta đã có thê thiếp, nữ nhân thành đàn...

Khóe miệng nhếch lên nụ cười tự hào lại bất đắc dĩ:

- Hai tiểu tử lớn nhất của ta qua năm tới đã 14 rồi, nếu như lớn thêm 2 tuổi nữa, không cần Tế Nông nói, ta đã sớm cầu kết thân gia với ngài rồi.

- Sao ta gánh vác được chứ.

Cũng không biết Nặc Nhan Đạt Lạp là quá thành thật, hay là rất muốn Thẩm Mặc gọi mình một tiếng cha, hắn cười ha ha nói:

- Tuổi tác chênh lệch tính cái gì? Cáp truân nhỏ nhất của ta cũng bằng tuổi Chung Kim, mà cũng rất hạnh phúc đó thôi.

Cáp truân là ý chỉ phu nhân.

- Tế Nông diễm phúc không cạn, thật khiến người ước ao đó.- Đầu óc Thẩm Mặc triệt để thoát khỏi đào sắc, khôi phục thanh tỉnh nói: - Nhưng ta thật sự không thể không cố kỵ được...

Đoạn y hạ giọng nói:

- Thẩm mỗ là thần tử, được hoàng đế bệ hạ tin cậy, tiết chế cửu biên, dưới trướng trăm vạn tinh nhuệ, tuỳ cơ ứng biến, thủ tướng tài thuế mấy tỉnh... Người Hán chúng tôi có câu, là 'Cây to đón gió, chỗ cao hút phỉ báng', nói chính là người như ta đấy.

- Lúc này ta lực chủ biến chiến tranh thành tơ lụa, đã dẫn tới nhóm Thanh Lưu Ngôn quan trong triều hết sức bất mãn.

Thẩm Mặc khẽ than một tiếng nói:

- Nếu như ta lại cưới con gái của Tế Nông, sợ rằng lập tức sẽ bị đạn chương của họ chôn sống mất. Danh dự cá nhân của ta là chuyện nhỏ, đại sự nghị hòa giữa Hán Mông bị hủy mới là chuyện tuyệt đối không nên!

- Thế thì...

Khuê nữ người ta cũng không phải không gả được, nghe Thẩm Mặc nói vậy rồi Nặc Nhan Đạt Lạp tự nhiên sẽ không cưỡng cầu nữa. Hắn có chút bất mãn nói:

- Xem ra là ta suy nghĩ không chu toàn, chỉ nghĩ tìm cho con gái một nam nhân tốt, nhưng lại quên chính sự.

- Thương thay tấm lòng cha mẹ thiên hạ.- Thẩm Mặc cười ôn hòa nói: - Mà ta quả thật không phải là lương phối gì đâu. Chung Kim có lẽ nên tìm một thanh niên tuấn ngạn tuổi tác tương đương, mà không phải là gả cho kẻ cây khô quạ chiều như ta.

- Nếu đại nhân mà là cây khô quạ chiều.

Tâm tình Nặc Nhan Đạt Lạp chuyển biến tốt rất nhanh, hắn nhìn khuôn mặt trẻ tuổi anh tuấn của Thẩm Mặc, cười nói:

- Thế thì thanh niên thiên hạ không còn sống nữa rồi.

Tốt xấu cũng không có làm đối phương mất mặt, Thẩm Mặc đưa Nặc Nhan Đạt Lạp ra ngoài viện. Khi quay lại trong phòng thì thấy Vương Sùng Cổ đang ngồi ở trên kháng, y lắc đầu quầy quậy nói:

- Đáng tiếc đáng tiếc...

- Đáng tiếc một đoạn nhân duyên tốt nhỉ.

Trong khoảng thời gian này sớm chiều ở chung, làm cho quan hệ giữa hai người cải thiện rất nhiều, đã đến mức độ có thể tùy ý nói đùa rồi. Vương Sùng Cổ cười nói:

- Ta thấy ngươi rất gượng ép, chắc hiện tại tim như bị đao cắt chứ gì?

- Cô nương tốt không nhiều, cứ để lại cho thanh niên đi.

Thẩm Mặc cười mắng rồi cầm lấy khăn lông ấm lau mặt, lại ngồi đối diện với Vương Sùng Cổ:

- Huống chi đóa hoa hồng này không chỉ có gai, chắc còn có độc nữa, nếu như ta trẻ đi 10 tuổi, nhất định sẽ đi tìm kích thích chơi. Hiện tại, một nam nhân tam không như ta sao còn tư cách chơi cái này?

Khi nói lời này, trong lòng y hiện lên nữ tử như hoa Mạn Đà La kia. Kết quả của trò chơi tình ái vốn tưởng là cao xa đó không chỉ thương tổn đôi bên, còn khiến những người khác lâm vào thống khổ, cuối cùng chỉ có thể tương vong thiên nhai, đã thành vết sẹo không thể tiếp xúc trong cuộc đời này của y.

Thấy Thẩm Mặc thoáng cái đã tinh thần sa sút, Vương Sùng Cổ biết y nhất định nhớ tới chuyện cũ đau lòng gì, hắn đành phải kết thúc đề tài:

- Tính ta lắm miệng, nhưng 'tam không nam nhân' là gì?

- Không thời gian không tinh lực không không gian.- Thẩm Mặc lặng lẽ cười nói: - Không nói lung tung nữa, nói chính sự đi.

- Ừm.

Vương Sùng Cổ gật đầu, thu hồi nét mặt vui cười.

- Bên Thích Kế Quang đã báo nguy lương thảo rồi, hắn đã thúc dục vài lần, yêu cầu vận chuyển lương thảo đến.

Thẩm Mặc nhìn Vương Sùng Cổ nói:

- Ta nghĩ lần này mượn cơ hội hộ tống lạt ma chuyển lương thảo qua cho họ.

- Lúc trước mang theo lương ba tháng.- Vương Sùng Cổ nhỏ nhẹ nói: - Hiện tại ít nhất còn có nửa tháng, hơn nữa ngưu dương thu được hẳn là có thể duy trì qua tháng giêng mà, cứ chờ người Mông Cổ không cầm cự nổi mà rút về Hà Bắc rồi mới tính.

- Nếu như họ vẫn không rút thì sao? - Thẩm Mặc thở dài, cầm một phong thư trên bàn rồi đưa cho Vương Sùng Cổ nói: - Đây là Quân tình ti vừa mới đưa tới, còn chưa kịp cho ngươi xem.

Vương Sùng Cổ cầm lấy xem, tức thì biến sắc nói:

- Yêm Đáp vẫn là xuất thủ rồi.

- Nếu như hắn thấy quân đội Hà Sóc vẫn còn thờ ơ, chẳng phải tâm phúc đại hoạn vài chục năm của Đại Minh ta rồi còn gì. Lần này hắn vét sạch lương thảo trợ giúp Hà Sóc, mặc dù đối với các bộ Ngạc Nhĩ Đa Tư như muối bỏ biển, nhưng nếu tập trung cung cấp phù hợp thì cũng có thể duy trì một hai tháng... Cho nên chúng ta muốn chờ họ chủ động lui thì khả năng không lớn đâu." - Thẩm Mặc nói.

- Nhưng hiện tại đường đến Đông Thắng tuyết đã rơi ngập đầu gối, xe hoàn toàn không thể đi được.

Vương Sùng Cổ sắc mặt nghiêm túc nói:

- Trên vạn chiếc chiến xa truy trùng xa trong thành Đông Thắng cũng thành đồ bỏ đi; không có chiến xa kết doanh, làm sao chúng ta chống đối người Mông Cổ tập kích ban đêm? Cho dù chúng ta có trọng binh bảo hộ, họ không đi đoạt, nhưng phóng hỏa đốt chúng ta thì luôn làm được.

Rồi hắn gằn từng chữ:

- Hơn nữa ta có thể khẳng định, họ vẫn không chịu trở lại, chính là đang đợi cơ hội này.

- Nói không sai, nhưng hiện tại chúng ta có biện pháp rồi.- Thẩm Mặc cười thần bí nói: - Phật sống trong miếu An Tây pháp lực vô biên, có thể giúp chúng ta vận quân lương đến Đông Thắng.

- Mấy ngày này đại nhân chắc không phải bị lạt ma kia... Rồi chứ? - Vương Sùng Cổ không tin nói: - Hắn nói thế nào, chuẩn bị dùng xe gỗ, hay là khai đàn làm phép?

- Cũng không phải.- Thẩm Mặc cười nói: - Thật ra người ta đã sớm chuẩn bị cho tốt rồi, đừng nói với ta là ngươi không chú ý tới.

- Đại nhân là nói lạc đà đầy thành đó hả?

Thẩm Mặc vừa nói, Vương Sùng Cổ đã nghĩ tới đội lạc đà gần đây cuồn cuộn không ngừng đến Du Lâm bảo. Chủ nhân của đội lạc đà này, có người Tạng người Mông người Hán, nhưng có một điểm giống nhau đó là đều thờ phụng Hoàng Giáo... Đương nhiên, dựa theo giáo lí của người ta chính là thờ phụng vị Phật sống trong miếu An Tây đó. Vương Sùng Cổ đã hiểu ý của Thẩm Mặc:

- Đại nhân muốn dùng lạc đà vận chuyển quân lương?

- Đúng vậy.

Thẩm Mặc dùng giọng điệu tán thưởng giải thích:

- Giống lạc đà này thật sự là tạo hóa của thiên địa... Tứ chi dài, đủ dẻo dai, to bự, đặc biệt thích hợp đi trên mặt đất lầy. Ngươi nhất định biết, nó có mỹ danh con thuyền trên sa mạc, nhưng chưa hẳn biết, nó thật ra còn là cao thủ trên tuyết.

- Cái này chưa biết thật, nhưng ta biết nó đi khá chậm. Nếu không Yêm Đáp, Thổ Man, Ngột Lương Cáp đều không nuôi giống này chứ? - Vương Sùng Cổ nói.

(Ngột Lương Cáp: Cách gọi của người Minh đối với người Mông Cổ Mạc Bắc phía Đông)

Thẩm Mặc nói:

- Lạc đà đi quả thật rất chậm. Cho dù ở trên mặt tuyết cũng không thể so được với ngựa thảo nguyên chân ngắn, nhưng không bằng được khả năng chịu vất vả như nó. Lạc đà có thể dưới tình huống chở nặng 400 cân, mỗi ngày đi trên mặt tuyết 120 dặm, liên tục đi bốn ngày, vừa lúc có thể đi được một vòng vừa đi vừa về.

- Hơn nữa nó còn có chỗ tốt, một lần ăn no có thể mấy ngày không ăn. Như vậy chỉ cần khi xuất phát cho ăn no một lần, trên đường đi lại không cần cho ăn nữa, cho nên cũng không cần mang theo cỏ khô. So với la ngựa cũng một tải trọng, vật tư vận chuyển nhưng lại nhiều hơn.

- Xem ra đại nhân nghiên cứu đã lâu rồi, sao không nói sớm cho ta biết? - Vương Sùng Cổ có chút oán trách nói.

- Vẫn chưa làm rõ có được hay không thì sao dám vội vã nói ra? - Thẩm Mặc cười giải thích: - Vạn nhất nếu như không được, chẳng phải làm trò hề cho thiên hạ rồi?

- Được thôi, cuối cùng một vấn đề.- Vương Sùng Cổ hỏi: - Ứng phó thế nào với người Mông Cổ tập kích ban đêm?

- Đám súc sinh này còn có một diệu dụng hạng nhất.- Thẩm Mặc cười nói: - Trên đầu gối và trước ngực sinh ra chất sừng rất dày, rất thích hợp quỳ ngồi trên mặt đất, cho dù gặp phải cuồng phong cũng sừng sững bất động. Các thương nhân liền lợi dụng đặc tính này, khi cắm trại hoặc khi gặp phải thời tiết xấu sẽ đem lạc đà xếp thành một vòng để thủ. Hiệu quả rất tốt. Năm đó khi Mông Nguyên diệt Hoa Lạt Tử Mô (Xorazm: Quốc gia cổ đại nằm phía tây Trung Á ngày nay), diệt Kim diệt Tống đều dùng biện pháp này để cắm trại, được xưng là "Hãi thành".

Đoạn y cười nói:

- Đương nhiên ta cũng tùy miệng nói thế thôi, về phần có thể hay không thì, đội áp vận do Đông Thắng phái tới đã về Thần Mộc bảo rồi, chắc ngày mai Hồ Thủ Nhân có thể tới chỗ này, còn phải để cho họ tới ước định.

Vương Sùng Cổ gật đầu nói:

- Chuyện quan hệ trọng đại, quả thật phải ổn thỏa tốt hơn.

4 vạn Phục Sóc quân trở về từ biên ngoại thì phân nửa trước khi xuất phát nghỉ ngơi tại Định Sóc Bảo, một nửa còn lại nghỉ ngơi tại Thần Mộc bảo. Hồ Thủ Nhân và Lý Thành Lương lĩnh binh chỉ mang theo mấy trăm hộ vệ, vội vã chạy tới Du Lâm bảo bái kiến đốc sư đại nhân.

Thẩm Mặc và họ đều là quen biết đã lâu, mặc dù cách xa nhau chưa tới mấy trăm dặm, nhưng là phân tiền tuyến và hậu phương, mấy tháng không gặp nên lúc này đặc biệt thân thiết. Chuyện khác cứ đặt một bên trước, cứ phải rượu thịt mà khoản đãi bọn hắn một phen.

Đến khi cơm no rượu say rồi Thẩm Mặc mới hỏi tường tận việc tiền tuyến, mặc dù mỗi ngày y đều xem quân báo, còn có mật tấu của Quân tình ti, nhưng việc quân đội cứ phải nghe bản thân đương sự nói thì mới càng rõ ràng hơn.

- Trong thành Đông Thắng tất cả đều mạnh khỏe.- Lý Thành Lương là người đi ra từ trong phủ của Thẩm Mặc, khi nói đều có vẻ tùy ý: - Chỉ là hơi tốt quá rồi.

- Là sao? - Thẩm Mặc cười hỏi.

- Tổ tiên của Thích soái khẳng định là một thợ ngoã.- Lý Thành Lương lặng lẽ cười nói: - Cả ngày an bài các huynh đệ xây dựng thêm tường thành, xây dựng thành phòng, còn thừa dịp mùa nước khô mở rộng thêm sông hộ thành... Cừ thật, trước kia thành quách 10 dặm, hiện tại phải tới 20 dặm rồi.

- Lão lý ngươi than phiền cũng tận trời rồi, Thích soái đã giải thích qua nhiều lần rồi mà.

Hồ Thủ Nhân xuất thân Thích gia quân, nghe người ta nói xấu đại soái nhà mình, hắn đương nhiên không vui, liền phản bác:

- Làm như vậy là vì xuân tới sau khi khai chiến chúng ta sẽ có được một đại bản doanh vững chắc, thứ hai, cũng có thể làm cho các tướng sĩ bảo trì thể năng, để không sau một mùa đông tất cả đều gỉ sét hết.

- Ta tức thì cũng chỉ tức ở đây thôi.- Lý Thành Lương nghiến răng nói: - Lão Hồ ngươi lĩnh là phúc trọng binh, sửa tường thành là công tác bản chức, đương nhiên làm không biết mệt rồi. Nhưng ta dẫn là kỵ binh! Từ khi xuất biên chỉ đánh một trận như muỗi chích, sau đó đánh Đạt Nhĩ Hỗ Đặc không cần ta, công thành Đông Thắng không dính dáng đến biên... Sau khi đánh hạ thành Đông Thắng ta chủ động thỉnh chiến bao nhiêu lần, nhưng vẫn bị áp chế, cả ngày chỉ biết sử tường thành với sửa tường thành. Ta thấy Thích soái không biết có phải ta không phải là chi chính nên cho ta ra rìa hay không!

- Ngươi nói vớ vẩn gì vậy! - Hồ Thủ Nhân sầm mặt, khẽ quát: - Đừng có mà lấy dạ tiểu nhân do lòng quân tử!

- Là quân tử thì phải thẳng thắn! - Mượn rượu, Lý Thành Lương đem bất mãn tịch tụ cả mùa đông phát tiết ra.

Mới từ tiền tuyến xuống, hai người đều miệng nhạt tếch, bởi vậy bất tri bất giác đã uống hơi nhiều. Vốn còn có thể áp chế rượu mà bảo trì thanh tỉnh, nhưng nộ khí vừa dâng thì xông thẳng lên đầu, hồn nhiên đã quên thân ở đâu, đối phương là ai. Thế là cãi nhau chí chóe, bước tiếp theo liền muốn động thủ rồi.

Lại nghe một tiếng xoảng vang lên, hai người sợ giật mình nhìn lại, là đốc sư đại nhân đã ném bình rượu xuống đất.

Thị vệ lập tức dũng tiến vào trong sảnh, nhìn chằm chằm hai tướng quân đang trọng trạng thái chọi gà. Hai người mới biết việc lớn không tốt, vội vàng quỳ xuống đất thỉnh tội.

- Là ta sai, không nên cho các ngươi uống rượu.- Thẩm Mặc buồn bã thở dài nói: - Quan quân pháp ở đâu?

- Có ty chức.- Một võ tướng tứ phẩm vội vàng tiến đến.

- Chuyện ngày hôm nay nên nghiêm phạt ta thế nào? - Thẩm Mặc thản nhiên nói.

- Việc này...

Quan quân pháp mặc dù mỗi ngày đều phải đưa ra không ít quân pháp, nhưng nào dám định tội đốc sư? Hắn ấp úng nói:

- Đốc sư có tội gì?

- Say rượu trong doanh trại.- Thẩm Mặc nói.

- Đây là hành dinh của ngài, không phải là quân doanh.- Quan quân pháp nói: - Huống hồ lại là buổi tối, không có quy định không được uống rượu.

Lúc này bởi vì chuẩn bị chuyển đi vật tư, Vương Sùng Cổ vừa mới từ bên ngoài trở về biết chuyện vội vã giúp khuyên giải đốc sư đại nhân.

- Nói chung là không đúng.- Thẩm Mặc khoát tay nói: - Nếu như lúc này có quân tình khẩn cấp, chẳng phải hỏng việc rồi sao? Nếu không có quy định, thì án phân nửa tội say rượu trong doanh trại tới nghiêm phạt đi, nên bao nhiêu?

- Vâng..., - Quan quân pháp ấp a ấp úng nói: - Bốn mươi quân côn.

- Được, hành hình đi.

Thẩm Mặc đứng dậy, cởi xuống miên bào xanh trên người, lộ ra áo đơn trắng bên trong, rồi bước nhanh ra ngoài cửa.

Lý Thành Lương và Hồ Thủ Nhân lúc này mới định thần lại, vội vàng dài bước tiến lên, mỗi người một bên kéo cánh tay y lại, quỳ xuống đất cầu xin:

- Ngài muốn chúng tôi tự sát tạ tôi sao.

- Sao lại nói thế? - Thẩm Mặc thản nhiên nói: - Mông ta ăn quân côn, có quan hệ gì với các ngươi đâu?

- Ngài cũng đừng làm chúng tôi không còn mặt mũi nào.

Đây vẫn là lần đầu Lý Thành Lương thấy có người tức giận như thế này, trong lòng lại càng sợ hãi. Y đối với bản thân đã nhẫn tâm như vậy, đối với người khác thì đừng nói:

- Côn này cứ để chúng tôi nhận đi, mỗi người 80 cái cũng được.

Hồ Thủ Nhân cũng có suy nghĩ này. Nếu như hắn để Thẩm Mặc ăn gậy, trở lại Thích Kế Quang chắc lột da hắn luôn, vì thế hắn khàn giọng nói:

- Nếu ngài không đáp ứng, mạt tướng chỉ có thể tìm sợi dây treo cổ, không dám gặp ai nữa.

Vương Sùng Cổ cũng được mở mắt, thầm nghĩ vẫn là lần đầu thấy có người tranh chịu đòn.

Thấy bọn họ trái cầu phải xin, Thẩm Mặc mới miễn cưỡng đáp ứng:

- Bỏ đi, một người chịu 20 cái cho tỉnh rượu.

Hai người liền thiên ân vạn tạ, khi xuống đường còn bắt chuyện với thân binh của Thẩm Mặc:

- Đứng đó làm gì, cầm gậy đi.

***********

Đợi tất cả mọi người lui ra rồi, Vương Sùng Cổ vươn một ngón tay cái biểu thị kính ngưỡng đối với Thẩm Mặc. Thật ra hôm nay xung đột giữa Lý Thành Lương và Hồ Thủ Nhân mặc dù ngẫu nhiên nhưng cũng có nhân tố tất nhiên của nó. Lâu không xuất chiến dẫn đến tâm tình phiền táo, mâu thuẫn giữa các phe phái khác nhau nổi lên... các loại tâm tình tiêu cực hỗn hợp lại tùy thời cũng có thể gây nên phiền toái lớn... Ở trước mặt Thẩm Mặc cũng dám cạch nhau, điều này hầu như là nhất định.

Cho nên chuyện ngày hôm nay nếu như không xử lý hai người, một khi truyền tới thành Đông Thắng tất sẽ khiến các phương diện càng thêm mất đi ràng buộc, từ đó ấp ủ thành đại họa. Nhưng mà hai người họ dù sao cũng là công thần từ tiền tuyến xuống, đại công chưa thưởng mà đã trừng phạt, tất sẽ khiến hai người không cam lòng, truyền ra ngoài cũng sẽ khiến người khác cảm thấy y thưởng phạt bất công, quá coi trọng quyền uy của mình.

Đừng thấy sự tình không lớn, nhưng xử lý không tốt thì sẽ phiền phức thật. Nhưng ở chỗ Thẩm Mặc thì tuyệt không phải là vấn đề, y có thể khiến cho hai người cầu bị phạt, lĩnh quân côn mà cứ như chiếm được tiện nghi lắm vậy.

- Trước mặt ta mà còn vậy, có thể thấy trong thành Đông Thắng đã thành thế nào rồi.

Trên mặt Thẩm Mặc không hề có vẻ đắc ý, y nói với Vương Sùng Cổ:

- Thích Nguyên Kính mặc dù năng lực trị quân vô song, nhưng dù sao Đại Minh đã nhiều năm không có võ tướng làm thống soái, hắn lo áp lực trong triều đối với ta nên khó tránh khỏi thoải mái làm việc.

Rồi y cười khổ nói:

- Ngươi cho là Thích Nguyên Kính vì sao lại phái hai người họ trở về? Không phải là muốn ta giúp dọn dẹp một chút sao?

- Đại nhân và Thích tướng quân tin tưởng thông cảm nhau, tương lai nhất định lưu truyền thành giai thoại.- Vương Sùng Cổ cười nói.

- Đó cũng phải trước sau vẹn toàn mới được.

Thẩm Mặc buột miệng nói một câu không đầu óc, lại nghiêm mặt nói:

- Xem ra năm tới ta cần phải đến thành Đông Thắng trấn chỉnh cho hắn rồi. Không thể để cho đám kiêu binh hãn tướng làm nhiễu đại kế của chúng ta được.

- Còn bên Du Lâm bảo thì làm thế nào? - Vương Sùng Cổ cười khổ nói: - Hơn 10 vạn dân phu, thuế ruộng mấy tỉnh, còn có loạn mệnh của Bắc Kinh, yêu cầu của Đông Nam, tính toán của Sơn Tây.

Minh thương ám tiến từ bốn phương tám hướng lo không xuể, không phải một tổng đốc tam biên như ta lo được.

- Ngươi đừng vội tự coi nhẹ mình.- Thẩm Mặc cười nói: - Phần lớn rắc rối ngươi đều có thể tự xử lý được, chỉ là không muốn giành danh tiếng của ta, vẫn giấu dốt mà thôi. Ta đi Đông Thắng cũng tốt, để lại cho người sân khấu mà thi triển. Bằng không khi luận công ban thưởng ngươi vẫn chỉ xếp sau. Nếu như không thể lập được uy tín, tương lai sao ta có thể giao trọng trách kinh lược tây bắc cho ngươi được?

- Đại nhân.

Vương Sùng Cổ biết Thẩm Mặc là người nghĩ sâu tính kỹ. Hắn nhiều lời cũng vô ích, chỉ có thể nặng nề gật đầu.

Lúc này, Lý Thành Lương và Hồ Thủ Nhân đã ăn xong quân côn đang tập tễnh đi vào. Tố chất sức khỏe của hai người quả thật rất tốt, cũng không cần người đỡ, mông chỉ không ngồi được thôi.

- Lần này các ngươi chịu đánh giúp ta.- Thẩm Mặc bảo hai người nằm lên kháng, quân y đi qua xử lý vết thương cho họ, y ngồi đối diện hai người, nghiêm mặt nói: - Nhưng ta không nhận ân tình này của các ngươi, bởi vì các ngươi làm ta thất vọng quá.

- Nếu không, đại nhân lại đánh chúng tôi một trận nữa đi.- Hai người thần sắc buồn bã nói: - Chứ ngài nói như vậy, còn khó chịu hơn cả ăn quân côn.

- Nếu có thể khai thông được cái đầu gỗ của các ngươi thì ta cũng không ngại cho thêm mấy trăm gậy.- Thẩm Mặc cười lạnh nói: - Nhưng có hữu dụng không? Lời tận tình khuyên bảo ta còn nói ít hả? Trận này có ý nghĩa thế nào, các ngươi đã quên hết rồi sao?

- Không có...

Hai người lắc đầu nói.

- Nói xem.- Thẩm Mặc hạ lệnh.

- Đối với triều đình thì trận này có thể đánh ra an bình 50 năm cho tây bắc, giúp triều đình hàng năm tiết kiệm một phần ba quân phí và lương thảo, có thể rút đi trọng binh kinh lược kế liêu, triệt để tiêu trừ uy hiếp của thiết kỵ Mông Cổ đối với Đại Minh, do đó khiến triều đình có thể buông tay phá cũ lập mới, mở ra bố cục Trung hưng.

Hai người ngươi một câu, ta một câu, thuộc lòng từng chữ đọc:

- Đối với quân nhân chúng ta thì nó càng có ý nghĩa phi phàm, thành tựu cá nhân công lao bất thế, được hưởng quan cao hiển hách, phong thê ấm tử. Cũng có thể khiến địa vị quân đội đạt được đề thăng lớn từ sau sự biến Thổ Mộc bảo. Đại nhân, chúng tôi nói có đúng không?

- Không sai lắm.- Thẩm Mặc gật đầu, hỏi: - Các ngươi có phải cảm thấy nhiêu đó còn chưa đủ phân lượng hay không?

- Đủ rồi, quá đủ rồi.- Hai người vội vàng lắc đầu, cảm thấy không đúng, lại cố gật mạnh đầu.

- Vậy vì sao không thể thu lại chút kiêu ngạo, nhỏ mọn, tật xấu đó của mình, chân thành đoàn kết, vượt qua một cửa này chứ hả?

- Đại nhân, chúng tôi chỉ là nhất thời nóng đầu, tuyệt đối không có lần sau đâu.

- Ta thấy không chỉ là nhất thời nóng đầu đâu? - Thẩm Mặc như ảo thuật cầm ra một sấp văn giản dày rồi trải trước mặt hay người nói: - Đây đều là nóng đầu hả? Ta thấy nên cần uống thuốc hạ nhiệt rồi đó.

Hai người vội vàng cầm lên xem, thấy trên mặt tường tận ghi lại mỗi một lần hai người xung đột từ khi đại quân xuất binh, cùng với phản ứng bọn họ thiên vị bao che khuyết điểm, và hậu quả dẫn tới... Nhìn hai người toát mồ hôi trán, thế mới biết Thẩm Mặc nếu muốn luận quân pháp với họ thật, đừng nói đánh mông, chém đầu cũng được rồi.

- Nội loạn trí suy, kiêu binh tất bại, đạo lý này ta không tin các ngươi không hiểu.- Thẩm Mặc thở dài nói: - Cái gọi là trống vang không cần dùng búa tạ, nếu không muốn có hậu quả gì thì tự tỉ mỉ suy nghĩ, sau này tự giải quyết cho tốt đi.

Nói xong liền đứng dậy rời khỏi.

***********

Ngày hôm sau khi ước định đội tham trú (đội xe ngựa, lạc đà), Lý Thành Lương và Hồ Thủ Nhân hai người đúng giờ mang hai vành mắt thâm quầng xuất hiện ở trên giáo trường. Thẩm Mặc thấy họ đi đứng không trở ngại, chỉ thoáng có hơi chạng chân, y gật đầu ý bảo họ đứng ở cạnh mình.

Kèm với một tiếng pháo vang, 13000 con tham trú dưới sự chỉ duy của trú thủ toàn bộ tập kết trên giáo trường, Sau một trận hỗn loạn, các tham trú đều nằm quanh đại doanh, trên lưng đều xếp rương, lại đem nỉ lông thấm nước che kín. Hỏa thương thủ xếp ở sau trận tham trú, như có vài hàng Phật Lãng Cơ và Hỏa thương thủ nghiêm trận đợi địch, xa xa nhìn lại chỉ một màu đen, như một bức tường sắt.

Sau khi liệt trận, đội kỵ binh của Lý Thành Lương bắt đầu xung phong, vì đạt được hiệu quả, còn đốt mấy trăm dây pháo để có được hiệu quả như chiến trường. Nhưng đám lạc đà đã quen nghe bão cát đại mạc không động đậy chút nào, dù cho các kỵ binh lao tới trước, vung đao trảm rớt đầu mấy con tham trú thật cũng không khiến đà trận hoảng loạn, hơn nữa trú trận là sống, các trú thủ rất nhanh điều chỉnh trận hình, ở phía sau bổ sung chỗ hở. Nếu như là thật thì đội kỵ binh xông lên đó đã sớm bị thương pháo dần nát rồi.

Tiếp theo lại dựa theo yêu cầu của Hồ Thủ Nhân tiến hành thao luyện mười mấy hạng mục, khi thấy trời gần tối đen mới kết thúc. Thẩm Mặc hỏi Hồ Thủ Nhân đã la đến khàn giọng:

- Thế nào?

- Rất tốt, ngoại trừ chỉnh thể phối hợp còn chưa quen, các phương diện rất tốt.- Hồ Thủ Nhân nói: - Thao luyện một chút là có thể giải quyết.

Rồi hắn có chút khó tin nói:

- Không ngờ đám lạc đà này nghe lời vậy. Nếu là ngựa thì đã sớm loạn lên rồi, nhưng chúng nó không nhúc nhích tí nào.

- Bằng không, thương đội trên sa mạc lấy cái gì chống cự với bọn giặc cướp hung dữ?

Thẩm Mặc cười ra tiếng:

- Phải biết rằng, ngày hôm nay đã tập hợp được mấy đội tham trú ưu tú nhất khắp đại tây bắc. Toàn bộ ta giao cho ngươi đấy!

- Nhất định không phụ đại nhân giao phó! - Hồ Thủ Nhân trịnh trọng gật đầu nói.

Thời gian không đợi người, đà đội chỉ có thể huấn luyện ở trên đường. Hai ngày sau, Thẩm Mặc liền cùng Sách Nam Gia Thố tiễn đưa đội ngũ lên đường. Bên Hoàng Giáo thì dẫn đội là A Hưng lạt ma mới vừa từ Thanh Hải dẫn theo một nhóm Tạng y và y tăng tập trung từ Hoàng Giáo. Hắn phong trần chưa tắm lại muốn lên đường, khiến Thẩm Mặc cũng không khỏi cảm thấy kính phục sự cuồng nhiệt đối với tôn giáo của hắn.

Tiễn bước đại đội lạt ma đi rồi. Ngày hôm sau, Nặc Nhan Đạt Lạp cũng muốn xuất phát, Thẩm Mặc lại đưa tiễn.

Y vốn tưởng rằng Chung Kim Biệt Cát nhất định sẽ tránh mặt mình, ai ngờ nàng bận bộ đồ cưỡi ngựa màu đỏ, cưỡi trên con ngựa trắn, như không có việc gì xuất hiện bên cạnh phụ thân, chỉ là mỗi khi ánh mắt chạm nhau, Thẩm Mặc đều có thể cảm thấy một trận lạnh ý.

Đưa ngoài thành 10 dặm, thời khắc ly biệt đã đến.

Sau khi Thẩm Mặc và Nặc Nhan Đạt Lạp nói lời chia tay liền đứng ở bên đường nhìn theo hắn lên ngựa rời đi.

Lúc này một đôi chân dài động nhân trong đôi giày da hươu kẹp lấy bụng ngựa đi đến trước mặt Thẩm Mặc.

Bởi vì y đứng trên mặt đất cho nên hình thành cục diện nữ thượng nam hạ ngửa mặt lên nhìn, điều này làm cho Thẩm Mặc có chút xấu hổ, nhìn bốn phía, các vệ sĩ cũng biết mấy ngày trước có màn cự hôn, bởi vậy đều hứng thú đứng xem kịch, không ai tiến lên ngăn cản.

- Chung Kim Biệt Cát có điều gì muốn nói với ta à?

Tầm mắt của Thẩm Mặc đối diện với vòng eo của thiếu nữ, thật sự bất nhã; y nâng tầm mắt lên nhưng lại thấy trước ngực nàng ưỡn ra, không khỏi càng xấu hổ, đành phải đưa ánh mắt ra xa, không nhìn con ngựa hoang kiêu ngạo trước mặt nữa.

Sắc mặt Ô Nạp Sở lạnh lùng, chỉ liếc nhìn Thẩm Mặc, không có ý muốn trả lời.

- Ô Nạp Sở, không được vô lễ.

Thấy đốc sư đại nhân túng quẫn, Nặc Nhan Đạt Lạp vội vàng tiến lên giảng hòa:

- Tiểu nữ sống nơi hoang dã, không hiểu lễ nghi, đốc sư đại nhân chớ trách.

- Không sao.- Thẩm Mặc cười khổ nói: - Ta không có chấp nhặt với một tiểu cô nương đâu.

- Dối trá...

Hồng y nữ tử trên bạch mã hừ một tiếng, lạnh lùng nói:

- Rõ ràng đang tức giận, nhưng sĩ diện không chịu thừa nhận?

Rồi nàng nhìn chằm chằm Thẩm Mặc nói:

- Chẳng lẽ người Hán các ngươi đều dối trá như thế?

- Cái này gọi là phong độ.- Thẩm Mặc cũng không biết nghĩ đi đâu rồi, lại thấp giọng phản bác.

- Phong độ là cái gì? Có thể cân hay bỏ vào l-on được không? - Ô Nạp Sở cười nhạo: - Mùa đông mà cũng nói phong độ cái gì, dối trá!

- Được thôi.- Thẩm Mặc cười khổ một tiếng, đành phải chịu thua: - Ta dối trá, Biệt Cát giáo huấn phải lắm.

Y thầm nghĩ đây thật là chuyện buồn cười nhất thiên hạ, đường đường tể tướng Đại Minh lại bị một nữ tử phiên bang chèn ép thành như vậy, truyền ra ngoài sợ sẽ thành trò cười.

Song cũng chả có cách nào, xưa nay nữ tử và tiểu nhân rất khó chơi, huống chi còn là một nữ tử phiên bang?

Thấy y lặng lẽ không nói, Ô Nạp Sở như được ăn mật, miệng cười như hoa đỗ quyên nở đầy núi, nàng dùng đầu ngón chân khẽ hích Thẩm Mặc một cái. Trước đó nàng ngôn ngữ bất kính, bọn thị vệ còn có thể coi như không nghe thấy, nhưng hiện tại còn có động tác thì phải khác rồi. Bọn thị vệ đồng loạt giơ súng lên, hơn mười cây Long Khánh thức đều nhắm vào cô công chúa Mông Cổ không biết trời cao đất rộng.

- Đừng khẩn trương.- Ô Nạp Sở cười, giọng như chim sơn ca nói: - Ta chỉ biểu thị một chút cảm tạ, mặc dù bộ tộc ta rơi vào tình cảnh ngày hôm nay, xét đến cùng đều là ngươi làm hại, hơn nữa lần này ngươi phái người cứu viện, tám phần mười cũng không phải hảo tâm gì. Nhưng nếu như chúng tôi có thể vượt qua cửa này, lại còn nhận cái tình đó của ngươi. Người khác nghĩ thế nào ta quản không được, nhưng chỗ ta thì sẽ xóa bỏ, không hận ngươi nữa là được.

- Vậy thì phải đa tạ Biệt Cát rồi...

Thẩm Mặc cười khổ nhéo mũi, hiện tại y chỉ trông mong cho nữ ôn thần này nhanh cút đi để kết thúc màn xã giao khiến y lúng túng này:

- Sắc trời không còn sớm nữa, nhanh lên đường thôi.

- Ngươi rất không được tự nhiên nhỉ.

Con mắt Ô Nạp Sở cong thành hai vầng trăng non, cười tủm tỉm nói:

- Xem ra là ghét ta thật, vậy ta an tâm rồi.

Nói xong nàng kẹp lấy bụng ngựa, bỏ lại một câu "Bạch nhất tư thái..." rồi đuổi theo đội ngũ rời khỏi.

Nặc Nhan Đạt Lạp vẫn ở bên cạnh lo sợ thấy sắc mặt Thẩm Mặc gần tái đi rồi, hắn nào dám dừng lại, cười gượng hai tiếng: - "Sau này còn gặp lại, sau này còn gặp lại..." rồi cũng vội vàng đánh ngựa đi.

Thẩm Mặc lặng nhìn bóng lưng hai cha con đi xa, một lúc lâu mới lấy lại tinh thần, cười khổ lắc đầu, rồi cưỡi lên con chiến mã Tiểu Lục Tử dắt qua.

- Đại nhân, "Bạch nhất tư thái" là ý gì vậy? - tiểu lục tử lấm la lấm lét hỏi.

- Gặp lại.

Thẩm Mặc thản nhiên trả lời, nhớ tới hình dạng quẫn bách lúc nãy của mình, lại cảm giác hết sức mới lạ, y liền không cảm thấy nàng kia đáng ghét nhiều nữa.

Nhưng đám người Tiểu lục tử cảm thấy rất là thất vọng, còn tưởng rằng là biểu lộ gì chứ.

Sao Thẩm đốc sư hoa gặp hoa nở, xe thấy xe chở lại để cho con bé hâm kia vứt bỏ như đôi giày rách thế nhỉ? Thực sự là khiến người không cam lòng.

Mặc dù về tới Du Lâm bảo, nhưng lòng của Thẩm Mặc lại đi theo cùng tham đội. Đội ngũ này một ngày chưa đến thành Đông Thắng an toàn, thì một ngày không thể yên lòng.

Thẩm Mặc mật thiết quan tâm đến động thái của tiền tuyến, biết đại quân tham trú mang theo hy vọng quả nhiên bị người Mông Cổ ban đêm tập kích sau 5 ngày ra khỏi Định Sóc Bảo. Nhưng quân Minh sớm có chuẩn bị, dựa vào tham trận, dùng đạn cành thông rọi sáng chiến trường, hỏa thương và Phật lãng cơ cùng khai hỏa, lang tiễn và trường thương cùng múa, cộng thêm kỵ binh của Lý Thành Lương còn bưu hãn hơn cả kỵ binh Mông Cổ bảo hộ, đã từ từ đánh lui từng đợt tiến công của địch nhân.

Đánh cả một đêm, đợi đến khi hừng đông thì tiếng la giết trên chiến trường dần dần dừng lại. Người Mông Cổ thấy rõ không có lợi nữa, đành phải bỏ lại thi thể đầy đất mà rút lui.

Nhanh chóng kiểm kê chiến quả, bởi vì là Lý Thành Lương thu dọn chiến trường cho nên không có thương binh nào, chỉ tìm thấy hơn 2000 thi thể người Mông Cổ. Mà quân Minh trả giá trận vong hơn 500 người, hơn 200 người trọng thương... Nhưng trong đó đại thể là trú thủ không có kinh nghiệm chiến đấu, mà các lão binh của Phục Sóc quân chỉ thương vong chưa tới 200 mà thôi.

Qua trận chiến này làm cho Hồ Thủ Nhân và Lý Thành Lương đều có chút hưng phấn, hiếm khi nhìn nhau một lần. Một người khen đối phương phòng thủ đủ nghiêm mật, một người khen đối phương kỵ binh đủ hung mãnh. Nhưng khi ý thức được thái độ của mình chuyển biến, hai người đều có chút ngại ngùng... Bọn họ biết, nếu không phải lửa giận của Thẩm các lão, khiến mình không dám làm việc bằng cảm tình, trận này cho dù thắng cũng không thể phối hợp tốt như vậy, tổn thất khẳng định phải lớn hơn nhiều.

Duy nhất khiến người đau lòng là tham trú kết trận đã bị người Mông Cổ chém bắn, sát thương hơn 100 con... Thật ra phần lớn còn sống, nhưng trên đường hành quân nào có điều kiện cho chúng nó trị thương nghỉ ngơi? Chỉ có thể giúp chúng nó giải trừ thống khổ thôi.

Các trú thủ đem hàng hóa trên lưng các tham trú không thể đi được nữa chuyển dời đến trên người tram trú khác, sau đó chảy lệ cho chúng nó một cái thống khoái, đại quân liền tiếp tục đi tới.

Dọc theo đường đi, Hồ Thủ Nhân, Lý Thành Lương, còn có đầu lĩnh đà đội đều nắm chặt nghiên cứu làm sao dưới tiền đề không ảnh hưởng đến uy lực của đà trận mà có thể bảo hộ đà đội với mức độ lớn nhất. Nhưng người Mông Cổ không dám xuất hiện tại ban ngày, cho nên cải tiến hiệu quả thế nào thì phải đợi ngày sau kiểm nghiệm.

Buổi tối ngày hôm sau là cơ hội cuối cùng của người Mông Cổ rồi, bằng không buổi chiều ngày mai đà đội sẽ đến Đông Thắng. Ban đêm, ông trời như không giúp, mây đen ngâp trời, đen kịt như mực, tạo thành trắc trở rất lớn cho bên phòng thủ.

Không có gì bất ngờ khi quân Mông đã tập trung đại bộ phận binh lực thực hiện tổng tiến công đối với tham trú đội của quân Minh. Vì đối phó với loại đà trận khó chơi này, họ còn lôi ra cả hai mươi mấy khẩu pháo như bảo bối thu được của quân Minh.

Chuẩn bị mà đến quả nhiên có khác, hai mươi mấy khẩu pháo rống giận lên, phi đạn mang theo khói đặc, lấp lóe ánh lửa bay về phía đà trận của quân Minh, hơn 1000 điểu thương thủ cũng ở trước trận hướng về quân Minh mãnh liệt xạ kích. Hầu như cùng lúc đó, hỏa thương thủ của quân Minh cũng triển khai đánh trả. Mặc dù họ không có đại pháo, nhưng hỏa thương tân thức trong tay hoàn mỹ hơn nhiều so với hàng buôn lậu, tước đoạt được của quân Mông, tầm bắn vừa xa lại chính xác, vả lại tập trung hỏa lực chuyên bắn pháo thủ. Khai chiến không lâu thì đã có hơn 40 pháo thủ quân Mông trúng đạn mà chết. May nhờ người Mông Cổ ít hoả pháo, mỗi khẩu pháo phân phối pháo thủ nhiều, chết bao nhiêu đều có người thay thế, vẫn bảo trì đại pháo không ngừng nghỉ.

Đêm tối trên cánh đồng tuyết, bờ sông Ô Lan Mộc Luân tiếng pháo ầm ầm, chấn mặt đất rung động kịch liệt, mấy chỗ ở doanh trại quân Minh đã bốc lửa, trong cơn gió Bắc nổ đồm độp, khói đặc cát bụi trên chiến trường xông thẳng trời cao, tiếng giết tiếng trống không dứt bên tai. Toàn cảnh khẩn trương kinh khủng... Nhưng trú trận của quân Minh cũng không bị công vỡ. Khó ở chỗ tham trú là sống, vài lần chính diện bị nổ tung, tham trú bị đánh máu thịt văng tung tóe, lập tức liền có trú thủ điều chỉnh bổ sung. Mãi đến khi người Mông Cổ tập trung toàn bộ hoả pháo công kích vào một điểm của quân Minh, điểu thương cùng cung tiễn tập trung xạ kích trú thủ, lúc này mới thấy hiệu quả.

Sau khi trả giá thảm trọng, đà trận của quân Minh rốt cuộc bị xé ra một chỗ hổng vài chục trượng, người Mông Cổ lập tức như sói thấy máu cao giọng tru lên, như thủy triều xông tới. Kèn lệnh trong doanh trại quân Minh lập tức vang lên, một vạn kỵ binh như thủy triều tuôn ra trước trận, lang nha bổng trong tay Lý Thành Lương chỉ về phía trước, điên cuồng hét lên:

- Chỉ tiến không lùi!

Các tướng sĩ đã sớm xoa tay, nóng lòng muốn thử liền cùng nhau giơ lên súng tam nhãn trong tay, đỏ mắt chờ quân Mông đến.

Bờ sông Ô Lan Mộc Luân lập tức hiện ra một trận huyết chiến dao sắc vật lộn!

Quân Mông chừng 3 vạn, đều là dũng sĩ Mông Cổ tinh tuyển từ các bộ lạc, mỗi người tinh kỵ thuật, thiện đâm chém. Lại còn thêm bị đói cả mùa đông, đã sớm bị lửa giận thúc đẩy, hóa thành đàn sói đói thảo nguyên. Quân Minh nhân số tuy ít, nhưng là quân do thiên tài tướng lĩnh Lý Thành Lương dẫn đội, dưới huấn luyện ma quỷ của hắn không chỉ kỵ thuật và võ nghệ không chỉ không thua quân Mông chút nào, hơn nữa kết trận xung phong, tiến lui có bài bản, chiến thuật tố dưỡng phải cao hơn đối thủ. Vừa bắt đầu, quân Minh liền dùng súng tam nhãn áp chế xuống sự thô bạo của người Mông Cổ, còn phá trận địa ra một lỗ hổng. Lý Thành Lương quơ lang nha bổng thúc ngựa dẫn đầu, các tướng sĩ cũng xách súng tam nhãn đầy gai theo sát xông vào trận địa địch. Song phương như hai cổ thủy triều xông vào nhau, đại pháo và điểu thương lúc này đã không còn dùng được nữa, mỗi người trên chiến trường đều như hũ máu, chỉ dùng mũ giáp hay là nón nỉ để phân biệt. Chiến mã hí dài xông qua xông lại, Mã đao và Mã đao chạm nhau, ánh lửa văng tung tóe. Đầu người bị chém rớt xuống bị chân người móng ngựa đá lăn qua lăn lại, máu me chảy dài trên đất, rất nhanh đông lại thành một màu tím đen.

Song phương huyết chiến hết quá nửa canh giờ, Lý Thành Lương suất lĩnh bộ hạ như hổ điên giết hết đợt này đến đợt khác, làm cho người Mông Cổ có loại ảo giác như Mã vương gia đích thân tới. Nhưng mà chung quy địch đông ta ít, quân Minh rõ ràng cảm thấy cật lực, lực sát thương không bằng lúc đầu, thương vong ngày càng tăng.

Lý Thành Lương cũng bị thương, tranh thủ xoa vết máu trên lông mày, ánh mắt hắn nhìn ra hướng Bắc, thấy nơi đó vẫn không có động tĩnh gì, bèn chửi ầm lên:

- Thích Kế Mỹ, ngươi muốn hại chết lão tử hả?

Không biết có phải nghe được tiếng hắn chửi hay không, từ xa truyền đến tiếng hò hét rung trời động đất! Chiến trường đang kịch chiến thoáng chốc yên tĩnh lại, song phương đang chém giết nhịn không được nhìn theo hướng tiếng la, liền thấy một nhánh kỵ binh màu trắng đang từ mặt tuyết phương Bắc đánh đến.

- Con bà nó!

Lý Thành Lương cười mắng một tiếng, lại la to:

- Viện binh đến rồi, thất xích nam nhi kiến công lập nghiệp ngay tại lúc này, bao vây!

Quân Minh nghe được tiếng hô này, tức thì năng lượng tràn đầy, như phát điên điên cuồng vung chém. Quân Mông mặc dù nhiều người, nhưng thủy chung không làm gì được một vạn kỵ binh này, còn bị Phật Lãng Cơ trong đà trận của quân Minh phản kích mạnh mẽ, từ lâu đã không còn thấy hy vọng thắng lợi. Hiện tại thấy viện binh của quân Minh lại tới, tự nhiên càng nản lòng hơn, không để ý đến đầu lĩnh, đều thúc ngựa lui lại.

- Một đám phế vật!

Hoàng Đài Cát đốc chiến ở hậu phương thấy sắp chống không lại, chỉ có thể bực mình ra lệnh - "Hồi quân", không để ý tới đường đệ Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ mặt xám như tro tàn, dẫn theo bản bộ của mình rút khỏi.

- Các đệ đệ, nhanh phân công nhau hành động, thu gom bản bộ đi thôi! - Bái Tang mặt như bụi, hắn không cảm giác được chút hy vọng thắng lợi nào rồi.

Theo quân Mông thấy thì bên Lý Thành Lương tổn hao quá lớn, đã sớm tinh bì lực tẫn, bên Thích Kế Mỹ cũng điên cuồng chạy trong tuyết hơn 10 dặm đến, đã thành nỏ mạnh hết đà, cho dù truy kích chẳng qua cũng chỉ làm bộ.

Nhưng mà họ đã đánh giá thấp hai người điên này, khó lắm mới không có Thích Kế Quang ràng buộc, đâu thể đơn giản bỏ qua dạy quân.

Hai người hạ đạt cùng mệnh lệnh, truy kích, không đến Hoàng Hà không ghìm ngựa! Ai không đủ lực thì tự động trở về, nhưng sau khi tập hợp đội ngũ bên cạnh Hoàng Hà, ngay tại chỗ luận công được thưởng thì coi như không hợp quy định.

Mệnh lệnh lưu manh này, các tướng sĩ đang mệt chết luôn mồm mắng cha chửi mẹ, nhưng đành phải cắn răng kiên trì, theo đại bộ đội mở đợt truy kích!

Đuổi, đuổi, đuổi, từ ban đêm đuổi cho tới hừng đông, từ sáng đuổi cho đến chiều. Chiến mã không chịu được, miệng sùi bọt mép bãi công, người đành phải xuống ngựa, lái xe trượt tuyết đuổi tiếp.

Người Mông Cổ nằm mơ cũng không nghĩ tới lại ăn trộm gà không được còn đụng phải hai con chó điên, một mặt vứt bỏ ngựa ôm lấy xe trượt tuyết, một mặt chỉ hận cha mẹ sinh thiếu hai cai đùi.

Cứ như vậy một đuổi một chạy, tướng sĩ hai quân ngã lăn ven đường vô số kể... Mãi cho đến gần hoàng hôn thì người Mông Cổ không trốn nữa. Bởi vì bọn họ thấy được, khắp nơi là quân Minh liệt trận trước sông, phong tỏa gắt gao con đường mà họ nhất định phải đi qua.

Lúc này, quân Minh phía sau cũng đuổi tới, hình thành thế vây kín.

- Làm, làm sao bây giờ? - Bố Dương Cổ đảo tròng mắt hỏi nhị ca.

"..."

Bái Tang ngửa mặt nằm ở trên mặt tuyết, nhắm mắt giả chết:

- Thích làm gì thì làm...

Chương 850: Ỷ Thiên

Thích Kế Quang cả mùa đông làm công trình, rất có kiểu như muốn biến chiến trường thành công trường, tiếp tục chiếm đóng lâu dài, quả nhiên tạo được ám chỉ tâm lý mạnh mẽ cho người Mông Cổ, hình như quân Minh đã xác định là co đầu rút cổ không ra.

Nhưng cái gọi là bó ngựa bắt ve, chim sẻ ở phía sau. Lợi dụng quân Mông có cái tâm nhất định phải được đối với lương thảo của quân Minh, Thích Kế Quang bày ra một cái bẫy đơn giản nhưng xảo diệu, tại trận chiến cuối cùng ở vịnh Cây ớt, thông qua bố trí mai phục trước, đánh đuổi từ xa, khiến quân địch sức cùng lực kiệt, không chiến tự bại. Cuối cùng không nả một phát súng, không uổng viên phát đạn, liền bắt trên vạn quân Mông làm tù binh, cùng với ba đệ đệ của Nặc Nhan Đạt Lạp. Lại còn thêm hơn 1000 người bị mất mạng truy kích trên đường, cùng với hơn 2000 tử thương trong lúc kịch chiến ban đêm, lực lượng cuối cùng của Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ cũng hầu như tan rã.

Hai cha con Nặc Nhan Đạt Lạp trong Lộc trùng doanh của quân Minh mắt thấy hai quân kịch chiến, thi thể la liệt, sau đó thấy rõ toàn quá trình một chạy một đuổi. Loại tư vị bàng quan tộc nhân từ kịch chiến đến tan tác này tuyệt đối có thể khiến người hoàn toàn tan rã. Nếu như không phải quân Minh thủy chung không có thả lỏng giám thị, Ô Nạp Sở khẳng định nhịn không được phóng hỏa đốt đi Phúc trùng doanh như núi dưới chân rồi.

Khi tin tức Bái Tang, Bố Dương Cổ, Ba Đặc bị bắt truyền trở lại, Ô Nạp Sở tái mặt, cúi đầu không nói, Nặc Nhan Đạt Lạp thở dài một tiếng nói:

- Con thấy chưa? Thẩm đốc sư không có nói bậy, hắn muốn tiêu diệt chúng ta thì quả thật không phải việc khó gì hết.

Trước đó hai cha con tranh luận về Thẩm Mặc chủ động vươn cành ô- liu, mỗi lần đều vì nữ nhi kiên trì cho rằng "Đối phương là bởi vì đánh không thắng nên mới dùng cách dụ dỗ." mà kết thúc.

Nhưng hiện thực tàn bạo đã dạy cho công chúa kiêu ngạo biết, từ khi quân Minh nhập bộ tác chiến tới nay, bất kể là tao ngộ chiến, tập kích chiến, công thành chiến, trở kích chiến, hay là phòng ngự chiến, hầu như là lấy đủ các cách thức đánh bại quân Mông, hoàn toàn bóc tan lòng tự tin của dân tộc thảo nguyên.

Thật ra điều này cũng không có gì, tính tình của dân tộc thảo nguyên cởi mở, sẽ không bởi vì trên chiến trường bị đánh bại mà rơi vào thù hận, trái lại sẽ bị thuyết phục bởi cường giả đánh bại họ. Nhưng Ô Nạp Sở vừa nghĩ đến gương mặt tuấn tú ôn hòa vô hại kia nàng liền hận đến nghiến răng nghiến lợi, bởi vì đó càng tôn thêm cái thói vênh váo tự đắc của bản thân y, quả thực buồn cười mà...

"Người Hán xấu xa quá, cố ý dùng cách này để làm nhục ta." Chung Kim nắm chặt tay, hận không thể bóp chết họ Thẩm kia.

Thấy con gái thật lâu không nói, Nặc Nhan Đạt Lạp lo lắng hỏi:

- Nghĩ cái gì vậy?

- Không có gì.- Chung Kim lắc đầu, khẽ cắn môi dưới nói: - Con chỉ nghĩ, nếu có thể sử dụng vũ lực giải quyết thì cần gì phải vẽ rắn thêm chân giả mù sa mưa chứ?

- Thẩm đốc sư không phải là giả mù sa mưa đâu con.- Nặc Nhan Đạt Lạp thở dài một tiếng nói: - Mà là lòng nhân từ, ông trời giáng người này xuống làm thống soái Đại Minh, đó là cái phúc của người Hán, cũng là vận khí của người Mông ta.

- Cha chán quá...

Chung Kim quay đầu đi chỗ khác, chỉ hừ một tiếng, nhưng tìm không ra lý do cãi lại.

********

Tin tức chiến thắng truyền tới Du Lâm bảo, Thẩm Mặc thở phào một hơi dài, nói với Vương Sùng Cổ:

- Năm nay trôi qua yên tĩnh được rồi.

Nhưng mà cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, y còn chưa yên tâm thì lòng lại bị thắt lại.

Phiền phức lần này cũng không phải đến từ Tây Bắc, mà là Đông Nam. Tuần phủ Tô Tùng Hải Thụy vừa mới nhậm chức không đến ba tháng lại vén lên phong ba đêm giao thừa...

Nói đến vấn đề cực kỳ quan trọng hiện nay của Đại Minh thì có hai, ngoại là định biên bình Lỗ, nội là bổ sung quốc dụng quốc gia. Theo Cao Củng và Trương Cư Chính, muốn sung túc quốc dùng thì phải phổ biến Nhất điều tiên pháp, thuế nên thu thì phải thu hết, mà tiền đề muốn phổ biến Nhất điều tiên pháp là phải đo đạc ruộng đất lại, để xác định mức thuế mỗi nhà nên nộp.

Nhưng từ Chính Đức tới nay, ruộng đất Đại Minh thôn tính nghiêm trọng, phần nhiều đều tập trung đến danh nghĩa của tôn thất huân quý, quan địa chủ. Những người này ỷ vào đặc quyền giấu diếm, trốn thuế, từ đó trắng trợn mưu lợi bất chính. Triều đình muốn phổ biến đo đạc đất đai thì không phải muốn mạng của họ rồi? tự nhiên sẽ liều mạng chống lại. Bởi vậy thí điểm tại mới nơi đều rất khó khăn, nửa chừng bỏ dở, thậm chí quan viên phụ trách còn bị đánh mất chức quan. Cục diện rơi vào khốn đốn.

Trên hội nghị nội các, Trương Cư Chính đề xuất trước tiên phá hai pháo đài ngoan cố là Trác Hòa Tùng Giang, mượn cái này để phá bỏ cục diện, và đã nhận được Cao Củng cho phép. Sau đó là vấn đề nhân tuyển. Cao Củng hỏi ý Thẩm Mặc, kết quả Thẩm Mặc đề cử Lâm Nhuận đi Sơn Đông làm tuần phủ, về phần tuần phủ Tô Tùng, dưới ám chỉ của Thẩm Mặc, Cao Củng cho Hải Thụy Hải Cương Phong đang ràn nhỗi ở nhà.

Bổ nhiệm vừa ra, cả triều ồ lên, vô số người đưa ánh mắt ước ao hướng về Hải Thụy.

Vì sao hâm mộ hắn? Bởi vì tên đầy đủ của chức quan này là Đô Sát viện hữu Thiêm đô ngự sử, tổng lý lương trữ, đề đốc quân vụ, kiêm tuần phủ Tô Tùng. Chức vụ này thật sự quá chói mắt, được xưng là thiên hạ đệ nhất phủ phục vô số chức quan Minh triều, cho một tổng đốc cũng không đổi. Công việc béo bở tự nhiên cũng không nhiều. Cái gì văn tuyển, võ tuyển, vận muối, thuế sứ... Nhiều như rừng, nhưng so với tuần phủ Tô Tùng này, quả thật chỉ là đom đóm so với ánh trăng.

Đơn giản phân tích một chút chức quan này. Đầu tiên, tuần phủ Tô Tùng các nơi, tên đầy đủ của nó là tuần phủ Tô Tùng 10 phủ 1 châu, khi đó xưng là 11 phủ châu, bao gồm, Ứng Thiên, Tô Châu, Tùng Giang, Thường Châu, Trấn Giang, Thái Bình, An Khánh, Trì Châu, Quảng Đức, Ninh quốc, Huy Châu. Nói ngắn gọn, chính là ngoại trừ tuần phủ Phượng Dương, 7 phủ do Nam trực đãi quản hạt, nó là nơi phồn hoa giàu có nhất của quốc gia. Nó không chỉ là kho lương của Đại Minh, cũng là nơi phát ra phú chủ yếu của triều đình, đã chiếm 7 thành toàn bộ thuế má.

Trừ điều đó ra, còn có cái gọi là tổng lý lương trữ, Đề đốc quân vụ chính là muốn bảo đảm các địa khu kể trên cùng với Phúc Kiến, Quảng Đông, địa khu tây nam có nguồn cung ứng vật tư cuồn cuộn không ngừng đối với Bắc Kinh. Lương thực, vải vóc, tơ lụa, thiết khí cùng với các loại vật chất khác ở phía Nam, thông qua Trường Giang, kênh đào vận đến Bắc Kinh, vận đến biên cảnh phương bắc. Có thể nói là đường số mệnh của Minh triều. Chức trách cơ bản của tổng lý lương trữ chính là bảo đảm cung ứng vật chất cho đường số mệnh này.

Cuối cùng, phía trước các thuật chức kể trên còn treo một thân phận Đô Sát viện hữu Thiêm đô ngự sử. Đây là danh hiệu đại quan phong cương đều phải treo. Có danh hiệu này rồi, có thể tiến hành giám thị tất cả quan viên bên trong khu trực thuộc. Mặc dù bản thân của Thiêm đô ngự sử này chỉ là chính tứ phẩm, nhưng bởi tổng lý lương trữ, đề đốc quân vụ cộng thêm tuần phủ, đây là chức vụ tương đương với chính nhị phẩm rồi.

Lấy chỉ là cử nhân xuất thân đạt được chức quan hiển hách như vậy, Hải Thụy cũng hết sức hưng phấn. Hắn có thể cảm nhận được sự kỳ vọng của triều đình và nội các đối với bản thân cao bao nhiêu. Vì vậy âm thầm lập hạ thệ ngôn, mình sẽ tận nỗ lực để đền đáp triều đình, hoàn thành sứ mệnh của mình, không phụ phó thác của chư vị các lão.

Vì vậy hắn lĩnh văn kiện bổ nhiệm, dọn dẹp một chút đồ đạc, rồi ngựa không dừng vó, hào khí can vân Nam hạ đi nhậm chức.

Trung Quốc có câu thành ngữ gọi là tiên thanh đoạt nhân (ra oai trước để áp chế đối phương), lại gọi là tiên thanh đoạt nhân chi khí. Từ này dùng để hình dung lần này Hải Thụy đi nhậm chức, quả thật không gì chuẩn xác hơn. Người khác còn đang trên đường thì tin tức nhậm chức đã truyền tới Tô Tùng, nơi thiên đường nhân gian ca vũ thăng bình lập tức như vỡ òa lên.

Người có tên cây có bóng, hung danh của Hải diêm vương quá thịnh, bởi sợ hãi đối với hắn phát ra từ nội tâm, đám quan lại lớn nhỏ thường ngày ăn hối lộ trái pháp luật, chuyện tốt không làm liền dự đoán rơi vào trong tay hắn không chết cũng phải lột da, thật sự không thể trêu vào, vậy chỉ có tránh thôi. Thế là không kịp viết báo cáo từ chức với triều đình, đã vội thu gom đồ đạc, mang theo tài sản vơ vét được chạy trốn, chỉ sợ chậm một bước sẽ bị Hải Thụy nhốt trong nha môn.

Những quan viên ngoại tịch có thể cuốn gói rời đi, nhưng đám hương thân phú hào thường ngày tác uy tác phúc, khoe của khoe giàu thì đi không được, chỉ có thể vội vàng thu liễm hành vi, không dám đến nơi sa hoa thanh sắc, càng không dám mang theo nô tỳ rêu rao khắp nơi nữa, cả ngày đại môn không ra, nhị môn không bước, còn tiểu thư khuê các hơn cả khuê nữ của mình. Trước kia họ thích sơn đại môn nhà mình thành màu son, vừa vui mừng, lại ý nghĩa phát đạt. Hiện tại vội vàng đổi màu son thành màu đen, cố đạt được khép mình nhất, quyết không thể để cho Hải diêm vương để mắt tới.

Thật sự không dám ra khỏi cửa, cũng không dám mặc hoa phục sang quý, đều đổi thành áo vải, áo đay, hận không thể đắp lên chút mụn vá để giả trang thành trưởng lão Cái Bang. Trước kia gặp mặt người khác đều là không ngoài ba câu thì đã so giàu, nhưng hiện tại nghe người khác nói nhà của mình có tiền thì còn khó chịu hơn cả mắng tổ tông tám đời nhà hắn.

Thậm chí ngay cả thành Nam Kinh không bị hắn quản hạt cũng bị rung động. Thái giám trấn thủ Nam Kinh là Mã Toàn, án theo quy chế hẳn là ngồi quan kiệu bốn người khiêng. Nhưng hắn ỷ vào từng là đại nội tổng quản lưỡng triều, thường ngày uy phong lẫm lẫm, ra vào đều là kiệu 8 người khiêng. Khi hắn nghe nói Hải Thụy sắp tới, không chỉ giảm thấp xuống quy cách của kiệu, ngay cả tuỳ tùng tôi tớ cũng giảm đi hơn phân nửa, chỉ sợ khi ra khỏi Nam Kinh không chú ý sẽ bị Hải Thụy tóm.

Các nơi xa hoa lãng phí nghe tiếng toàn quốc lại bởi vì sự xuất hiện của hắn mà phải thay đổi tục lệ thẩm mỹ, không thể không nói, Hải đại nhân đã đến cảnh giới tiền vô cổ nhân.

*********

Vì thế khi Hải đại nhân đến Tô Châu, hắn kinh ngạc phát hiện, tòa thành thủ phú nổi tiếng toàn quốc này không ngờ trên đường không một ai mặc y phục tơ lụa, hình như đã lùi lại mấy trăm năm so với năm hắn đi.

Đây rốt cuộc là sao? Hải Thụy ôm một bụng nghi vấn, rốt cuộc sau khi tiến vào nha môn mới mời tiền nhiệm tuần phủ Quy Hữu Quang vốn cố ý ở lại chờ hắn để giải thích nghi hoặc.

Nhìn vẻ mặt khó hiểu của hắn, Quy Hữu Quang thầm cười khổ: nguy rồi, người này còn tưởng rằng mình cai trị Tô Châu cho hoàn toàn đổi khác rồi chứ. Hắn liền thở dài nói:

- Chuyện này nói đến thì dài. Chúng ta cứ vừa ăn vừa nói đi.

Trước khi Hải Thụy mở miệng cự tuyệt thì hắn đã giải thích:

- Yên tâm, biết đại nhân không thích xã giao, chỉ có hai chúng ta thôi, hơn nữa là bản thân ta bỏ tiền, không cần quan phủ chi tiêu.

Nghe hắn nói như vậy, Hải Thụy cũng có chút xấu hổ, nặn ra nụ cười nói:

- Ta ăn là được mà.

- Vốn nên như vậy.

Thấy Hải Thụy nể tình, Quy Hữu Quang vui mừng quá đỗi, vội vàng kéo hắn đi vào, hình như rất sợ hắn chạy vậy.

Đi vào đại sảnh, thấy bên trong bài biện xa hoa, Hải Thụy cau mày không nói gì, lại nhìn bàn tiệc cũng cực kỳ xa xỉ, rất nhiều món ăn ngay cả hắn làm quan nhiều năm tại Tô Châu cũng còn chưa biết tên. Hải Thụy mấp máy môi, cuối cùng nhịn xuống.

Cùng Quy Hữu Quang đông tây chiêu mục ngồi xuống, hắn mới thở dài nói:

- Chấn Xuyên huynh không nên tốn kém như thế làm gì.

Quy Hữu Quang vẫn hứng thú nhìn phản ứng của hắn, vừa châm rượu vừa khen ngợi:

- Xem ra nhiều năm không gặp, Cương Phong huynh quả thật thay đổi rồi.

Hắn cười đến híp mắt nói:

- Ta còn tưởng rằng huynh thấy bữa tiệc này sẽ quay đầu đi ngay chứ.

- Ha ha!

Hải Thụy vuốt chòm râu đã pha sương nói:

- Trải qua nhiều chuyện như vậy, nếu như ta còn không thể chấp nhận, đó mới gọi là ngạc nhiên đấy.

- Ta còn tưởng rằng.- Quy Hữu Quang cười nói: - Cả đời này huynh không biết thay đổi chứ.

- Nên đổi thì đổi.- Hải Thụy nghiêm mặt nói: - Ngươi đã nói rõ trước đây chỉ dùng tiền của mình để mời ta ăn cơm, ta sẽ không như trước đây, chỉ lo đến cảm thụ của mình. Nhưng lần sau ngươi cũng đừng thế nữa.

- Được, nghe lời huynh.- Quy Hữu Quang nghe vậy trong lòng rất an ủi, bưng lên chung rượu nói: - Nào, cụng ly cho ngày chúng ta gặp lại.

Hải Thụy bưng lên chung rượu, uống một hơi cạn. Quy Hữu Quang tiếp thêm rượu cho hắn nhưng lại bị Hải Thụy đưa tay ngăn lại:

- Ngươi còn chưa trả lời vấn đề của ta mà.

"..."

Quy Hữu Quang suy nghĩ một chút, mới ý thức được vấn đề là gì, hắn liền đặt bình rượu xuống rồi cười dài nói:

- Không dối gạt Cương Phong huynh, Tô Tùng giàu có đã đến mức hơn bao giờ hết, như bàn tiệc ngày hôm nay chẳng qua là tiêu chuẩn của bách tính bình thường yến khách thôi.

- Vậy vì sao những gì ta thấy được lại giản dị tiêu điều như thế chứ? - Hải Thụy trầm giọng hỏi.

- Còn không phải là bởi vì huynh sao.- Quy Hữu Quang cười khổ một tiếng nói.

- Cớ là sao? - Sắc mặt Hải Thụy không tốt lắm.

- Đoạn thời gian trước, quan viên ở đây vừa nghe huynh muốn tới thì hoảng sợ gần chết. Nói khó nghe một chút đó là tin tức huynh nhậm chức giống như một đạo bùa đòi mạng, rất nhiều quan viên tự cảm giác chẳng phải sạch sẽ không kịp xin điều động đã vứt quan bỏ đi, cũng không dám đối mặt với huynh. Các phú hào đại hộ khắp thành cũng trong một đêm hết thảy sửa nước sơn đại môn từ sơn son thành màu đen. Càng buồn cười là trên đường họ không dám cưỡi ngựa ngồi kiệu, mà thành thật đi bộ, còn mặc xiêm y của nô bộc hạ đẳng.

Quy Hữu Quang chậc lưỡi tán thán nói:

- Buồn cười nữa là các gian thanh lâu sa hoa trong thành Tô Châu trong một đêm đóng cửa hết, các danh kỹ thì chạy hết đến Chiết Giang kiếm ăn... Cho nên cảm giác của huynh không sai chút nào, thành Tô Châu quả thật trong một đêm đã về tới năm Hồng Vũ rồi.

- Ha ha ha...

Hải Thụy nghe vậy cười ha ha nói:

- Tưởng là như vậy là có thể thoát khỏi bàn tay của ta sao?

Đoạn hắn cười lạnh một tiếng:

- Ngày mai ta sẽ dán thông báo, khuyến khích bách tính Tô Tùng đến đây giải oan cáo trạng, ta muốn giúp họ miễn phí lấy lại công đạo với các thổ hào thân sĩ vô đức!

- Như vậy có phải quá nhanh rồi không? - Quy Hữu Quang nghe vậy khẽ biến sắc: - Tô Tùng cũng không như các nơi khác, nơi này là trọng địa thuế má của toàn quốc, vả lại rất nhiều quan viên nhàn cư ở đây, lại còn rất nhiều nhà cường hào ác bá, rút giây động rừng, không nên gây ra rắc rối mới tốt.

- Không có thời gian đâu.- Hải Thụy rất tín nhiệm Quy Hữu Quang, liền không e dè nói ra: - Ta chính là đâm cái tổ ong vò vẽ này đấy, không đập tan thói kiêu căng của đám thân sĩ vô đức đó, thì làm sao hoàn thành phó thác của triều đình được?

- Đại Minh ta từ Chính Đức đến nay đã tam triều, náo động cả 60 năm, người cầm quyền chỉ biết tranh quyền đoạt lợi, bè cánh đấu đá. Nếu có người lập ý cải cách giúp nước thì cũng bị cản trở khắp nơi, rồi bỏ dở nửa đường. Tình cảnh chúng tướng nội các có cùng chí hướng như bây giờ quả thật tam triều chưa thấy. Ngươi ta trước đây khi tán gẫu không phải là thường than vãn quan đạo hắc ám, không có cơ hôi báo quốc sao? Hiện tại rốt cuộc đợi được cơ hội thi triển hoài bão rồi đấy, chúng ta há có thể tiếc thân sợ hãi, không phụ chí hướng của mình sao?

Hải Thụy hưng phấn hai mắt tỏa sáng, lớn tiếng nói với Quy Hữu Quang:

- Một trường đại cải cách trước nay chưa từng có đã bắt đầu, lại trị, quân sự, tài thuế, các phương diện cùng tiến, đang triển khai đâu vào đấy... Mà điều cực kỳ quan trọng trong đó chính là phổ biến điều tiên pháp, nó không chỉ quan hệ đến thành bại của việc cải cách tài thuế, còn là kiểm nghiệm đối với cải cách lại trị. Trước khi phổ biến điều tiên pháp, việc đầu tiên muốn làm chính là đo đạc ruộng đất!

- Năm đó khi ta tại Tô Châu đã biết ruộng đất ở đây bị sát nhập rất mạnh, ruộng công đã chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, ta luôn căm thù đến tận xương tuỷ việc này! Nói đến tiền nhiệm thủ phụ Từ Giai đi, khi đó ta điều tra án giết người của gia nô nhà ông ta thì phát hiện nhà ông ta chỉ ở Tô Châu chúng ta thôi đã chiếm hơn 24 vạn mẫu ruộng, tá điền có mấy vạn người. Hàng năm tiền thuế đất lại một cắc một đồng cũng không nộp cho quan phủ. Đường đường quốc lão, tiền nhiệm tể tướng mà cũng ngang nhiên xâm phạm quốc thuế, không giữ hình tượng chút nào. Đại hộ thân hào còn lại còn không học theo chứ?

Nhớ tới năm đó mình vừa muốn điều ta tiếp thì bị Từ Giai điều khỏi Tô Tùng, Hải Thụy liền giận không thể nhịn, hắn vỗ bàn, chấn ly tách nhảy lên, nói:

- Không áp chế làn gió độc hại này lại, ngươi ta còn có thể diện gì để mặc bộ quan phục này nữa?

- Huynh đấy, quả nhiên vẫn là Hải Cương Phong đó.

Khi mới gặp, Quy Hữu Quang cho rằng Hải Thụy thay đổi, nhưng vừa tiếp xúc thì mới phát hiện hắn căn bản không thay đổi. Quy Hữu Quang không khỏi cười khổ nói:

- Chiều hướng trong triều kiên quyết cải cách ta lý giải, huynh có ý nghĩ nóng lòng mở cục diện ta cũng hiểu, nhưng huynh muốn bắt Từ các lão khai đao, ta cho rằng không thích hợp đâu.

- Là cớ sao? - Hải Thụy liếc hắn một cái nói.

- Thứ nhất, Từ các lão là tọa chủ của Thẩm các lão, mặc dù quan hệ giữa hai người đã sứt mẻ, nhưng dù sao không có trở mặt hẳn. Huynh lại là người Thẩm các lão tiến cử, vừa đến Tô Tùng đã đi tìm Từ các lão thì sẽ khiến triều dã nghĩ như thế nào? Có thể sẽ cho rằng là Thẩm các lão mượn đao giết người, quan báo tư thù hay không?

(tọa chủ là cách xưng của tiến sĩ đối với quan chủ khảo)

Quy Hữu Quang chậm rãi nói:

- Thứ hai, năm đó huynh bởi vì dâng sớ [Trị an] mà vào tù, là Từ các lão áp chế xuống bản án giảo hình của Lại bộ, khuyên tiên đế khoan dung với huynh, huynh mới miễn được tội chết... Điều này thiên hạ đều biết rồi. Huynh đối đãi với ân nhân cứu mạng như vậy thì thế nhân sẽ nhìn huynh thế nào?

- Tuần phủ như ta là tướng soái của triều đình, thần tử của hoàng đế, không có quan hệ gì với Thẩm các lão.

Hải Thụy dùng một loại ánh mắt kỳ quái nhìn người bạn già ngày xưa:

- Về phần Từ các lão năm đó cứu ta, và hôm nay ta muốn tra rõ ruộng đất nhà ông ta thì đây là hai chuyện khác nhau, ta không thể công tư bất phân!

Quy Hữu Quang còn muốn nói thêm nhưng bị Hải Thụy giơ tay ngăn cản:

- Ý của huynh đài ta hiểu, Hải Thụy ta cũng không phải kẻ lỗ mãng năm đó, trước khi làm việc sẽ bái kiến Từ các lão một chút là được, nói chuyện với ông ấy, nếu như ông ấy đồng ý làm gương, phối hợp với triều đình đo đạc ruộng đất, trả lại cho dân phân nửa số ruộng chiếm đoạt được, tự nhiên ta sẽ không làm ông ấy mất mặt.

Rồi hắn bưng ly rượu lên nói:

- Nhiều năm không gặp, ngày hôm nay không nói những chuyện phiền muộn này nữa, chúng ta cứ ôn chuyện đi.

Quy Hữu Quang thấy hắn không nể mặt, biết nói thêm cũng chỉ tự tìm mất mặt, hắn đành phải kìm lại và tìm một chuyện nhà nói.

Bữa tiệc đón tiếp bạn cũ gặp lại thật ra là tan rã trong không vui. Quy Hữu Quang cố tình khuyên thêm nhưng bất đắc dĩ Hải Thụy cố ý không nghe, đành phải mang theo lo lắng đi Nam Kinh nhậm chức Hộ bộ thượng thư.

***********

Ngày hôm sau, Hải Thụy liền sai người chuẩn bị lễ mọn đến Hoa Đình bái phỏng vị quốc lão Từ Tồn Trai đã từng lấy tay che trời.

Vừa vào thành phủ Tùng Giang, đập vào mắt là Nguyên Phụ phường, Trụ Quốc phường chạm trổ ngọc bên cạnh Tiếp Quan đình. Hai đền thờ này to như thế mà năm đó khi Hải Thụy tại Tô Châu còn chưa thấy, hiển nhiên là năm gần đây mới xây để khoa quan cho Từ các lão. Hắn giục ngựa đi vào bên trong thành, thấy quận ấp phồn thịnh, biệt thự chọc trời, danh viên đan xen, nhà cửa san sát. Trên đường hàng quán trải dài, thị dân qua lại tấp nập, thật là cảnh tượng thương mậu phồn vinh, an cư lạc nghiệp, cũng không thua kém Tô Châu bao nhiêu.

Đi qua cầu treo ngoài Cốc Dương môn lại thấy đền thờ đứng vững, đang muốn hỏi thì tuần phủ tham nghị Vương Tích Tước đang đi song song với hắn giới thiệu:

- Đây là Đại học sĩ phường, xây lên để kỷ niệm khi Từ thiếu sư tấn chức Đại học sĩ.

Đi qua Đại học sĩ phường lại quẹo đi thẳng về phía Nam chính là Nam Thiền tự mà Từ thị tộc cư ngụ. Hải Thụy phóng tầm mắt nhìn, thấy phủ trạch vùng này, cự trạch tương liên, lâu quỳnh điện ngọc, đẹp không hề kém cung thất. Vương Tích Tước giới thiệu cho hắn, cao môn đại viện ở chính giữa chiếm diện tích trăm mẫu, ngũ đàn lầu các uốn quanh mọc lên chính là nơi ở của Từ các lão. Sát bên Từ phủ là ba trạch viện của Từ Trắc tam đệ Từ Giai. Vùng nằm sát bên cầu Thái Bình là từng hàng tinh xá cũng tráng lệ không kém lâu viện nhiều, hơn xa gia đình tài chủ thông thường. Khi hỏi kỹ mới biết khu tinh xá này là của trưởng tử, thứ tử, tam tử của Từ Giai... do tổng quản của quý phủ xây lên. Trước Nam Thiền tự là thứ tử Từ Côn, trạch viện của tam tử Từ Anh tự nhiên là lâu quỳnh điện ngọc, rộng rãi hơn cả vương hầu.

Sau khi giới thiệu xong, Vương Tích Tước lắc đầu, thấp giọng nói:

- Hoành tráng quá...

Mặt Hải Thụy hầm hầm, hắn đã làm quan tại Tô Châu, phú hộ thấy qua đâu chỉ trăm nghìn, nhưng giàu có như Từ gia thì không có cửa. Thật sự không thể liên hệ được tất cả cảnh tượng trước mắt cùng với lão thừa tướng xưa nay lấy thanh liêm giản dị làm người.

Nếu như là 10 năm trước, hắn khẳng định quay đầu đi ngay, nhưng hiện tại, hắn có thể áp chế sự chán ghét dưới đáy lòng, tất cả lấy đại cục làm trọng.

Đi tới trước cửa Từ phủ, đội trưởng thị vệ đưa lên danh thiếp của Hải Thụy:

- Đại nhân nhà ta đến đây bái kiến Từ các lão.

- Xin lỗi, các lão nhà ta sức khỏe không tốt, gần đây không tiếp khách.

Giữ cửa mặc áo lụa cũng không cầm danh thiếp, lễ phép lãnh đạm nói:

- Vị đại nhân này vẫn là mời trở về đi.

Đùa à, Từ các lão muốn gặp là có thể gặp sao? Tưởng phượng hoàng rụng lông rồi thì không bằng gà sao?

Thị vệ đội trưởng hiểu rồi, thằng này là muốn tiền đây. Nếu đi cùng đại nhân khác, tiền này khẳng định bản thân hắn sẽ móc ra, nhưng đi theo con ma nghèo Hải Thụy này, nuôi cả nhà cũng thành vấn đề, ai lại đồng ý bỏ tiền thay hắn? Thế là quay lại nhỏ giọng bẩm báo.

Hải Thụy dù có tiền cũng không thể cho đâu, hắn lạnh lùng bảo tên giữ cửa:

- Ngươi đi thông báo một tiếng, nói là tuần phủ Tô Tùng Hải Thụy bái kiến, nếu như Từ các lão không gặp thì ta sẽ quay lại ngay, nhưng nếu ngươi dám không thông báo, ngày sau bị Từ các lão biết thì tự mà gánh lấy hậu quả!

Sau khi Từ Giai trí sĩ, lực ảnh hưởng của ông ta vẫn còn, môn sinh bạn cũ càng thân cư cao vị, nắm giữ triều chính. Các quan viên trước đây tới quý phủ bái kiến vẫn nối liền không dứt, lại còn thêm Hải Thụy tướng mạo kham khổ, tùy tùng rất ít, còn cưỡi ngựa tới, trong mắt tên giữ cửa đương nhiên là dạng tiểu quan chi ma lục đậu đến đây bái yết cầu quan rồi. Mãi đến khi nghe xong Hải Thụy nói hắn mới biết đối phương chính là kẻ đầu xỏ dẫn đến gần đây quý phủ vắng như chùa bà đanh, Hải Thụy Hải diêm vương. Hắn vội vàng đổi sắc mặt, một mặt cuống cuồng vào trong thông bẩm, một mặt mở rộng trung môn, mời tuần phủ đại nhân vào phòng dùng trà.

'Thế kinh đường', thư phòng Từ phủ là một tiểu hiên ba gian được dựng theo phong cách cổ xưa. Hiên bắc xây hồ nước đá phối hợp với mai, trúc, chuối tây tạo nên Trúc thạch tiểu cảnh. Trước mắt trúc xanh cao ngất một màu. Phía nam là bồn hoa uốn lượn, xen kẽ với các mỏm đá, dựa vào bức tường trắng làm nền làm thăng thêm ý vị, đối cảnh với 'Thế kinh đường'. Bồn hoa tây nam là một dòng thanh tuyền, nước suối dẫn qua từ trong con ao ở chủ viên, lợi dụng cấu tạo xảo diệu khiến nó như giao long nhả châu, một năm bốn mùa nước chảy róc rách. Trong suối sen xanh hạt hồng, cẩm lân bơi lội, tăng thêm phong thủy cho Thế kinh đường. Ngồi trong thư phòng thế này để đọc sách hoặc là phẩm trà, tự nhiên có cảm giác kỳ diệu 'người ở bên trong mà như ở bên ngoài', thật sự là một nơi nhân gian phúc địa được thiết kế cực kỳ khéo léo.

Từ các lão đã lâu không gặp. Ông ta trong bộ đạo bào xanh bằng gấm ngồi trên ghế trúc trong đường, đốt một lò đàn hương, vừa phẩm trà vừa thảnh thơi đọc sách. Nói đến thì từ khi trí sĩ đến nay đã hơn năm rưỡi rồi. Lão thừa tướng đương quốc nhiều năm, thể xác và tinh thần đểu mỏi mệt, về hưu hoàn tịch, thấy con cháu đầy đàn, lão mẫu tại đường, gia viên thịnh vượng, nô tỳ như mây, oán khí trong lòng cũng giảm đôi chút. Ông ta bèn ở trong 'Thích viên' các con trai dựng lên cho, bắt đầu cuộc sống nhàn cư nhẹ nhõm. Mỗi ngày ông ta hoặc đọc sách tại Thế kinh đường, hoặc chơi đùa với các cháu bên cạnh ao sen, hoặc là dự họp hội văn của danh sĩ địa phương, hoặc là cùng cao tăng đại đức đàm kinh luận thiền, cuộc sống trôi qua nhàn nhã, sức khỏe cũng tốt hơn nhiều so với lúc trước ở kinh thành. Ông thường xuyên nói với người ta: "Vất vả hết 40 năm làm nô bộc tại lưới trần, sao lại biết bốn mùa thắng cảnh ở gia hương? Thương tùng bạch hạc, sơn thủy đình uyển, hình như đang trách cứ ta trở về quá muộn."

Đương nhiên cũng không phải hoàn toàn không có chuyện phiền lòng. Thứ nhất, trong kinh thành sau khi Cao Củng ngồi ổn vị trí liền mượn khảo sát khảo quan năm ngoái và ngoại sát năm nay trắng trợn xử lý môn sinh bạn cũ của mình. Ông ta hầu như mỗi ngày đều có thể nhận được mấy phong thư kể khổ cầu xin, hình như tình huống đã đến sát biên giới tan vỡ. Nhưng Từ Giai biết, đây đều là phù vân, Cao Củng càng kiếm chuyện thì càng gần với sụp đổ. Cho nên trong thư hồi âm ông ta thường trích dẫn lời nói của cao tăng cổ đại: "Chỉ cần ngươi nhẫn hắn, nhường hắn, tùy hắn, ngừa hắn, kính hắn, đừng để ý đến hắn, đợi thêm mấy năm nữa, ngươi cứ nhìn hắn xem."

Nếu như cái trước là việc ngoại thân, nhưng cái khác lại là việc nhà mình rồi. Lúc trước khi tại Bắc Kinh, Từ Giai đã bị vài lần buộc tội nói ở quê nhà Tùng Giang của ông ta việc 'con cái phạm pháp, gia phó ngang tàng, hoành hành quê nhà'. Từ Giai cũng viết thơ hỏi qua ý mẫu thân, nhưng đều bị Cố thái phú nhân lấy lý do 'bịa đặt' cho qua. Ở xa nên không tiện hỏi, sau khi về nhà, con cái nô bộc lại hiếu kính ông hơn, cung dưỡng như tổ tông, khiến cho Từ các lão ôm tủi thân đầy người về quê được cảm thấy an ủi. Lại còn thêm trên dưới trong nhà biết ông bởi vì hặc nên ai cũng thu liễm lại, làm cho Từ Giai không thể nào phát hỏa, bởi vậy dự tính muốn nghiêm tra việc này cũng biến thành răn dạy không đến nơi đến chốn.

Nhưng Từ Giai dù sao cũng là Từ Giai, trong miệng nói cho qua nhưng trong lòng vẫn chưa từng buông, cũng thường xuyên nói bóng nói gió với thân thích bằng hữu, thăm dò con cái nô bộc có làm việc phạm pháp hay không. Tuy nhiên mọi người nể mặt ông ta, lại phần lớn đều nhận lợi ích của các con ông nên đều nói trước kia có, nhưng khi đó là do tuổi trẻ lông bông, mấy năm nay mấy vị công tử đã dụng tâm đọc sách, tu thân dưỡng tính, đã tốt hơn nhiều rồi.

Từ Giai nghe xong yên tâm không ít, nhưng cũng không thể tin hoàn toàn, nhưng chung quy là 'dưỡng bất giáo phụ chi qua', cơ bản là trách nhiệm của mình, vì vậy quyết định chuyện cũ sẽ bỏ qua, và xem biểu hiện sau này thế nào. Mọi việc trôi qua một năm nửa năm như không có việc gì, người trong nhà phỏng chừng ông ta đã triệt để lơ là, vì vậy gạt bỏ lời cảnh báo, lại chứng nào tật nấy, bắt đầu hoành hành nơi quê nhà... Chỉ là lần này họ đặc biệt chú ý đến tin tức, cái gì cũng không cho ông ta biết.

Nhưng trên đời này nào có bức tường nào không lọt gió? Một hôm Từ Giai tâm huyết dâng trào, tránh người trong nhà, một mình ra bên hồ thả câu, gặp một ngư ông, khi trò truyện Từ Giai mới biết ông này là danh sĩ Trần Hằng ở Tùng Giang.. Khi ở kinh thành Từ Giai có nghe nói qua đại danh của ông này, sau khi về quê có vài lần đưa thiếp mời gặp, nhưng Trần Hằng này tính tình cao ngạo, chưa bao giờ chịu cúi đầu trước quyền quý, cho nên từ trước đến nay chưa có duyên gặp mặt.

Hai người hàn huyên vài câu, Từ Giai nghe ra đối phương quả nhiên danh bất hư truyền, là một chân quân tử. Hơn nữa đối phương cũng không nhận ra mình, vì vậy trong lòng mấp máy, hỏi ông ta cảm nghĩ thế nào về nhà Từ các lão. Trần Hằng nhìn mặt sông nhấp nhô gợn sóng, thản nhiên nói:

- Từ các lão là nhất đại danh tướng, đấu ngã Nghiêm Tung, bình loạn phản chính, là người có công với xã tắc.

- Điều này ta cũng biết.- Từ Giai hỏi: - Thế nhà ông ta ở quê thì sao?

- Từ các lão đối với gia hương vẫn rất tốt, làm nhiều việc thiện. Nhưng...

Trần Hằng nhìn Từ Giai một cái rồi ngưng không nói tiếp.

- Nhưng cái gì? - Từ Giai thản nhiên cười nói.

- Nhưng mấy đứa con của ông ấy ngang ngược làm nhiều việc phạm pháp, sớm muộn cũng sẽ mang đến cho ông ấy tai họa.- Trần Hằng nhìn Từ Giai, cười mà như không nói.

- Nói thế là sao? - Từ Giai nắm chặt tay cầm cần câu.

- Mấy huynh đệ đó ỷ vào quyền hành của cha mình, để mặc gia nô cướp đoạt ruộng đất của người khác, khi nam bá nữ, hoành hành bá đạo.

Trần Hằng cười lạnh nói:

- Buồn cười là quan viên địa phương bởi vì bọn họ là gia nhân của Từ gia mà không ngó ngàng tới tố cáo của bách tính, người Từ gia không lo ngại gì, tự nhiên làm đủ chuyện xấu rồi.

Mặc dù đều là lời thẳng thắn nhưng cũng khó nghe, Từ Giai đỏ mặt biện bạch:

- Chắc là ông nghe tin đồn thất thiệt rồi?

- Lời của ta ông tự nhiên không tin, nhưng có thể hỏi anh rể Diệp Lư Giang của Từ các lão.- Trần Hằng dựt tay, câu lên một con whitefish, nói: - Anh rể của Từ các lão cũng là một hán tử...

Từ Giai lại hỏi cớ sao, Trần Hằng liền nói cho Từ Giai một cố sự, nói rằng vào mấy tháng trước, Diệp Lư Giang đã từng đến quý phủ, nhưng vừa lúc Từ Giai ra ngoài thăm bạn, nên Từ Phan ở nhà tiếp đãi dượng.

Diệp Lư Giang liền thẳng thắn nói với Từ Phan:

- Ngươi cũng là người từng làm quan, hiển nhiên nên biết quốc pháp kỷ cương, vì sao nô bộc trong nhà hoành hành bên ngoài, bọn đệ đệ của ngươi không quản, ngươi cũng không quản sao?

Lời hắn nói coi như khách khí, không trực tiếp chỉ trích huynh đệ Hứa thị.

- Gia phó không giữ quy củ, sự việc còn có nghi hoặc...

Đối mặt với dượng chất vấn, Từ Phan cười gượng nói:

- Đợi sau khi cháu điều tra rõ, nhất định sẽ trừng phạt nghiêm khắc...

Lời còn chưa dứt, Diệp Lư Giang đã lạnh lùng cười ra tiếng:

- Còn giở giọng với ta à? Cái gì mà việc còn nghi hoặc? Căn bản là chuyện rõ mười mươi, hơn nữa không ít!

Diệp Lư Giang liền liệt kê ra các tội trạng, điều ác của người Từ gia, hắn càng nói càng bực, vỗ bàn nói:

- Nghiêm Tung bị thân bại danh liệt thế nào, còn không phải cũng bị con lão liên lụy à? Lẽ nào ngươi cũng muốn thấy cha ngươi xong đời sao?

Nói đến đây thì Từ Phan nghe không lọt tai rồi, hắn đứng dậy toan đi. Diệp Lư Giang bước nhanh tới kéo ống tay áo hắn lại, lớn tiếng nói:

- Nhưng Nghiêm Tung tối đa chỉ thân bại danh liệt, còn con lão thì phải đầu rơi xuống đất!

Kết quả hai người triệt để trở mặt, Từ Phan không cho phép gia nhân cho Diệp Lư Giang bước vào Từ gia một bước.

Trần Hằng nói rất sinh động, Từ Giai không thể không tin. Kết quả một buổi câu cá êm đẹp, cá thì câu không được con nào, chỉ có ôm về một bụng tức. Ngày hôm sau, Từ Giai vốn định mời anh rể qua phủ nói chuyện, ai ngờ Diệp Lư Giang lấy cớ có bệnh không đến. Từ Giai biết, đây là đã đắc tội với người ta. Thế là ông ta cầm theo lễ vật tự mình tới nhà tìm. Thấy ông ta đích thân đến, Diệp Lư Giang cũng nguôi giận, sai người đem ra hai hũ rượu tuyết hương nhà ủ, mấy món thức ăn, hai người vừa uống vừa nói chuyện. Dưới yêu cầu của Từ Giai, Diệp Lư Giang lần lượt kể ra từng hành vi mà mấy năm nay hắn tận mắt thấy như trên dưới Từ phủ ức hiếp người lương thiện, cấu kết du côn, cường đoạt ruộng đất người khác, lên mặt nạt người, nhục nhã quan viên. Từ Giai nghe được mà lạnh cả tay chân, cảm thấy trời đất quay cuồng từng đợt.

- Nghe được hiền đệ từng nói 'Quân tử chi học khắc kỷ nhi dĩ', nhưng con cái nhà mình lại không biết khắc kỷ là gì. Lại nghe hiền đệ tại Giang Tây ra đề thi hương là [Thánh nhân quý vị nhiên chi phòng], ta cũng cảm thấy nếu không phòng hoạn, thì sẽ muộn mất." - Diệp Lư Giang thống khoái nói ra toàn bộ những gì đã nghẹn trong lòng vài chục năm.

Trở về từ chỗ anh rể, Từ Giai gọi đứa con thứ tư tới lớn tiếng trách cứ, bảo hắn quản giáo môn hạ cho nghiêm ngặt. Mấy đứa con trai khóc lóc biểu thị hối cải. Nhưng Từ Giai biết, họ đều có thể trên dưới thông đồng, giấu diếm mình, răn dạy như vậy đâu có được tác dụng bao nhiêu đâu.

Dù sao con trai đều đã cưới vợ sinh con, mỗi người mỗi phần gia nghiệp, người làm cha như ông ta sớm không quản giáo, hiện tại muốn quản cũng có chút bất lực. Rơi vào đường cùng, ông ta bảo các con đóng cửa tự kiểm điểm hai tháng, nghiêm ngặt quản giáo tôi tớ, không được quấy rầy người trong hương nữa, còn ông ta thì đóng cửa từ chối tiếp khách, suy nghĩ biện pháp chỉnh đốn.

Ngay lúc tâm tình ông ta đang bực bội thì gia đinh đưa tới bái thiếp của Hải Thụy. Từ Giai vừa nghe liền giật cả mình, chẳng lẽ ông trời cũng không cho lão phu một cơ hội bù đắp sao? lại phái tới đây con quỷ vô thường đòi mệnh. Nhưng ông ta đã không còn là tể tướng tại vị, có thể nào chậm trễ với bản tỉnh phủ đài chứ? Thế là Vội vàng sai người thay y phục cho mình, rồi mời Hải đô đường vào đại sảnh gặp mặt.

Mặc xiêm y xong mới ý thứ được bản thân có chút khẩn trương, Từ Giai cười tự giễu, thầm nghĩ: "Sợ cái gì, cho dù hắn là diêm vương gia, ta còn là Địa Tạng Bồ Tát cơ mà." Thì ra Từ Giai nhớ lại, mấy phong thư mà Hải Thụy từng viết cho, trong đó có một lá là sau khi Hải Thụy ra khỏi lao, về Hải Nam thăm hỏi mẹ già, trên đường hưng phấn không ngớt. Từng viết thư cho Từ Giai: "Nay có thể gặp lại cao đường, ân tình sâu nặng, ngu mẫu tử cảm kích khôn nguôi." Đồng thời tán dương chiếu lên ngôi của Từ Giai nghĩ ra, thậm chí so sánh Từ Giai với Y Doãn phụ Thương diệt Hạ, Hoắc Quang phụ Hán.

Vào đầu năm nay Từ Giai lại nhận được một phong thơ của Hải Thụy, mặc dù chủ yếu là ân cần thăm hỏi theo lễ phép, nhưng trên thơ vẫn là đầy đủ khẳng định công tích của ông ta khi tại vị, nói "Nay thiên hạ cách biệt một trời so với bốn năm năm trước, tất cả đều dựa vào ngài hết."

"Có lẽ lão phu vẫn còn vài phần mặt mũi." Từ Giai thầm nghĩ thế, rồi lại không nắm chắc: "Chỉ hy vọng như thế đi..." thu lại tâm sự đầy bụng, Từ Giai được thị nữ dìu đi tới đại sảnh gặp Hải Thụy.

- Học sinh Hải Thụy bái kiến lão sư.

Từ Giai là Thiếu sư kiêm thái tử thái sư, người trước kính xưng "Thái sư", thái sư là thầy của bách quan, cho nên Hải Thụy cung kính giữ lễ là đệ tử.

Thấy hắn giữ lễ cung kính, Từ Giai trong lòng thoải mái, tiến lên đỡ lấy Hải Thụy:

- Không được, không được, hiện tại lão hủ chẳng qua là một giới thảo dân, sao có thể tiếp nhận lễ trọng như thế? Mau mời đứng dậy, mau mời đứng dậy.

Nâng Hải Thụy dậy rồi, Từ Giai lại thân thiết nói:

- Hoàng thượng phái tới thôn ta một thanh niên như Cương Phong đây, thật sự là tạo hóa một phương, cái phúc của bách tính. Lão phu tuổi già lực suy, không có từ xa nghênh đón, hy vọng thứ lỗi cho.

Rồi đưa tay nói:

- Mời.

- Mời lão thái sư.

Khi Từ Giai được thị nữ dìu ngồi xuống thì Hải Thụy đã ngồi ổn ở ghế khách, sau đó người hầu dâng lên trà mới.

- Hai năm không gặp, lão thái sư trông càng khỏe ra ấy.

Hải Thụy nhìn Từ Giai, quả thật khởi sắc hơn so với lúc ở Bắc Kinh, không còn cái vẻ gần đất xa trời như năm đó. Xem ra cuộc sống về hưu còn rất tốt.

- Nhờ phúc, nhờ phúc.- Từ Giai cười dài nói: - May mà hàm răng còn tốt, có thể ăn có thể uống, cũng là một bị cơm tốt.

Rồi thân thiết hỏi:

- Quý quyến của Cương Phong chắc là cùng đi nhậm chức luôn chứ?

- Gia mẫu tuổi tác đã cao, không thích hợp rời khỏi cố hương, chuyết kinh thì đã bệnh chết.- Hải Thụy có chút buồn bã nói.

- Thì ra là thế, lệnh phu nhân không có phúc khí rồi.- Từ Giai thở dài một tiếng, liền phân phó: - Cương Phong đã là phủ đài một tỉnh, bên người sao không có ai chăm sóc được chứ? Người đâu, chọn ra mười nha đầu tôi tớ giỏi giang bên cạnh ta, đi theo Hải đại nhân trở lại nghe sai bảo.

- Không được không được.- Hải Thụy cảm giác hoang đường, đây không phải là ngang nhiên đút lót sao? Hắn vội vàng gọi lại gia đinh kia: - Nhà ta nghèo, nuôi không nổi nhân khẩu dư thừa đâu.

- Cương Phong không cần đa tâm.- Từ Giai cười nói: - Lão phu biết ngươi là đại thanh quan, nhưng ngươi cũng phải biết rằng, bản thân không thể so với lúc trước, hiện tại ngươi là phong cương một tỉnh, phải khai phủ thiết nha, quan phủ có chi tiêu riêng cho ngươi nuôi mã phu, thị vệ, sư gia, nô tỳ, đây đều là hợp tình hợp lý, không ai nói ngươi cái gì đâu, không cần đa tâm.

- Nhưng...

Hải Thụy khẽ than một tiếng:

- Đó cũng không hợp pháp.

- Ha ha, ngươi nói như vậy cũng không sai.- Từ Giai xấu hổ cười nói: - Nhưng này Cương Phong, nếu ngươi gọi ta lão sư thì ta phải nói ngươi hai câu, ta biết ngươi theo đuổi lý tưởng xã hội công bằng, đâu đâu cũng lấy pháp luật tổ tông làm khuôn vàng thước ngọc. Nhưng mà ngươi cũng phải biết rằng, thời đại 200 năm trước đã khác hiện tại, Thái tổ hoàng đế anh minh thần võ cũng không thể dự liệu được biến hóa đến bây giờ.

Chung quy đã không ở quan trường, Từ Giai nói cũng tự do không ít.

- Mượn tuần phủ ngươi mà nói, thời Thái tổ hoàng đế, triệt hành tỉnh, lập tam ti phân quyền, vốn không có thiết lập tuần phủ.

Từ Giai chỉ dẫn từng bước:

- Nhưng sau đó dần dần phát hiện, tam ti cản tay lẫn nhau, chính lệnh không đồng nhất, một khi có việc, khó có thể tòng quyền. Vậy nên mỗi khi có đại sự yêu cầu tập quyền, triều đình chỉ có thể phái ra quan lớn làm khâm sai, lúc này mới có thiết lập tuần phủ, sau đó dần dần trở thành định chế. Nếu như thật muốn mọi chuyện thuận theo tổ huấn, Cương Phong, cái chức tuần phủ này há chẳng phải danh bất chính ngôn bất thuận rồi sao?

Hải Thụy nói không lại Từ Giai, nhưng con người hắn chỉ nói bản tâm, cũng không có khả năng bị lừa, hắn thản nhiên nói:

- Lão thái sư giáo huấn rất phải, chi tiêu cần thiết liên quan đến hành chính trị dân ta sẽ không tiết kiệm. Nhưng cá nhân học sinh có tay có chân, không cần hầu hạ, không cần lãng phí tiền của triều đình mới tốt.

Thấy mình phí lời, Từ Giai có chút phiền muộn nâng chung trà lên, cười nói:

- Như vậy thì thôi, Cương Phong đừng ngại lão phu đa sự.

- Sao dám, sao dám.- Hải Thụy liền nói.

- Cương Phong hôm nay quang cố đến đây, không biết có gì chỉ bảo? - Đặt trà xuống, Từ Giai hỏi.

- Đặc biết đến bái kiến lão thái sư vạn phúc, thứ hai, cũng muốn lãnh giáo lão thái sư một phen.- Hải Thụy nhỏ nhẹ nói.

- Đa tạ Cương Phong nhớ đến.- Từ Giai khẽ cười nói: - Lão phu như có biết điều gì, tự nhiên hết lòng phụng cáo.

- Lão thái sư trọng thần triều đình, điệt lão địa phương, nhất định biết rõ lợi và hại trong chính trị Ngô Trung. Hạ quan mới tới, vi chính nên lấy người nào làm đầu, mong rằng chỉ giáo.- Hải Thụy chắp tay hỏi.

- Ha ha, Cương Phong, ngươi quá khiêm tốn rồi.- Từ Giai cười nói: - Nếu lão phu không nhớ lầm thì ngươi từng đảm nhiệm tri huyện Trường Châu phải không.

- Một tỉnh một huyện, một trời một vực.- Hải Thụy khiêm tốn nói: - Học sinh thận trọng như bươc 1 trên băng mỏng.

- Nếu muốn lão phu nói một chút, lão phu cũng mạo muội nói thẳng với ngươi vậy.- Từ Giai liền vê râu nói: - Ngô Hạ ở đây cũng tính trù phú, hiện tại lại không có giặc Oa, cái gì cũng dễ nói, chỉ có một việc là nơi đây rất nhiều điêu dân chơi bời lêu lổng, không nghề nghiệp, những người này tính tình hung tàn, rất thích cáo quan kiện tụng, vậy nên nha môn bình thường án tồn đọng như núi. Cho nên muốn làm tốt quan phụ mẫu một phương, lão phu lại tặng thêm hai câu nữa... Hình thanh chính giản tu đại đảm, chấp pháp trì bình tề thì gian!

- Hay cho một câu 'Hình thanh chính giản, chấp pháp trì bình', học sinh đã được thọ giáo rồi!

Hải Thụy vui mừng nói:

- Chỉ là không biết, nếu như quan thân phạm pháp, ức hiếp lương dân, vậy cũng nên như vậy hay không?

- Cương Phong, ngươi đối với tiên đế đều tận ngôn can gián.- Từ Giai lên tiếng cười nói: - Huống chi chỉ là hương hoạn?

- Đa tạ lão thái sư chỉ giáo.- Hải Thụy nói tiếp: - Hạ quan còn có một chuyện thỉnh giáo.

- Mời nói.- Từ Giai nâng chung trà lên.

- Hạ quan đã tra duyệt phần thuế ruộng các phủ bao năm qua của Tô Tùng.- Hải Thụy trầm giọng nói: - Phát hiện thuế ruộng gần 10 năm, bình quân chỉ có ba thành của năm Hồng Vũ thứ 21, năm thành của năm Thành Hoá thứ 3, bảy thành của năm Chính Đức thứ 5, sau đó hàng năm đều giảm thiểu, cho đến cái mức như hiện tại... Lẽ ra lúc trước thiên hạ mới được ổn định, chính là thời gian 'nghìn dặm không tiếng gà gáy, ruộng hoang thẳng cánh cò bay', sau đó hơn 100 năm Đông Nam thái bình, bách tính an cư lạc nghiệp, cần phải là thuế ruộng dần dần tăng mới đúng, vì sao lại trái ngược chứ? Xin hỏi thái sư, việc lạ như vậy, tới cùng là thế nào?

- A...

Từ Giai thình lình nghe hắn tung ra vấn đề này, tức thì không thể nào trả lời, cười gượng hai tiếng nói:

- Đúng vậy, chuyện này là sao?

- Đang muốn thỉnh giáo thái sư.- Hải Thụy đăm đăm nhìn Từ các lão, gằn từng chữ.

- Có thể...

Từ Giai nâng chung trà lên che đậy, ý nghĩ nhanh chóng xoay chuyển:

- Có lẽ... Hình như... Cần phải là có chuyện như vậy... Ngươi hẳn là biết, Thái tổ hoàng đế bình định thiên hạ, đối thủ lớn nhất không phải là Mông Nguyên, mà là Trương Sĩ Thành và Trần Hữu Lượng. Trương Sĩ Thành tự hiệu 'Ngô Vương', đô thành lớn nhất của hắn tại Tô Tùng, Trần Hữu Lượng hiệu 'Hán Vương', địa bàn của hắn tại Giang Tây. Sau khi Thái tổ hoàng đế bình định thiên hạ, rất hận dân chúng hai địa phương này đã ủng hộ hai người họ, vì trừng trị những kẻ bướng bỉnh đã lấy thuế nặng tại hai nơi. Nói đến thì lúc đó nam nhi đều dưới trướng Ngô Vương, sau khi chính quyền bị diệt, phần lớn ruộng đất của họ bị sung công, cho nên ruộng công Ngô địa rất nhiều, bản thân ruộng công tất nhiên thuế nặng. Cho nên vào thời Hồng Vũ thuế ruộng rất nặng, dân sinh bỏ đi nhiều.

- Sau đó thì sao? - Hải Thụy thản nhiên hỏi.

- Sau đó Vĩnh Lạc hoàng đế nắm chính quyền, vì tranh thủ dân tâm, nhiều lần giảm thuế cho Ngô Trung, sau đó lại dời đô đến Bắc Kinh, lương thực phải từ Đại Vận Hà đi 2000 dặm mới có thể vận đến kinh thành, trên đường một thạch phải tổn hao ba đấu, cho nên gạo đưa về Thái Thương càng ngày càng ít đi.

Từ Giai nói xong móc ra khăn tay sát lau mồ hôi, thầm nghĩ lão phu thực sự là thanh bảo đao chưa cùn.

- Thì ra là thế.- Hải Thụy nghe vậy hình như hiểu ra, rồi lại như lơ đãng hỏi: - Lúc nãy lão thái sư nói đến ruộng công, học sinh tra duyệt hoàng sách, phát hiện sổ sách không phù hợp nghiêm trọng mà.

- Cái này à..

Từ Giai cười nói:

- Lúc đó Ngô Trung là tội dân, ruộng đất đều bị kê biên và sung công. Nhưng đến triều Vĩnh Lạc, Thành tổ gia liền đặc xá cho Ngô địa, chia ra vài lần trả lại đất, ruộng công tự nhiên giảm đi.

- Chia ra mấy lần, trả về bao nhiêu, còn thừa lại bao nhiêu? - Hải Thụy trầm giọng hỏi.

- Cái này lão phu cũng không biết.- Từ Giai lắc đầu, cười khổ nói: - Phải bản thân Cương Phong đi điều tra thôi.

- Học sinh hiểu rồi, trở lại nhất định phải điều tra rõ.- Hải Thụy gật đầu nói: - Nếu như có người ngầm chiếm ruộng công phi pháp thì nên làm thế nào?

- Nếu có tội chứng, đương nhiên y pháp xử lý rồi.- Từ Giai cười gượng nói.

- Học sinh hiểu rồi, nhất định phải y pháp xử lý.- Nói xong Hải Thụy liền đứng dậy thi lễ: - Đã như vậy, hạ quan cáo từ thôi.

- Ài, hiếm khi đến một lần, nhất định phải ở lại ăn một bữa cơm.- Từ Giai giữ lại.

- Công vụ bận rộn.- Hải Thụy khéo cự tuyệt: - Để lần sau đi.

Từ Giai giữ lại không được, chỉ có thể đưa Hải Thụy ra ngoài.

Đợi đoàn người đi xa rồi, Từ Giai chao đảo, nếu không phải có người bên cạnh đỡ, nhất định ông ta đã ngồi phệt ra đất.

Đừng thấy lúc nãy lão già hiên ngang lẫm liệt, thật ra đã sớm bị Hải Thụy từng bước ép sát, khiến cho mất hồn mất vía rồi.

Chương 851: Đối quyết

Ba ngày sau, đại đường nha môn tuần phủ Tô Châu.

Hải Thủy mặc hồng bào ngồi ngay ngắn, nha dịch xếp hàng hai bên.

Phía dưới là các vị trí phủ, bọn họ vì nghênh tiếp Hải Thủy, đặc biệt đến sớm vài ngày, nhưng Hải Thụy không nể mặt, mặc thường phục vào thành, tránh bọn họ tới thẳng nha môn.

Không thấy tuần phủ đại nhân, các vị tri phủ cũng đâu thể về, đành kiên nhẫn chờ đợi, một mặt phái người do thám hành tung.

Lúc nghe thấy Hải Thụy tới Tùng Giang tới Từ các lão, lúc nghe thấy đóng cửa không ra ngoài, nói chung là không gặp mặt bọn họ.

Đang thấp thỏm bất an thì chập tối hôm qua cuối cùng có người truyền lời, nói tuần phủ đại nhân hôm nay thăng đường, mời các vị phủ doãn tới báo danh đúng giờ.

Vì thế các quan viên không dám chậm trễ, đúng giờ tới nha môn tuần phủ, cuối cùng cũng gặp được Hải Diêm Vương trong truyền thuyết.

Mọi người đồng loạt hành lễ:

- Quan viên Tô Tùng tham kiến đại nhân, đại nhân tới nhậm chức, ti chức nghênh đón sơ xuất, mong được thứ tội.

Hải Thụy nói ngắn gọn:

- Không cần đa lễ, sau này còn làm việc với nhau, mời ngẩng đầu gặp mặt, mời ngồi xuống, có việc thì nói.

Các quan viên dựa theo phẩm cấp ngồi xuống hai bên, tri phủ Tô Châu Trần Thọ Niên chắp tay hỏi:

- Trung thừa đại nhân, ti chức lớn gan hỏi, ngày nào khai ấn?

Nói rồi lấy trong ống tay áo ra một tờ giấy vàng:

- Trong này có mấy ngày lành trong tháng, mong trung thừa định đoạt.

- Cần gì chọn ngày, hôm nay khai ấn là được.

Hải Thụy không nhận, lệnh:

- Quan kỳ bài, đem cáo thị ta soạn cho các vị ấy xem.

Quan kỳ bài tuân lệnh, các tri phủ nhận lấy mở ra đọc, bên trên viết (đốc phủ điều ước), tổng cộng có 35 điều, nhưng khác hẳn cáo thị nhậm chức trước kia, không phải yêu cầu bách tính ra sao, mà là pháp quy, chế độ Hải Thụy định ra cho hạ quan cấp dưới.

Một, cấm chỉ hạ quan tiếp đãi thượng quan bày vẽ đưa đón xa hoa lãng phí. Như quy định bản thân tới các phủ, châu, huyện, "quan lại không được rời thành đón tiếp ", "không được dùng lễ nhạc","không được giăng đèn kết hoa".. v.. v.. v..

Hai, phản đối xa xỉ, quy định bản thân tới châu huyện chỉ được ở trong nơi cư ngụ vốn có, không cho phép "tu sửa", đồ dùng "không cho phép làm mới". Bản thân tới các nơi ăn cơm, không được quá 3 đồng mỗi bữa, các nơi vật giá thấp chỉ dùng 2 đồng, còn bao gồm cả chi phí dầu củi.

Ba, phản đối tham ô biến của công thành tài sản riêng, quy định "không phải vì công vì dân, quyết không được dùng", mời khách tặng lễ, chỉ có thể dùng lương bổng của mình, nếu "không phân công tư, chi dùng lẫn lộn", định luận là tham ô.

Bốn, phản đối hối lộ, quy định không cho phép tặng quà quan trên, vì tránh thư lại nhận hối lộ, yêu cầu soát người thư lại, nếu phát hiện ra thì phải nghiêm trừng.

Năm, dùng biện pháp kinh tế trừng phạt quan viên thất trách, như quy định quan quân không lĩnh được lương tháng đúng hạn, quan phủ châu huyện cũng không được lĩnh lương, hoặc phải đem bạc, gạo của phủ châu huyện phát cho quan quân.

Rất nhiều quy định, kín kẽ chu đáo, là kinh nghiệm chấp chính nhiều năm tại địa phương của Hải Thụy.

Những quy định này làm đám quan viên cảm thấy khó tiếp nhận... Không cho đưa đón nghênh tiếp, chẳng phải làm bọn ta mất hết các mối quan hệ sao?

Thậm chí ngay cả giấy dùng viết công văn cũng "chỉ được dùng giấy mỏng, không được dùng giấy dầy, càng không cho phép dùng phong bì lụa", con mẹ nó chứ, muốn người ta cười bọn ta thối mũi sao?

Vì đối phương là Hải Diêm Vương, các vị tri phủ không dám ý kiến ở các điều khác, chỉ tóm lấy điều này thận trọng nói:

- Thế này tựa hồ quản quá chi tiết một chút.

Hải Thụy trầm giọng nói:

- Đại Minh ta từ thời Gia Tĩnh tới nay, tài chính cực độ khó khăn, khẩu hiệu "đơn giản, tiết kiệm" đã hô hào mười mấy năm rồi, nhưng chỉ dừng ở miệng mà thôi. Nếu không có nội dung cụ thể, phản đối lãng phí, thực hành tiết kiệm chỉ là lời chót lưỡi đầu môi.

Lại triển khai tranh chấp ở vài điều nữa, thấy các tri phủ mặt mày nhợt nhạt, Hải Thủy hoàn hoãn nói:

- Các vị yên tâm, ta cũng từng làm tri phủ, biết chỗ nào nên tiết kiệm, chỗ nào không nên. Ví dụ chi tiêu thuê thư bạn, sai dịch, ta sẽ nới lỏng, các vị nếu như cần mẫn một chút, còn có thể có dư thừa.

Ý tứ là, không phải ta không cho các ngươi cơ hội kiếm tiền, nhưng phải xem hiệu suất của các ngươi.

Gặp phải quan trên thông thạo chính vụ tới mức mức làm người ta phát run, yêu cầu hà khắc cũng tới mức làm người ta phát run này, các vị tri phủ đại nhân muốn nói không mở được miệng, muốn khóc mà không có nước mắt...

Con mẹ nó, thế này thì làm quan còn thú vị chó gì nữa? Chẳng trách đám người thông minh kia vừa nghe nói Hải Thụy tới, liền bỏ chỗ béo bở chạy mất, té ra người ta biết trước rồi.

- Các vị không nói, vậy tức là không có ý kiến gì?

Hải Thụy hỏi:

-....

Các vị tri phủ có trăm cái ý kiến, nhưng bảo bọn họ phản đối Hải Diêm Vương ngay trước mặt thì bọn họ không có gan.

- Được rồi, truyền lệnh khai ấn phóng cáo thị.

Hải Thụy gõ đường mộc, quan kỳ bài đem công văn chính thức chuẩn bị trước đó dán ở cửa các nha môn, Hải Thụy cũng bắt đầu chính thức lần đầu giáo huấn sau khi nhậm chức:

- Các vị đại nhân.

Các quan viên vội khôi phục lại từ ủ rũ, đứng dậy đáp:

- Trung đường đại nhân.

- Các vị làm quan thế nào?

- Chúng ti chức làm quan thanh bạch, cẩn thận chu đáo, trên thay triều đình làm việc, dưới chia sẻ lo lắng cho lê dân...

Các vị tri phủ như đọc thuộc lòng.

- Đúng là "trên thay triều đình làm việc, dưới chia sẻ lo lắng cho lê dân" chứ?

Hải Thụy mỉm cười hỏi.

- Đúng thế.

Các quan viên thầm nghĩ:" Chẳng lẽ dám nói không phải?"

- Vậy thì qua tốt rồi.

Hải Thụy không khách khí nữa:

- Ta đang có một đại sự "vì triều đình, vì lê dân" cần các vị giúp đỡ đây.

- Mong trung thừa đại nhân sai bảo...

Các vị tri phủ tim vọt lên tận cổ rồi.

- Bản quan tra duyệt hồ sơ ruộng đất của Tô Tùng, phát hiện ra bất kể là ruộng quan hay ruộng tư đều vô cùng hỗn loạn, rất nhiều ruộng vốn thuộc về triều đình lại phát hiện nằm trong tay cá nhân, cùng một mảnh ruộng lại có hai chủ; cùng với hiện tượng ruộng miễn thuế vượt giới hạn nghiêm trọng, tạo thành tổn thất lớn thuế má cho triều đình, với bách tính một khi phát sinh tranh chấp quyền sở hữu, quan phủ cũng không thể phân rõ đúng sai.

Hải Thụy nghiêm giọng nói:

- Vì thế bản quan quyết định, tận dụng nửa năm trước khi thu thuế vụ xuân, tiến hành đo đặc đăng ký lại toàn bộ số ruộng đất, sau này bách tính dựa vào đó nộp thuế.

Nếu như nói (điều ước đốc phủ) chết tiệt kia, các tri phủ còn chịu được, thì quyết định đo đạc ruộng đất này làm bọn họ bùng nổ tức thì, đua nhau nói:

- Ngàn vạn lần không thể, sẽ gây dân biến đấy.

- Đúng thế rất nhiều người dân bán ruộng đất không tới quan phủ đăng ký, một khi đo đạc đăng ký lại, chắc chắn có tên điêu dân thừa cơ chiếm đất của người khác.

- Hơn nữa Ngô Trung là đất văn, khắp nơi toàn quan hoạn, nếu đo đạc, những tẫn thân này khẳng định không đồng ý. Cường long không áp được địa đầu xa, trung đường hãy cân nhắc.

*** Ngô Trung vùng phía nam Tô Châu.

- Vì sao tấn thân không đồng ý?

Hải Thụy hỏi dồn tới.

- Vì...

Đám tri phủ uất ức, đúng là làm ơn mắc oán, đành giải thích:

- Triều đình quy định, người có công danh có thể miễn trừ thuế ruộng nhất định, các phủ huyện cũng có ưu đãi riêng, ví dụ ở Thường Châu, trúng cử nhân miễn thuế 400 mẫu ruộng, trung tiến sĩ miễn thuế 2000 mẫu, lên tới quan nhị phẩm thì miễn thuế 10000 mẫu. Nhưng chuyện đọc sách làm quan này, khó biết vị tổ tiên nào sẽ linh thiêng phù hộ, rất nhiều sĩ tử bần hàn đỗ cao, không dùng tới ưu đãi này. Vì thế một số người đem ruộng của mình đeo dưới tên người đó, mỗi năm chia một phần thù lao từ tiền miễn thuế.

- Tình hình hai bên cùng có lợi này trải khắp cả nước, chủ đất vẫn là chủ đất cũ, người có công danh chỉ có danh nghĩa mà thôi, cho nên khế ước mua bán của bọn họ không tới quan phủ đăng ký.

- Nếu đo đạc ruộng đất đăng ký lại, chủ đất sẽ không chịu, nhà quan viên sẽ mất đi chỗ thu nhập này... Đại nhân, ngài là thanh quan, trong mắt ngài chúng tôi đều không phải là quan thanh liêm, nhưng có số bạc này, chúng tôi không phải tham ô, cũng có thể nuôi được già trẻ, giữ được thể diện cần thiết, trong mắt người dân, thế đều là thanh quan rồi.

Hải Thụy kiên nhẫn nghe bọn họ nói xong lạnh nhạt nói:

- Nếu là ưu đãi do triều đình quy định, có thể theo đó chấp hành, nhưng tiêu chuẩn miễn thuế của các phủ huyện do hộ bộ định đoạt, không có quyền tự quyết.

Nói rồi lạnh lùng liếc nhìn đám tri phủ rất không cam lòng.

- Nói đi nói lại kỳ thực là một ý, thiệt quốc gia, thiệt bách tính, không thể thiệt đại hộ. Ta muốn hỏi các ngươi, cái mũ ô sa rốt cuộc do ai cấp cho các ngươi, các ngươi là quan phụ mẫu của ai.

Thấy cả đám im lặng, Hải Thụy quát:

- Nói mau.

- Đại nhân giáo huấn phải lắm.

Đám tri phủ ấp úng không đối đáp nổi, đành phân bua:

- Nhưng chúng tôi không thể chặn tiền tài của người khác, làm thế không chỉ quan viên hộ tịch Tô Tùng hận chúng tôi, mà quan viên toàn thiên hạ cũng không tha cho chúng tôi...

- Đúng vậy, nếu trung đường quyết định kiên trì làm như thế, chúng tôi đành từ quan thôi...

Lời này tức thì được không ít kẻ phụ họa.

- Làm quan không làm chủ vì dân, triều đình giữ lại các ngươi có tác dụng gì?

Hải Thụy đập đường mộc:

- Cho các ngươi biết, trước khi ta tới, triều đình đã dự liệu được sẽ có kẻ bỏ gánh, cho nên ta đã chuẩn bị một ban bệ hoàn toàn mới. Đại Minh có thể thiếu rất nhiều, nhưng không thiếu mấy kẻ làm quan, không muốn làm có thể bỏ mũ cuốn xéo. Sau này cũng có thể bỏ đi bất kỳ lúc nào, nhưng kẻ nào dám ngoài nghe trong chống, câu kết phá hoại, mặc dù ta không có cẩu đầu đao của Bao Thanh Thiên, nhưng vẫn có thể lấy được cái đầu chó của các ngươi.

~~~~~~o0o~~~~~~

Mấy ngày trước Hải Thụy tới bái phỏng Từ Giai, Từ Giai nói, Ngô Trung có nhiều điêu dân, tính tình hung hãn thích kiện tụng, nha môn thường xuyên tích án như núi. Cho nên quan viên chấp chính đơn giản, công bằng vô tư.

Nói trắng ra là đừng để ý tới đám điêu dân đó, bớt nhận tố tụng đi, quan trọng nhất là đừng để ảnh hưởng tới cuộc sống người dân...

Lời này thực ra không hoàn toàn là vì lòng riêng, dải Tô Tùng đúng là có tồn tại vấn đề tương tự, một là vì 10 năm kháng Oa, bách tính gần như tập võ rèn luyện sức khỏe, có võ nghệ tất nhiên không sợ chuyện; hai là kinh tế Tô Tùng phát triển tới mức độ nhát định xuất hiện vô số lưu manh du thử du thực, đám người này cả ngày rảnh rỗi đi gây hấn gây sự, tất nhiên làm hỏng dân phong.

Nhưng Hải Thụy cho rằng, dân phong Giang Nam không tốt là do quan viên không tận chức, đám quan phụ mẫu đều suy nghĩ thêm một việc chẳng bằng bớt một việc, thậm chí ăn của đút thì làm sao có thể làm chủ vì dân? Người dân cùng khổ không dựa vào quan lại được, đành tự tìm cách.

Một nguyên nhân khác nữa là đám tụng côn, Hải Thụy cho rằng, nhiều kiện cáo là do quan phủ không tiếp nhận lời khởi tố bằng miệng, nên sinh ra loại người viết đơn kiện kiếm sống, đám tụng côn này vì kiện cáo kiếm tiền, nên đem chuyện đơn giản biến thành phức tạp, vốn chuyện có thể hòa giải, nhưng bọn chúng xúi bẩy đẩy cao mâu thuẫn, cho nên thành kiện tụng không ngớt, làm hại dân phong.

*** Tụng côn: Thầy dùi, cách gọi mang hàm ý thiếu tôn trọng với trạng sư.

Vì thế trực tiếp chấp nhận lời khởi tố bằng miệng của người dân là điều quan trọng xoay chuyển cục diện hỗn loạn này, Hải Thụy liền ra thông cáo: Phàm người không thể tự viết thư tố cáo, cho phép dùng miệng trần thuật.

Pháp lệnh này đưa ra tức thì được bánh tính các phủ hưởng ứng nhiệt liệt, các nha môn đông như trảy hội, bách tính ra vào không ngớt, náo nhiệt hơn cả năm mới...

Đương nhiên nếu đổi lại là bất kỳ ai khác làm tuần phủ cũng sẽ không có được hiệu quả này, nhưng hiện giờ ngồi ở công đường là Hải Thanh Thiên làm chủ vì dân, Hải Diêm Vương không sợ cường quyền, bách tính còn cố kỵ gì nữa?

Tối ngày hôm đó tính lại, không ngờ thu được hơn ba nghìn cáo trạng cả bằng miệng lẫn bằng thư, Vương Tích Tước cười khổ:

- Một ngày thu cáo trạng bằng cả một năm, thế này chúng ta không làm chính sự nữa à?

- Ha ha ha, đây là chính sự mà.

Hải Thụy từ cái bàn chất đống giấy tờ thò mặt ra:

- Phân loạn những vụ án đó ra rồi hẵng xem.

Nói xong lại tiếp tục viết lách tính toán.

Đêm hôm đó, Hải Thụy lần đầu tiên thắp mười chiếc đèn mỡ trâu, chiếu cả đường óc sáng như ban ngày, bởi vì lúc này không chỉ có hai người bọn họ làm việc, còn có 60 vị kiểm toán mời tới từ Hối Liên, công phá hồ sơ đăng ký nhiều năm tích chật cả phòng...

Mặc dù chuẩn bị đo đạc lại, nhưng nếu có thể đại khái nắm được quyền sở hữu ruộng đất, tất nhiên có thể giảm đi rất nhiều khó khăn khi đo đạc.

Công việc này đối với các trướng phòng bình thường mà nói khẳng định chẳng khác gì kiến gặm voi, nhưng với các kiểm toán tiên sinh quen với sổ sách ngồn ngộn của Hối Liên mà nói chì là việc tầm thường.

Công tác nhanh chóng chuẩn xác hiệu quả cao của bọn họ tất nhiên làm Hải Thụy hài lòng 9 phần, 1 phần còn lại không hài lòng là giá thuê quá cao, mỗi người 3 lượng bạc một ngày, nghe nói đó còn là giá ưu đãi. Cho nên so với số thù lao kia, chút tiền dầu này chẳng đáng là gì...

May mà đắt sắt ra miếng, tới nửa đêm là các kiểm toán tiên sinh đã hoàn thành nhiệm vụ Hải Thụy bố trí, vị đứng đầu tổng kết lại đưa cho Hải Thụy, những người khác về ngủ.

Hải Thụy dụi mắt nhận lấy báo cáo, tuy chuẩn bị tâm lý rồi nhưng vẫn nhảy dựng dậy la bải hoải:

- Sao nhiều thế?

Tiếng kêu này làm Vương Tích Tước quay sang, Hải Thụy đưa báo cáo cho hắn. Vương Tích Tước mang tới dưới ánh đèn xem cho kỹ, bên trên đó liệt kê tỉ mỉ tổng lương thuế lương, tổng số ruộng đất các huyện ở Tùng Giang; đồng thời đối chiếu với tổng lượng thuế lương, số ruộng đất sau khi khai quốc 20 năm...

Vì thời kỳ này dân sinh an cư lạc nghiệp, khai hoang cơ bản kết thúc, con số thống kê tương đối có giá trị tham khảo.

Năm Hồng Vũ thứ 24, trong đăng ký tộng cộng có 476 vạn mẫu, thuế lương là 138 vạn thạch. Năm Long Khánh thứ hai, ruộng đất đăng ký 430 vạn, thuế lương là 103 thạch. Đất đai thu hẹp 46 vạn mẫu, lương thuế giảm 35 vạn thạch. Con số này đã đã đẹp lắm rồi, điều này nói rõ các tuần phủ trước đó là Thẩm Mặc, Quy Hữu Quang, Đường Nhữ tiếp đã làm rất tốt.

Bất kể đất đai vì sao thu hẹp, chưa hỏi tới gần 100 vạn mẫu đất sau khi khai thông sông Ngô Tùng, khai phá bến Thượng Hải đi đâu. Chỉ nói riêng thuế má thu hẹp một nửa, các tiên sinh kiểm toán đưa ra con số tương quan: Năm Hồng Vũ thứ 24, ruộng quan là 300 vạn mẫu, trong đó 3 vạn mẫu miễn thuế.

Nhưng tới năm Gia Tĩnh thứ 20, ruộng quan chỉ còn lại 170 vạn mẫu, số còn lại bị quan phủ dùng đủ moại hình thức bán cho dân gian, thành ruộng dân, mà số miễn thuế đã tới 90 vạn mẫu.

Tới năm Long Khánh thứ hai, ruộng quan là 110 vạn mẫu, số ruộng miễn thuế là 117 vạn mẫu, hơn cả số ruộng quan.

Từ năm Gia Tĩnh thứ 20 tới năm Long Khánh thứ 2, chỉ gần 30 năm, số lượng đất canh tác ngày càng đi xuống, nhưng tiền thuế lại tăng lên, Hải Thụy biết đó là do hiệu ích kinh tế cao khi người dân chuyền sang trồng bông, nhưng hắn cho rằng nó không thể che đi hậu quả do thôn tính đất đai mang lại, vì ruộng không nộp thuế vẫn không nộp thế, chẳng qua là ép thêm nhiều mỡ từ trên người bách tính mà thôi.

Trong một loạt con số thống kê đó, còn có con số nữa, số lượng đất đai của nhà họ Từ tại Tùng giang tổng cộng 46 vạn mẫu.

Từ các lão con cháu đầy đàn thật khiến người ta hâm mộ, 40 năm qua, chi trưởng họ Từ có thêm 11 con cháu, đều đã thành hôn. Con thứ Từ Côn cho têm 7 đứa cháu, con thứ ba Từ Anh thêm cho 5 người, con út Từ Kha cũng có hai con.

Thêm vào đệ đệ của ông ta, gia tộc họ Từ có hơn 100 nam đinh, là đại tộc của Tùng Giang, điền sản của họ tất nhiên có con số kinh người.

Triều đình luôn truyền rằng Từ gia có 20 vạn mẫu đất canh, nhưng hiện giờ xem ra vẫn đánh giá thấp họ, mặc dù tránh cây to gió lớn, Từ gia đem điền sản phân tán tới thành viên trong gia tộc, nhưng không che được mắt các tiên sinh kiểm toán của Hối Liên. Bọn họ chỉ tính số ruộng đất dưới tên trực hệ hai huynh đệ họ Từ đã lên tới con số khủng bố 46 vạn mẫu rồi, chẳng trách ngay Hải Thụy cũng phải la lên.

Các tiên sinh kiểm toán nói với Hải Thụy, đây là còn chưa tính tới ruộng đất dưới tên nô bộc của Từ gia, vả lại họ Từ dựa vào uy thế Từ các lão, đâu chỉ hoành hành ở mỗi Tùng Giang? Tô Châu, Thường Châu, thậm chí Hồ Châu, Hàng Châu ở tỉnh bên cũng có vô số ruộng đất.

Hơn nữa họ Từ ở nghành bông, ngành lụa đều có thương nhân cung ứng nguyên liệu, lũng đoạn thị trường, kiếm lợi kếch sù.

- Nếu muốn tra rõ sản nghiệp nhà họ Từ, cho dù bằng vào số người chúng tôi, cũng phải mất một tháng.

Kiểm toán tiên sinh nói:

Hải Thụy đúng là hết hồn, hắn không ngờ mình đang đối mặt với con quái thú khổng lồ như thế.

Đợi vị kiểm toán tiên sinh kia đi, Vương Tích Tước nói nhỏ:

- Làm sao đây, hay là tạm thời bỏ qua Tùng Giang đã?

Mặc dù hắn biết đạo lý bắt giặc bắt vua trước, nhưng Từ gia có thực lực như thế, không phải ai cũng có thể đối phó được, dù Hải Thụy cũng thế.

"Có lẽ chỉ có Cao các lão hoặc Thẩm các lão đích thân tới mới trị được Từ các lão." Vương Tích Tước suy nghĩ, tiếc rằng hắn cũng biết với thân phận hai người đó không thể trực tiếp nhúng tay vào chuyện này.

Vương Tích Tước xưa nay lạc quan kiên quyết, đối diện với kẻ địch sức mạnh vô cùng, cũng không khỏi sờn lòng.

Hải Thụy nhìn tên hậu bối mà hắn rất tán thưởng này, bình đạm nói:

- Sư phụ ngươi bảo ngươi bảo ngươi theo ta học tập, nhưng ngươi xuất thân tam đỉnh giáp, lại làm ti trị lang nhiều năm, bất kể là sinh sử hay quốc sách, đều hơn xa ta.

Vương Tích Tước định khiêm tôn thì Hải Thụy khoát tay nói:

- Để ta nói hết đã, ta nghĩ đi nghĩ lại, thứ duy nhất ta có thể dạy ngươi là 2 chữ.

- Xin nghe trung đường nói.

- Hai chữ này, nói dễ nghe là "khí phách", nói khó nghe một chút là "liều mạng".

Hải Thụy đứng dậy, thổi tắt từng chiếc đèn hao tiền, chỉ để lại một cái:

- Nếu như ngươi muốn làm một tên quan liêu hợp cách thì hiện giờ về ngủ luôn đi, khỏi phải nghe những lời thừa thãi của ta. Nếu như ngươi theo đuổi cao hơn, muốn thành hiền thần thực sự thì phải học cách "liều mạng".

Vương Tích Tước không lên tiếng, nghiêm chỉnh nghe Hải Thụy nói:

- Người đời có câu "tà không thắng được chính", nhưng sự thực đa số trường hợp là "đạo cao một thước, ma cao một trượng", chính thường không thắng được tà, thậm chí bị tà tiêu diệt. Sau đó đám đạo học vô sỉ luôn có lý luận đổi trắng thay đen, đem chúng nói thành chính, người khác thành tà. Khi ấy ngay cả chút danh dự cuối cùng của ngươi cũng không còn.

Nếu chẳng phải chính tai nghe, Vương Tích Tước sẽ không tin những lời tiêu cực này lại phát ra từ đệ nhất đấu sĩ của Đại Minh. Hắn còn tưởng trong mắt Hải Diêm Vương, không có kẻ thù nào là không thể đánh bại.

- Vậy chúng ta phải lựa chọn ra sao? Cùng một giuộc với chúng, bo bo giữ mình, hay biết rõ không địch nổi vẫn xông tới?

Hải Thụy nhìn vào người trẻ tuổi tiền đồ rộng mở, nói từng chữ một:

- Đừng trước ba ngã rẽ này, ngươi lựa chọn thế nào, quyết định tương lai ngươi là người ra sao.

- Sư phụ thường dạy hạ quan.

Vương Tích Tước suy nghĩ một lúc rồi đáp:

- Kiên trì là còn hi vọng, kích động không tự lượng sức là bỏ cuộc vô trách nhiệm.

- Ngươi còn chưa hiểu sư phụ của ngươi.

Hải Thụy lắc đầu:

- Kỳ thực trong lòng y có một ngọn lửa, vào lúc cần chết, y sẽ không chút do dự. Nhưng trên đời này, có lẽ không việc gì đáng cho y phải hi sinh nữa, vì có những người như chúng ta làm thay y.

- Làm thế có ý nghĩa gì?

- Vì đạo nghĩa.

Hải Thụy trầm giọng nói:

- Khi còn trẻ, ta có rằng đạo nghĩa là cao vời, là thần thánh, là lời thánh nhân. Nhưng hiện giờ ta dần hiểu ra, đạo nghĩa chính là việc mình cho là chính xác... Cho nên đạo nghĩa cả mỗi người mỗi khác, nhưng giống nhau một điểm, là xem ngươi có khí phách kiên trì đạo nghĩa của mình không. Nếu ngươi cho rằng việc mình làm là phù hợp với đạo nghĩa thì phải kiên trì mà làm, cho dù có vì thế mà thân bại danh liệt cũng có hề gì.

Ánh đèn kéo bóng của Hải Thụy thật dài, giọng hắn như tiếng chuông Đại Lữ dội vào lòng người:

- Năm nay ta đã 55 tuổi rồi, có một vấn đề quấy nhiễu ta hơn 40 năm, đó là quốc gia có chuyện gì? Thiên triều rộng lớn, sản vật phong phú, vì sao hòa bình trăm năm mà dân không thể nào an cư lạc nhiệp, rốt cuộc vì sao? Ta đã tìm rất nhiều nguyên nhân, Nghiêm đảng làm loạn? Bắc Lỗ nam Oa? Hay vì quan trường vô dụng, thậm chí chĩa mũi giáo vào hoàng đế, dâng lên bản tấu không hợp thời, hại chết tiên đế, nhưng kết quả thế nào?

- Nghiêm đảng đổ rồi, giặc Oa dẹp rồi, Thát Lỗ không còn như trước, lề thói đổi mới, tuy không nói thanh liêm, nhưng hiện tượng tham ô phạm pháp, bỏ rơi nhiệm vụ không còn nhiều nữa, vậy tại sao quốc gia không khởi sắc, bách tính vẫn cứ sống trong dầu sôi lửa bỏng? Ta tìm đi tìm lại, mục tiêu còn lại cuối cùng nghiệm chứng suy đoán của ta. Không biết ngươi cảm tưởng thế nào, chứ ta nhìn thấy con số kia chỉ có kinh hoàng.

Hải Thụy càng nói càng phẫn nộ:

- Chỉ một mình Từ gia ở phủ Tùng Giang đã như thế, nếu tra tiếp không biết sẽ có con số thế nào, đâu mỗi Từ gia, cả Tùng Giang có hơn 400 cử nhân, hơn 200 tiến sĩ, mười mấy người làm tới thượng thư thị lang, bọn họ và Từ phủ đều cùng một giuộc, chẳng qua khác nhau ít hay nhiều mà thôi.

- Đâu chỉ Tùng Giang, mười phù Tô Tùng! Mà cả hai kinh mười ba tỉnh, ở đâu không có những việc thế này? Lại thêm vào hoàng thất tông thân, người trong cung cấm... Đó là đám ký sinh trùng.

Hải Thụy siết chặt nắm đấm, hai mắt phun lửa:

- Vô sỉ hơn nữa là, đám quan hoạn sĩ thân xưa nay đều coi mình là người đạo đức cao thượng, đẩy trách nhiệm cho người khác, hô hào hạn chế tông phiên, nhưng không soi gương nhìn lại bản thân, đám tham lam nhất là ai? Là chính bọn chúng.

- Hoàng thất tông phiên và cửu biên chỉ là một góc tảng băng chìm thôi. Nguy hại lớn nhất kỳ thực là lũ sĩ đại phu vô sỉ, bọn chúng một mặt ra sức chiếm đoạt, vơ vét của dân, một mặt ra vẻ môn đồ thánh nhân, nắm chính quyền, dẫn dắt dư luận. Hóa trang cho mình thật bóng bẩy, đẩy hết xấu xa lên người kẻ khác. Đám người này không trừ, lê dân bách tính vĩnh viễn sống trong đói khổ.

Hải Thụy nhìn xoáy vào Vương Tích Tước nói từng chữ một:

- Bọn chúng đúng là mạnh tới không tưởng, nhưng không phải lý do từ bỏ đấu tranh, nếu không triều Đại Minh này coi như xong rồi. Thật may còn những vị quan lo nước lo dân như Cao các lão, Thẩm các lão, Trương các lão, không bị thất bại làm sợ hãi, quyết tâm tử chiến với bọn chúng. Đây là cuộc chiến chênh lệch lực lượng, kéo dài, ta chẳng qua chỉ là con tốt thôi, muốn dựa vào một con cờ mà thắng lợi thì căn bản là không thể.

- Hạ quan sẽ luôn đứng bên cạnh đại nhân.

Vương Tích Tước bị chính khí ngời ngời của Hải Thụy cảm nhiễm.

- Ngu xuẩn, nếu các cả ngươi vào thì tương lai chúng ta cũng thua rồi.

Hải Thụy lắc đầu:

- Lần này ngươi chỉ cần đứng một bên mà xem, có thể nhìn ra cái thế giới trắng đen đảo lộn, cái bộ mặt tởm lợm của đám nhân nghĩa đạo đức, là hoàn thành nhiệm vụ rồi. Nếu sau này ngươi còn chưa mất lòng tin, thì chuẩn bị gánh lấy trọng trách này.

Hắn vỗ vai Vương Tích Tước:

- Mai phân loại vụ án, giờ thì về ngủ đi.

Nói xong chậm rãi đi ra ngoài.

Bình Luận (0)
Comment