Đứng im tại chỗ rất lâu, Vương Tích Tước mới thổi tắt đèn ra ngoài, sân tĩnh mịch, chỉ có một mình hắn, ngẩng đầu lên, hôm nay trời không trăng, chỉ có sao sáng đầy trời.
Sáng hôm sau, Vương Tích Tước dùng hiệu suất tối cao phân chia các loại cáo trạng, báo kết quả cho Hải Thụy:
- Trong ba nghìn đơn cáo trạng, trên 90 phần trăm là cáo trạng hương quan đoạt gia sản.
Nhớ tới câu "đây là chính sự" của Hải Thụy, Vương Tích Tước ngoài khâm phục cũng hết sức tò mò, vì sao Hải Thụy dự đoán được kết quả ngày.
- Hai mươi năm qua, mỗi khi có bách tính kiện quan thân cướp đoạt tài sản, là một lần tiểu dân thua kiện. Vì thế việc chiếm đoạt ngày càng một dữ dội, dân chúng nghèo dần, quan thân giàu lên. Về sau quan phủ thậm chí không tiếp nhận vụ án tương tự nữa, dân cũng không dám kiện cáo nữa, cho nên mới có ngày hôm nay.
Hải Thụy nói:
- Nghe nói các sĩ đại phu trước kia, làm quan mười năm mà túi trống trơn, quan nhị phẩm nghỉ hưu, gia sản cũng chỉ được coi là trung lưu, vì sao sao chỉ mấy chục năm, đã có thay đổi lớn như thế?
Vương Tích Tước lắc đầu thở dài.
- Thói đời biến hóa quá nhanh, người người sùng bái đồng tiền, sĩ đại phu không còn vui với nhạc đạo nữa, mà chìm đắt trong đám mỹ tỳ, tuy cầu hưởng thụ xa xỉ, sao lại chẳng lợi dụng đặc quyền, xà xẻo người dân?
Hải Thụy cười lạnh, đem báo cáo của Vương Tích Tước cùng kết quả kiểm toán tối qua cho vào phong thư, dán sĩ lên, đóng dấu vào, lệnh thư bạn:
- Lập tức gửi cho nội các.
Làm xong hắn bảo Vương Tích Tước:
- Thu dọn đi, hôm nay tới Tùng Giang.
- Vậy ba nghìn cáo trạng kia phải làm sao?
Hải Thụy lạnh nhạt nói:
- Không giải quyết vấn đề ở Tùng Giang, không giải quyết được kiện cáo ở nơi này. Còn vấn đề ở Tùng Giang giải quyết rồi, tố tụng ở Tô Châu cũng theo đó được giải quyết.
Buổi chiều này hôm đó, Hải Thụy di giá tới Tùng Giang, ngày hôm sau dán cáo thụ, tiếp nhận tố cáo của người dâng, đồng thời thanh lý vụ án cũ.
Tùng Giang và Tô Châu tuy gần nhau, nhưng bách tính Tùng Giang chưa được lĩnh giáo uy đức của Hải Thanh Thiên, ban đầu người dân không tin lắm, chỉ có người mang oan ức cực lớn mới dám cáo trạng...
Những vụ án đó kỳ thực không khó, sở dĩ không thể kết án vì bị cáo tiền nhiều thế mạnh, quan phủ căn bản không xử nổi.
Bị cáo ở ngay đó, chỉ xem đại lão gia có dám bắt hay không. Đối với Hải Diêm Vương mà nói, tất hiển nhiên không phải là vấn đề, hắn lập tức hạ lệnh bắt bị cáo tới, vì tránh quan viên và thương thân câu kết tự ý thả bị cáo, đi bắt người đều là thân binh của nha môn tuần phủ.
Phàm là vụ án sự thực rõ ràng, chứng cứ xác đáng, dù ngươi là con của thượng thư, hay cháu tổng đốc, Hải Thụy tuyên án ngay trong ngay, bắt giam phạm nhân.
Thấy vụ án được xử lý nhanh chóng, Hải đại nhân quả nhiên không sợ cường quyền, bách tính lớn gan hơn, lũ lượt tới cáo trạng, trong một ngày tiếp nhận hơn 2000 vụ án.
Buổi tối, đối diện với cáo trạng chất cao như núi, nhiều vụ án như thế, căn bản không thể thong thả điều tra chứng cứ, nếu xử từng vụ một hiển nhiên không thể, càng không thể "nhận mà không xử" như ở Tô Châu?
Làm sao đây? Hải Thụy sớm đã có kế, hắn viết mấy nguyên tắc thẩm án, lệnh Vương Tích Tước chấp hành. Chỉ thấy Hải Thụy viết: Phàm thấy kẻ tố tụng khả nghi, thà oan huynh, không oan đệ; thà oan thúc bá, không oan cháu; so oan người nghèo, thả để người giàu oan; so để oan ngu dốt ngay thẳng, thà để oan kẻ điêu ngoa. Chuyện tranh giành của cải, so để oan tiểu dân, thà để oan quan thân, cứu lấy kẻ khó. Nếu tranh chấp ngôn mạo, so oan hương thân, thà để oan tiểu dân, để giữ thể thống.
Hải Thụy không biết rằng, nguyên tắc mình đưa ra trở thành môn học đầu tiên lịch sử pháp chế Trung Quốc, được gọi là định lý Hải Thụy.
Một vị lịch sử gia da vàng ruột trắng, dùng nó chứng minh truyền thống Trung Quốc là lấy văn nhân trị nông dân, giải thích và chấp hành pháp luật đều lấy luân lý nho gia làm chuẩn mực, thiếu truyền thống quản lý con số, vì thế Trung Quốc không đi lên con đường Tư bản chủ nghĩa v.. v.. v..
Một số nhà kinh tế học cũng một số nhà khoa học khác một một dạo trích dẫn những lời này, làm chứng cứ "Trung Quốc không chú ý bảo vệ tài sản cá nhân."
Tổng kết lịch sử rồi đưa ra kết luận tất nhiên là không sai, nhưng dùng định lý Hải Thụy mà chứng minh lại là có vấn đề, vì nó thoát ly ngữ cảnh, phạm vào cái tật xấu văn chương chủ nghĩa.
Thôi, tạm thời không lan man nữa, Hải Thụy tất nhiên không biết lý luận tư pháp của mình được hậu nhân coi là định lý. Nhưng không ảnh hưởng việc hắn ứng dụng thành thạo lý luận này, Hải Thụy chuyến này tới Tô Tùng là mong dùng nó phá vỡ cục diện.
"Hoàng quyền không xuống nông thôn", "dựa vào hương thân quản lý thôn trấn", đó là sách lược thống trị kéo dài nghìn năm của Trung Quốc, vì vậy nới nông dân mà nói, bọn họ còn cách quan phụ mẫu mọt tầng, có thể sai bọn họ trực tiếp nghe lệnh, vẫn là hương thân.
Mà thế lực hương thân ở Tô Tùng cực mạnh, bọn chúng lợi dụng đặc quyền thống trị, bất kỳ chính lệnh nào gây hại cho bọn chúng sẽ bị bọn chúng điên cuồng chống trả, trước tiên là kích động điêu dân làm loạn, cản trở phá hoại, làm chính lệnh không thể chấp hành, tiếp đó lợi dụng nguồn lực chính trị, từ thượng cấp gây áp lực với quan hành chính.
Tất nhiên tới tầng cấp như Hải Thụy thì phải dựa vào ngự sử ở hai kinh, cái gì mà "tân pháp khiến dân loạn, dân khổ không kể siết, dân sinh điêu đứng v.. v.. v.." Ép triều đình tạm hoãn chấp hành tân pháp, cuối cùng thế là xong.
Trò này dùng hơn nghìn năm vẫn có tác dụng, vì hoàng đế và cái đại thần lo lắng nhất là dân loạn, chỉ cần tin vảo hiện tượng giả đó, chính sách có tốt đến mấy cũng không dám chấp hành.
Đám hương thân tóm lấy nhược điểm này, nên dùng lần nào cũng thành công, đối với vùng Tô Tùng tiến sĩ nhiều như lông trâu, dùng nó càng uy lực vô cùng.
Tuyệt đối đó không phải đùa, một khi làm um sùm lên, bọn chúng chắc chắn sẽ liều mạng kháng cự, tới khi đó cho dù là nội các cũng chẳng dám cố chết bảo vệ con tốt như Hải Thụy.
Hải Thụy biết nếu như mình công khai đề xuất "đo đạc ruộng đất", ngày hôm sau nha môn tuần phủ bị người dân bao vây ngay, hơn nữa tám phần là không có ai tới giải cứu, ép mình không còn mặt mũi nào ở lại.
Sau một phen châm chước, hắn quyết định không công bố đo đạc ruộng đất, mà dùng tư pháp đánh vu hồi, tóm được tên nào xử tên nấy, không cho đám hương thân cơ hội giở trò.
Vì thanh lý án củ là việc tất yếu của tân quan thượng nhiệm, với tuần phủ mà nói, ngồi nha môn hay tới các phủ nhận tố tụng, cũng không ai có thể nói được gì.
Khi Vương Tích Tước cẩn thận đề xuất:
- Làm thế liệu có khiến cho một số hương thân bị oan ức không?
Nhưng Hải Thụy phất tay:
- So với oan ức người dân phải chịu thì có đáng kể gì.
Vương Tích Tước không khỏi cười khổ, té ra Hải Cương Phong đi báo thù cho người dân.
Có tiêu chuẩn phán xử của Hải Thụy, tất cả vụ án đều có thể kết án trong ngày, trong một tháng, không ngờ hai người thu nhận được gần 1 vạn vụ án...
Trừ vụ án hình sự nghiêm trọng ra, cơ bản đều đã phán xử xong, đồng thời kết quả không có gì bất ngờ, đại đa số là người dân thắng kiện.
Vì thế người dân không ai không vỗ tay vui sướng hô to "Hải Thanh Thiên", tất nhiên là cao hứng vô cùng rồi.
Nhưng có người cao hứng thì sẽ có người không cao hứng. Phú hộ hương thân không cao hứng, trước kia gặp phải những vụ án dân kiện quan, bọn chúng đánh đâu thắng đó, cho nên mới chiếm đoạt được gia nghiệp ngày nay. Nhưng họ Hải kia chẳng thèm hỏi chúng có lý hay không đã phán trả ruộng, trả bạc.
Cùng với thời gian trôi đi, hương thân phú hộ bị đả kích ngày một nhiều, nếu đổi lại là người khác làm tuần phủ, bọn chúng sớm đã làm loạn rồi, nhưng đối phương là Hải Diêm Vương mặt sắt tim sắt, ai dám tìm hắn kêu ca? Hải Thụy cũng chẳng trị bọn chúng, chỉ là phán án bất công...
Nhưng trong mắt người dân thì lại là quá công bằng, không cách nào kích động kiếm chuyện được, làm bọn chúng đánh tìm tri phủ Tùng Giang oán trách.
Thế là nha môn tri phủ Tùng Giang mỗi ngày phải an ủi bao nhiêu hương thân bụng đầy oán hận, Trung Trinh Cát là học sinh thành thực nhất của Từ Giai, trước kia bị phái tới Tùng Giang, là có ý chiếu có cuộc sống tuổi già của sư phụ, tất nhiên không muốn thấy cục diện này.
Nhưng hắn và Hải Thụy cùng là chính tứ phẩm, lại là Hải Diêm Vương, đấu sĩ có sức chiến đấu nhất Đại Minh, cho hắn hai cái gan cũng chẳng dám chống lại.
Trung Trinh Cát chỉ biết nói ngon ngọt an ủi hương thân, nhưng tới lúc không vỗ về nồi, bọn chúng tuy không dám làm loạn, nhưng luôn có cách hả giận.
Vì thế hôm đó, Hải Thụy đang làm việc nha dịch trình lên một thư cáo trạng nặc danh được lấy trên cửa nha môn phủ Tùng Giang.
Vương Tích Tước nhận lấy xem, mặt tức thì biến sắc.
Hải Thụy nhìn hắn một cái rồi cúi đầu tiếp tục xem hồ sơ, bình thản nói:
- Đọc.
Vương Tích Tước khó xử nói:
- Hay không đọc thì hơn.
Hải Thụy không để ý tới hắn, tiếp tục đọc hồ sơ, Vương Tích Tước đành đọc:
- Người cáo trạng Liễu Hạ Chích, cáo trạng hai huynh đệ Bá Di Thúc Tề, ỷ vào quyền thế, khai quật phần mộ Hứa Du, hai huynh đệ đó do hối lộ nên được Tỷ Can miễn tội.một buổi tối, bọn chúng sai ác huynh Liễu Hạ Huệ, bắt giam vào thủy lao, ngày đêm dùng cực hình, bắt dâng lên 300 mẫu đất, gõ trống tố cáo...
Lá thư nặc danh này cực kỳ buồn cười, vì Liễu Hạ Chích chính là Đạo Chích, đại ác nhân trứ danh thời cổ đại, Bá Di Thúc Tề là đại thiện nhân nổi danh lịch sử, bị trộm mộ là hiền nhân Hứa Du, bảo vệ bị cáo là hiền thần Tỷ Can, tòng phạm tham dự bức hại nguyên cáo là Liễu Hạ Huệ quân tử giữ mình..
.
Nội dung cực kỳ hoang đường, ý nhạo báng rõ rệt, nói kẻ ác bịa đắt vu cáo người tốt, mưu đoạt ruộng đất của người tốt, nhất là Đạo Chích lại tố cáo với Hải Thụy, rõ ràng là gây sự với Hải Thụy.
Đọc xong Vương Tích Tước mày dựng ngược, đùng đùng nổi giận nói:
- Điêu dân to gan, phải tra rõ nghiêm trừng.
- Không cần tra.
Hải Thụy sắc mặt chẳng hề chuyển biến, nhưng tay cầm bút gân xanh nổi cả lên, làm bại lộ tâm tình:
- Điêu dân không viết nổi lời này, có tra từng nhà từng hộ cũng không ra kết quả.
- Vâng, đây rõ ràng là việc làm của đám phú thương hương thân.
Vương Tích Tước nhanh chóng bình tĩnh lại:
- Bọn chúng không dám công khai, dùng cách này để châm chọc chúng ta.
- Hừ, vậy hãy quyết một phen thư hùng với chúng.
~~~0o0~~~~~
Trước Nam Thiện tự, trong hào trạch của Từ Anh tam tử của Từ Giai, một văn sĩ mặc nho bào màu xanh, cầm giấy cáo trạng, giọng trầm bổng:
- Người cáo trạng Liễu Hạ Chính... ngày đêm dùng cực hình, bắt dâng lên 300 mẫu đất, gõ trống tố cáo...
- Ha ha ha.
Nghe giọng điệu mỉa mai châm chích của hắn, người trong sảnh đường cười phá lên, cứ như đang nhìn thấy Hải Diêm Vương vểnh râu trợn mắt tức giận, có tên ôm bụng cười chảy nước mắt.
Cười đủ rồi, Từ Kha con út Từ Giai lau nước mắt chỉ tên văn sĩ:
- Nam Ngạc, ngươi đúng là tên quỷ lắm trò, cáo trạng thâm thù đại hận của Xương Hà tiên sinh bị ngươi biến thành trò hề.
- Không sao, không sao, vốn để Hải đại nhân thành trò cười cho thiên hạ mà..
Kẻ được gọi là Xương Hà tên sinh là Đồng Kỳ, một tên văn sĩ thi trượt, làm quân sư cho đám Từ Anh, kẻ này đầy một bụng mưu hèn kế bẩn, không biết giúp Từ Anh đoạt được bao nhiêu điền sản, cho nên rất được Từ Anh coi trọng, có chuyện gì cũng tìm hắn xin kế.
Lần này Hải Thụy tới Tùng Giang gây mưa gây gió, Từ gia cây cao gió lớn, lá dày hứng mưa, tất nhiên đứng mũi chịu sào. Mặc dù Hải Thụy còn chú ý bảo vệ danh dự của cha con Từ Giai, nhưng đám gia đinh gia nô của nhà họ Từ liên tục bị quan phủ yêu cầu trả ruộng đất chiếm đoạt.
Đám gia nô suốt ngày khóc lóc tố cáo, nói bị chiếm đoạt bao nhiêu điền sản, hương thân thân thuộc cũng liên tục tới phủ cầu khẩn, một mặt thăm dò thái độ của Từ Giai, một mặt kích động hai tên hoàn khổ dằn mặt Hải Diêm Vương.
Trong bốn đứa con của Từ Giai, Từ Phan từng làm quan tới thị lang, Từ Côn chủ trì gia vụ, cho nên tính cách trầm ổn, không thể làm kẻ ra mặt chịu trận.
Nhưng hai đứa con trai khác là Từ Anh và Từ Kha từ lúc hiểu chuyện thì phụ thân đã là quan lớn triều đình, nhà lại giàu trùm một phương, thêm vào từ nhỏ sống với tổ mẫu, được cưng chiều, thiếu giáo dưỡng, cho nên kiêu căng ngang ngược. Trong mắt bọn chúng, ở Tùng Giang, Từ gia là chúa tể, sao cho phép họ Hải giương oai?
Cường long không áp nổi địa đầu xa cơ mà, vì thế hai huynh đệ bị một đám bạn xấu khích bác, quyết định cho Hải Thụy một bài học, còn về trọng trách hiến kế tất nhiên rơi trên người Đổng kỳ.
Đáng lý dân đấu với quan, nhất là đấu với Hải Diêm Vương là chuyện cực nguy hiểm, người thường tránh còn chẳng kịp, nhưng tên Đổng Kỳ này cho rằng mình có tài không được dùng, chỉ mong cơ hội chứng minh, vì thế viết ra thư nặc danh khắc bạc kia, sau đó thừa lúc tối trời sai người dán khắp đường lớn ngõ nhỏ Tùng Gian, để Hải Thụy bẽ mặt.
Nghe nội dung cáo trạng, huynh đệ họ Từ quả nhiên cảm thấy cực đã, cười xong lại cảm thấy chưa đủ, Từ Kha nheo mắt nói:
- Cách làm này tất nhiên hả giận, nhưng chọc giận tên Hải điên, hắn càng giúp cho đám chân bùn, hình như chẳng có tác dụng gì.
- Chỉ cần làm Hải Thụy nổi khùng thôi.
Đổng Kỳ vân vê mấy sợi râu chuột thưa thớt, nheo con mắt cá vàng nói:
- Hắn chắc chắn đoán ra là tấn thân làm nhưng không thể biết được là ai làm, đành đem phẫn hận phát tiết lên vụ án. Hắn sẽ nghĩ, cho các ngươi châm chọc ta, lão tử phán thêm vài vụ án, đòi lại thêm điền sản cho đám chân bùn, đó là sự báo thù tốt nhất.
- Nhưng thế thì có lợi gì cho chúng ta?
Từ Kha trợn mắt:
- Tứ công tử nói thế là sai rồi.
Đổng Kỳ lắc đầu:
- Phải biết rằng không nỡ bỏ con không bẫy được sói.
- Xương Hà tiên sinh đừng làm hồi hộp nữa.
Từ Anh ngán cái bộ dạng của Đổng Kỳ, nhưng ai bảo mình cần hắn chứ? Cười khan nói:
- Đem bước tiếp theo của chúng ta nói cho lão Tứ đi.
Cả đám nhao nhao phụ họa:
- Đúng đấy, Xương Hà tiên sinh mau nói đi.
- Tuân lệnh.
Đổng Kỳ ôm quyền một vòng, mặt đầy vẻ đắc ý:
- Kỳ thực học sinh viết thư nặc danh này không phải đơn giản là cho hả giận, mà để đổ thêm dầu vào lửa, để Hải Thụy hận chúng ta thấu xương, không phân biệt phải trái trắng đen, thiên vị đám chân bùn.
Hắn dừng lại vuốt râu cười lạnh:
- Nghe họ Hải nói với cấp dưới "tranh tài sản, so với oan tiểu dân, thà oan hương thân", hành vi võ đoán thiên vị nhường nào? Sao không có chuyện kết án oan? Án oan nhiều lên, bên trên sao có thể để yên cho hắn?
- Nói không sai.
Một tên hương thân nói:
- Nhưng thanh danh của hắn quá tốt, chỗ dựa quá mạnh, phán xử sai bình thường chẳng sao.
- Vậy cho hắn thêm chút loạn.
Đổng Kỳ "xoạch" một phát, xòe quạt ra phe phẩy:
- Phải biết rằng Tùng Giang này không đơn giản như bề ngoài, từ nông dân điền hộ, còn có vô số du thủ du thực, con nghiện cờ bạc, lừa đảo giang hồ... Đám này có chung một đặc điểm, không có sản nghiệp, trong mắt Hải đại nhân là "người nghèo" tiêu chuẩn.
- Đám điêu dân này tham lam xảo trá, thấy Hải Thụy phán án khuynh hướng ngả về tiểu dân, sớm đã có ý thừa nước đục thả câu rồi. Chúng ta thuận nước đẩy thuyền, để bọn chúng bịa đặt chứng cứ, đi chiếm đoạt gia sản phú hộ.
- Chủ ý chó má gì thế?
Từ Kha mất kiên nhẫn:
- Nói đi nói lại không nói vào điểm mấu chốt, chẳng cả đời không thi đỗ.
Làm Đổng Kỷ mặt đỏ dừ.
- Kỳ thực đám điêu dân sớm đã làm thế rồi, chẳng qua phú hộ tử thủ, nên kẻ thành công rất ít.
Từ Anh đành tiếp lời:
- Nhưng nếu như chúng ta cố ý bảo người mình không đem điền khế ra, thì là chuyện khác.
- Nếu đều không lấy ra đủ chứng cứ, thì họ Hải tất nhiên đem điền sản phán cho điêu dân.
Cả đám lúc này mới vỡ lẽ.
- Đúng.
Đồng Kỷ nghĩ rõ ràng là kế của mình, không thể để kẻ khác cướp mất hào quang, nên vội nói:
- Vụ án như vậy nhiều lên, chúng ta có thể xúi địa chủ bị tước đoạt tafi sản tới Nam Kinh, thậm chí Bắc Kinh làm rùm beng lên.. Đám ngự sử hướng về chúng ta nhất định không bỏ qua, cho Hải Thụy biết mặt.
- Kế hay.
Cả đám hiểu ra, tức thì phấn chấn nói:
- Cứ làm như thế.
- Giỏi đaasy.
Từ Kha cũng đổi thái độ, cười híp mắt vỗ vai Đổng Kỳ:
- Quả nhiên không hổ là Tử Phòng của chúng ta.
*** Trương Lương, Trương Tử Phòng: Nhân vật không cần chú thích.
- Không dám, không dám...
Đổng Kỳ nở mày nở mặt, vì thế lên mặt phân phối nhiệm vụ cho Hải Thụy một bài học.
"Cường long không áp được địa đầu xà", câu này rất có đạo lý, dù ngươi là tỉnh trưởng, dù ngươi là Hải Thụy, nhưng đám địa đầu xà muốn giở trò, ngươi sẽ không đề phòng hết.
Kỳ thực Hải Thụy luôn rất tỉnh táo, hắn quy định, dựa vào "Đại Minh luật", kẻ nào vu cáo, đánh 20 gậy, đem thị chúng 8 ngày. Vì thế ngoài nha môn mỗi ngày có bảy tám tên bị đánh tét đít, đeo gông cùm mang đi thị chúng, nhưng vẫn không cản trở được đám điêu dân.
Vì thế trên đường phố Tùng Giang, thi thoảng lại có tin đồn " có điêu dân vu cáo phú hộ nào đó thành công, kiếm được 500 mẫu ruộng ", "có con bạc vốn nghèo rớt, nhưng nhờ phúc Hải đại nhân, qua một đêm từ nghèo hóa giàu".
Còn mấy quy củ vốn là bí mật bất truyền của Hải đại nhân cũng thành bí mật ai ai cũng biết, vì thế dân gian lưu truyền "danh ngôn": Trồng ruộng không bằng cáo trạng. Một số tên vô lại ôm mộng tượng đổi đời hô hào nhau bịa chứng cứ, ùn ùn kéo tới cáo trạng phú hộ hương thân.
Đám điêu dân này không nhiều, nhưng bốn năm chục tên tụ tập với nhau, quần áo rách rưới, đi dọc phố hò hét khẩu hiệu, tạo thành ảnh hưởng cực xấu, rất nhiều ngu dân vô tri bị kích động, người cáo trạng nhiều không kể siết, cục diện đã có chút mất khống chế.
Ngay Vương Tích Tước cũng cảm thấy áp lực nặng nề, đừng nói Hải Thụy đứng đầu chịu trận, nhưng Hải Thụy không hề dừng tay như người bên cạnh kiến nghị, vẫn cứ xử lý tốc độ cao, mỗi ngày 200 - 300 vụ án.
Hải Thụy còn bình tĩnh được, bên Trung Trinh Cát đã cuống cả lên, một ngày ba lượt tới tìm hắn mong hắn chú ý tình thế, tránh tới mức không thể vãn hồi:
- Tùng Giang là trọng địa thuế lương của của triều đình, xưa nay luôn lấy ổn định đặt lên hàng đầu, nhưng giờ điêu dân kích động làm loạn, đại hộ đóng cửa trốn trong nhà, để lâu như thế sẽ gây họa.
- Bách tính bất mãn là vì oán hận tích lâu ngày.
Hải Thụy lạnh lùng nói:
- Nếu quan phủ chịu giúp bách tính chủ trì công đạo, tất nhiên không có ai làm loạn.
Vì thế chẳng những không dừng tay càng tập trung phá án phán quyết.
Nhưng án được phán ngày càng nhiều, nhưng tới giờ vẫn chưa được chấp hành. Vì đám phú hộ nào chịu trả đất cho tiểu dân, bọn chúng đều hi vọng hướng gió thay đổi để thoát kiếp nạn này, cho nên đang cố chống đỡ.
Bên phía Hải Thụy cũng tạm thời không cưỡng chế chấp hành, làm những người dân thắng kiện, hết sức bứt rứt khó chịu.
Hắn làm thế có ba nguyên nhân, một tập trung tinh lực phá án, sau đó mới tập trung chấp hành, như thế mới có thể biến hành vi cá nhân thành hành động tập thế. Hai nữa là giảm nhiệt người dân đang kích động, tới nay chưa ai lấy được đất, cho nên lời đồn giàu lên trong một đêm không giải thích cũng tự tan, người hùa theo sẽ ít đi. Cuối cùng là đợi câu trả lời của nội các...
Ngày cuối cùng của tháng 11, cách ngày sổ sách kiểm toán được đưa lên kinh thành đã hơn một tháng, thư trả lời của nội các mãi mới tới, chấp bút là Trương Cư Chính.
Trong thư Trương Cư Chính đại biểu nội các ủng hộ công tác của hắn, bảo hắn cứ việc làm, gần cuối thư mới uyển chuyển đề xuất, phải chiếu cố lão thủ phụ, không nên ép quá đáng, làm mất thể diện lão thủ phụ. v.. v.. v..
Hải Thụy coi như không nhìn thấy đoạn cuối, cười với Vương Tích Tước:
- Ngày mai cuối cùng cũng có thể vào việc chính rồi.
~~~~~~~~~~~~~~~
Sáng sớm ngày hôm sau, binh lính nha môn tuần phủ tới cầu Thái Bình, yêu cầu hai quản gia của Từ phủ là Từ Thành và Từ Viễn về nha môn trả lời vụ án cưỡng đoạt đất đai người dân.
Hai tên trấn an quan sai, mượn cớ thay y phục, rồi trốn theo cửa sau, nấp vào phủ Từ Kha.
Đám quan sai không bắt được người, đành ủ rũ trở về, Hải Thụy không thủ tiêu thẩm phán, dưới tình huống bị cáo vắng mặt, vẫn thăng đường xét xử, hơn 400 người bị hai tên đó cướp đoạt gia sản tới công đường tố cáo, nhiều người có vật chứng nhân chứng đầy đủ, không cần hai tên đó tới vẫn xét xử được.
Tội ác của Từ Thành và Từ Viễn bị vạch trần ngày một nhiều, nhưng chúng ỷ vào sự bảo vệ của Từ phủ, ngang nhiên trốn xét xử. Hành vi ngu xuẩn cỡ này không khác gì đẩy cả chúng và Từ phủ lên giàn thiêu, thành đối tượng phát tiết của dân chúng Tùng Giang đang kích động.
Vì vụ án quá mức phức tạp, cho nên Hải Thụy không tuyên án ngay tại chỗ, nhưng tiếp theo sự thể phát triển vượt ngoài dự liệu tất cả mọi người...
Bách tính Tùng Giang phẫn nộ bao vây ba phủ đệ của Từ gia, có người yêu cầu Từ gia giao ra hai tên ác ôn, có người yêu cầu Từ gia trả tiền, còn lại đa phần góp vui, muốn thử tư vị ức hiếp tể tướng nó như thế nào.
Từ Giai tất nhiên phải giữ phong độ thân sĩ, cấm con cháu nô bộc phát sinh xung đột, tổn hại bách tính. Nhưng tư vị trong lòng thế nào từ mấy bài thơ ông ta làm có thể thấy được:
Ngày xưa thiên tử đều gọi khanh.
Ngày nay vua phiền chửi thẳng danh.
Kiệu son lầu tía đều là ảo.
Hoa vàng rượu trắng trốn sự đời.
Sự chua chát mất mác tiết lộ hoàn toàn trong bài thơ.
Ông ta tưởng rằng bách tính náo loạn vài ngày, chuyện qua là xong, ai ngờ dân tình Tùng Giang được các phương diện cả trong tối ngoài sáng xúi bẩy, đã tới mức sôi trào. Liên tiếp vài ngày đều như thế, làm người Từ phủ không ra ngoài được nửa bước, ngay sinh hoạt cũng đã thành vấn đề.
Từ Giai không thể trốn sự đời nữa, ông ta lệnh Từ Phan tìm Trung Trinh Cát, hi vọng tri phủ Tùng Giang khôi phục trật tự, bảo vệ cuộc sống bình thường của nhà mình.
Trung Trinh Cát cười khổ trả lời:
- Thật không giám giấu, hiện phủ Tùng Giang đã hoàn toàn bị nha môn tuần phủ khống chế, ta đây chỉ là đồ trưng bày mà thôi.
Vì thế Từ các lão không chịu nổi phiền nhiễu, sai Từ Phan giao ra hai tên ác nô.
Từ Giai giao ra hai tên quản gia, vốn là định nhân nhượng cho khỏi phiền, ai ngờ chuyện Từ Thành Từ Viễn khinh hiếp hương dân có chứng cứ xác thực, tra một cái là lôi ra cả đống, cưỡng chiếm phụ nữ, giết người cướp của, cái gì cũng có, còn lôi cả Từ Anh và Từ Kha vào vụ án...
Hai tên nô tài vô dụng khai báo, tất cả chuyện chúng làm do hai vị công tử sai khiến.
Thấy nhi tử của Từ các lão bị cuốn vào, Vương Tích Tước không tự tin nữa, nói với Hải Thụy:
- Từ các lão dù sao cũng là tướng quốc tiền nhiệm, tra xét nô tài cũng được, nếu đụng tới nhi tử ông ta, sẽ khiến dư luận xôn xao.
- Vương tử phạm pháp tội như thứ dân.
Hải Thụy không thèm nghe:
- Huống hổ chính bởi vì chúng là nhi tử của Từ các lão cho nên phải tra cho rõ, trả lại thanh bạch cho Từ các lão.
- Đại nhân, ngài biết làm thế hậu quả là gì không?
- Chẳng qua là trở mặt mà thôi.
Hải Thụy lạnh lùng nói, liền lệnh quan sai đem trát tòa tới tới phủ Từ Giai. Làm xong hết tất cả, hắn nhìn Vương Tích Tước mặt đầy lo lắng, thản nhiên nói:
- Nếu Từ các lão còn cần thể diện, ta tất nhiên giữ lại vài phần thể diện cho ông ấy...
- Đại nhân hãy chú ý chừng mực...
Lo lắng trên mặt Vương Tích Tước vẫn khó tan hết.
Chương 853: Ta không đồng ýPhủ Từ Giai.
Nhìn thấy trát gọi của Hải Thụy, Từ các lão mấy ngày qua tâm tình luôn sa sút, sắc mặt càng trở nên âm trầm, hỏi Từ Phan bên cạnh:
- Bọn chúng muốn bắt người?
- Không phải...
Từ Phan nhỏ giọng đáp:
- Chỉ thông báo cho chúng ta đưa hai đứa bọn chúng tới đúng giờ. Xem ra Hải tuần phủ không phải hoàn toàn không hiểu chừng mực.
- Hiểu chừng mực?
Từ Giai nghe vậy cười khổ:
- Hắn đúng là hiểu chừng mực, ép dần từng bước một, muốn kéo cả nhà chúng ta xuống bùn. Gọi hai tên súc sinh kia lại đây, ta muốn hỏi cho rõ.
Từ Giai biết "súc sinh" là hai tên đệ đệ của mình, trong lòng không khỏi nảy ra suy nghĩ quái dị, vậy chẳng phải ta cũng thành súc sinh? Vậy thì lão gia ngài là cái gì?
Một lúc sau hắn dẫn hai tên "súc sinh" thấp thỏm đi tới.
- Cha cho gọi hài nhi tới có chuyện gì sai bảo ạ?
Trên đường đi, Từ Anh và Từ Kha đã biết nguồn cơn, cho nên tỏ ra cực kỳ ngoan ngoãn.
Từ Giai mở mắt ra, nhìn hai đứa nhi tử có chút xa lạ, bao năm qua ông ta làm quan bên ngoài, ít gặp hai đứa con sinh muộn này, nhất là sau khi chúng trưởng thành gần như chưa từng gặp qua, càng chẳng nói tới dạy dỗ.
Năm xưa Từ Giai nhìn hành vi của Nghiêm Thế Phiên, liệu định hắn cuối cùng sẽ kéo cả Nghiêm Tung chết trùm, tránh con mình cũng đi vào con đường nó, trừ trưởng tử bên cạnh, ông ta không cho ba đứa còn lại làm quan...
Cho dù là Từ Phan cũng luôn bị ông ta ngăn ngoài trung tâm quyền lực, về sau Từ Phan vừa lên làm thị lang, liền lệnh hắn từ quan về quê.
Cũng chính vì điều này Từ Giai rất áy náy với đám nhi tử, luôn có lòng bồi thường. Trong mắt ông ta, mấy đứa con mình ở địa phương phá phách tới đâu cũng không thể bằng Nghiêm Thế Phiên. Huống chi mình cả đời cần mẫn, coi như lập được công lao, chẳng lẽ không bảo vệ được nhi tử của mình?
Nhưng hiện giờ xem ra mình sai rồi, rời khỏi chiếc ghế quyền lực là mất đi quyền chủ động, mặc dù sức ảnh hưởng vẫn còn lớn, nhưng Cao Củng hận không thể băm mình thành tám mảnh, còn Hải Thụy đã kề đao lên cổ mình.
Xem ra bọn chúng đã quyết đột phá từ trên người con trai mình, đáng cười mình còn hi vọng nhân nhượng cho qua, đúng là già tới hồ đồ rồi. Có thể thấy hơn một năm nhàn nhã làm trình độ của mình tụt xuống quá nhiều...
Đám nhi tử cũng nhìn phụ thân, nhìn ông ta vốn mặt mày mỏi mệt, dần dần nổi lên đấu chí, nhất là đôi mắt mờ đục lúc này sáng ánh lên, tựa hồ vị tể tướng hô phong hoán vũ đã trở lại, bọn chúng càng yên tâm, càng thêm ngoan ngoãn.
- Có người tố cáo hai đứa các ngươi dung túng gia nô cướp đoạt tài sản, giết người, cưỡng đoạt dân nữ.
Từ Giai phá vỡ im lặng, nhìn nhi tử hỏi:
- Thực sự có chuyện này sao? Đừng có giấu ta.
Hai đứa nhi tử ấp a ấp úng:
- Chuyện này, chuyện này... Có người cáo trạng, nhưng đã kết án rồi.
- Ở đâu kết án?
- Huyện Hoa Đình.
- Kết án thế nào?
Hai tên định nói dối, nhưng nhìn dáng vẻ của cha tức thì hiểu ra ngay, đây là người duy nhất trên đời có thể giúp được mình, quỳ sụp xuống trước mặt Từ Giai, cố nặn ra nước mắt:
- Là Hầu huyện lệnh tiền nhiệm giúp chúng con, bảo chúng con ra ngoài du học một thời gian, ông ấy bắt mấy tên gia nô vào ngục, sau đó một thời gian báo bệnh chết, rồi len lén thả chúng ra. Cuối cùng trong nhà bồi thường chút tiền mai táng, coi như kết án.
- Ôi, nghiệt tử, vậy mà ta còn cười Nghiêm Tung, giờ xem ra chẳng qua là chó chê mèo lắm lông.
Từ Giai chỉ trích yếu ớt:
- Hẳn lần này khổ chủ gặp được Hải Thụy, lại nổi lòng báo thù. Đáng hận trên Hải Thụy này thiết diện vô tư, nếu hắn phán xử theo luật, mạng các ngươi khó giữ được...
Nghe phụ thân nói thế, hai đứa nhi tử sợ hãi khóc thật:
- Hài nhi biết sai rồi, cha cứu mạng...
- Hiện giờ mời biết thì muộn rồi.
Từ Giai hừ lạnh một tiếng:
- Người đâu, trói hai tên nghịch tử này lại, đưa tới...
- Cha, tuyệt không thể đưa bọn chúng tối nha môn...
Từ Phan và Từ Côn vừa chạy tới cùng quỳ xuống, khóc lóc:
- Tên Hải Thụy đó là đồ điên, hai đệ ấy mà rơi vào tay hắn liệu còn sống nổi không?
Từ Anh và Từ Kha càng khóc lóc thảm thiết, cứ như sắp bị áp giải lên pháp trường vậy.
- Ai bảo đưa bọn chúng tới nha môn?
Từ Giai nói một câu chặn ngay đám con khóc lóc lại:
- Nhốt chúng vào Từ đường, mỗi ngày chép gia huấn 500 lần.
Từ Anh và Từ Kha như được đại xá, đương nhiên... Nếu không có câu cuối càng tốt.
Đợi hai đứa đệ đệ bị đưa đi, Từ Côn lo lắng hỏi:
- Vậy phải trả lời với Hải Thụy ra sao?
- Tên này không nể tình chút nào, đúng là một vấn đề.
Từ Phan bực bội nói:
- Phụ thân năm xưa cứu hắn một mạng, còn tưởng hắn là quân tử chí thành, có ân báo ân, không ngờ lòng lang dạ sói như thế.
- Đừng bi quan.
Từ Giai chậm rãi nói:
- Đừng tưởng thanh quan không có nhược điểm, thanh quan cũng tham, chẳng qua tham danh mà thôi. Ta có ân với Hải Thụy, điều này ai cũng biết, nếu bỏ thể diện đi cầu xin, thách hắn cũng không dám trở mặt. Tính mạng hai tên nghiệt súc kia còn có thể cứu được.
Nói thì nói như thế, nhưng nghĩ tới mình về già lại phải hạ mình cầu người, tâm tình của Từ Giai rất tệ, đám nhi tử cũng thấy đau khổ, muốn khuyên ông ta đừng đi, nhưng Từ Giai xua tay:
- Ài không nghĩ nhiều nữa, đành đâm lao phải theo lao thôi, xem hắn ứng phó thế nào mới an bài.
Nếu đã quyết định tìm Hải Thụy cầu xin, tất nhiên không thể chần chừ, nếu để xử xong mới đi còn ý nghĩa gì nữa?
Vì thế sáng ngày hôm sau, Từ Giai mặc quan phục nhất phẩm, ngồi kiệu tám người khiêng rời cửa, nhưng tới cầu Thái Bình, nghĩ không ổn, với tính thối của Hải Thụy, chắc chắn là thích mềm không thích cứng, nên hạ mình đi gặp hắn vậy.
Từ Giai lệnh người quay về, đổi thường phục, kiệu bốn người khiêng, tới chỗ Hải Thụy.
Nghe nói lão thủ phụ tới, Hải Thụy vội bỏ công việc đó, tới cửa nghênh tiếp.
Từ Giai dừng kiệu ở cửa, Hải Thụy đi nhanh tới, chắp tay nói:
- Thái sư, mới sáng sớm sao ngài đích thân tới rồi?
Từ Giai thấy hắn dùng lễ vãn bối, lòng dễ chịu hơn, mỉm cười nói:
- Cương Phong tới Tùng Giang hơn một tháng, nhưng chưa tới nhà ta ăn cơm, ta đành đích thân tới vậy.
Hải Thụy nhớ ra lần trước tới bái phỏng, vì chối từ giữ lại ăn cơm nên nói "lần sau hãy ăn", mặc dù biết Từ Giai tới vì việc khác, nhưng quân tử đường hoàng như hắn, vẫn cảm thấy hơi xấu hổ:
- Công vụ bận rộn quá, mong lão thái sư tha thứ.
Từ Giai cười khà khà:
- Cương Phong không định mời ta vào hay sao?
- Đâu có, đâu có..
Hải Thụy tránh người ra.
Khi đi vào trong, Từ Giai cuối cùng nói rõ ý định:
- Kỳ thực trong lòng ta có chuyện, muốn tìm ngươi tâm sự.
- Ngài có chuyện, có thể gọi hạ quan tới mà.
Hải Thụy biết Từ Giai cậy già lên mặt, nhưng đối phương đúng là có tư cách đó.
Từ Giai lắc đầu, giọng chua chát:
- Ta đã không còn là thủ phụ nữa, ngươi lại là tuần phủ của ta, sao có thể cậy già phá hỏng quy củ triều đình.
Trong lúc nói chuyện, hai người đã tới thiêm áp phòng, uống vài ngụm trà xong, Từ Giai muốn nói chuyện hai đứa nhi tử, nhưng nghĩ tới mình phải cầu khẩn thuộc hạ xưa kia, thực khó nói lên lời, trong lòng hối hận vì dễ đàng từ bỏ quyền bính, hiện giờ tự chuốc nhục vào thân.
Thấy ông ta cứ ấp a ấp úng, Hải Thụy còn muốn thăng đường, đâu có thời gian lằng nhằng, chủ động nói:
- Lão thái sư chẳng phải có chuyện muốn tìm hạ quan sao? Ngài cứ nói tự nhiên.
- Đúng là có chuyện, Cương Phong à...
Từ Gia mặt mày hổ thẹn:
- Chuyện tới nước này rồi, giữ thể diện gì nữa, hôm qua nhận được trát gọi của ngươi, ta gọi hai đứa nghịch tử lại, kết quả chúng khai đúng là có chuyện ấy, nhưng không phải chúng tự sai bảo, mà là hai tên ác nô tự chủ trương, lấy danh nghĩa của chúng giết người cướp đất, gây ra đại họa.
Rồi rơi nước mắt:
- Nhưng nô bộc hành hung, chủ nhân có trách nhiệm, bất kể thế nào tội danh quản giáo không ngiêm, bao che tội phạm là không tránh được.
- Thì ra là thế.
Hải Thụy thầm cười lạnh, công phu tránh nặng tìm nhẹ của Từ các lão đúng là số một, liền an ủi:
- Nếu đúng là thế, chỉ cần hai vị công tử tới, hạ quan xử nhẹ là được.
- Ài, ta vốn định đưa hai đứa nghiệt súc tới thỉnh tội, nhưng mẹ già 86 tuổi nghe nói ta định đưa tôn tử lên quan, lấy cái chết đe dọa, nói chỉ cần ta đưa chúng ra khỏi cửa một bước sẽ lấy giây thừng treo cổ cho ta xem.
Từ Giai lấy ống tay áo che miệng, khóc sụt sùi:
- Từ Giai ta cả đời thận trọng, không ngờ về già, thể diện bị hai đứa nghịch tử hại mất sạch.
- Lão thái sư nặng lời rồi.
Dù sao Từ Giai là thủ phụ tiền nhiệm, vô sỉ đến độ khóc lóc lôi cả mẹ già ra, dù là Hải Thụy cũng đau đầu:
- Hạ quan đường đột, kinh động thái phu nhân, thực áy náy.
- Ngươi không sai.
Từ Giai lau nước mắt, ngại ngùng nói:
- Làm Cương Phong chê cười rồi, là mẹ già của ta hồ đồ, nhưng người già cố chấp, khuyên không nghe..
Rồi giọng như muỗi kêu:
- Ta đành mặt dầy tới cầu xin Cương Phong giơ cao đánh khẽ, tha cho hai đứa chúng, sau này khẳng định nghiêm gia giáo, không cho chúng sinh sự thị phi nữa... Mong Cương Phong niệm tình cũ cứu tính mạng cả nhà ta, ta cắn răng bỏ sản nghiệp, toàn bộ xin nghe Cương Phong.
- Thái sư.
Hải Thụy nhíu chặt mày:
- Ngài làm khó hạ quan rồi, hôm nay nếu hạ quan tha cho hai vị công tử thì còn mặt mũi nào thăng đường nữa?
- Hải đại nhân, mẹ ta tuổi cao sức yếu, chẳng may có mệnh hệ nào, ta làm con cũng chẳng thể sống nổi.
Từ Giai vái thật sâu:
- Mong Hải đại nhân thương xót, ân đức này cả đời không quên.
Nói tới nước này dù người sắt cũng phải động lòng, Hải Thụy bất lực nói:
- Thái sư thương con, thương mẹ, nhưng có biết mẹ người bị hại ở đâu không? Con cái ở đâu không? Hơn nữa không chỉ một nhà, còn có rất nhiều cô nhi quả phụ, chẳng lẽ bọn họ không có phụ mẫu, không có nhi nữ sao? Chẳng lẽ "phạm pháp không luận sang hèn, vương tử như thứ dân", chỉ là câu nói xuông.
- Hải đại nhân nói không sai, chỉ là năm xưa Hải đại nhân ngồi thiên lao, lão phu từng nói giúp trước mặt tiên hoàng, mong Hải đại nhân niệm tình này.
Từ Giai đã nhìn ra Hải Thụy đang dao động, liền tung ra chiêu sát thủ, ý tứ là năm xưa ngươi ngỗ nhịch hoàng đế, nhục mạ quân phụ, đó là tội chu di cửu tộc, không có ta ngươi đâu có ngày hôm nay.
- Thái sư nói lời sai rồi.
Ông ta không nói cái này thì thôi, vừa nói tới Hải Thụy liền nghiêm mặt lại:
- Năm xưa Hải Thụy làm tiên hoàng tức giận, đúng là nhờ thái sư giải cứu. Nhưng khi đó hạ quan dâng tấu nói thẳng, trung quân ái quốc, có phạm tội gì? Hai vị công tử sai hạ nhân đánh chết người, hối lộ quan huyện thoát tội, hai chuyện này rõ ràng khác nhau, sao có thể gộp chung?
- Hải đại nhân giáo huấn phải lắm...
Từ Giai cười thảm, vịn bàn đứng dậy:
- Sinh mà không dạy là lỗi của cha, lão phu làm quan bên ngoài nhiều năm, thiếu quản giáo nhịch tử, mới có ngày hôm nay. Nếu nói tới tội, thì đều là tội của ta, để kẻ làm cha này cùng nhận tội đi.
Nói xong quỳ xuống trước mặt Hải Thụy.
May là Hải Thụy nhanh tay đỡ lấy trước khi ông ta kịp quỳ xuống, dìu ngồi xuống ghế, bùi ngùi than:
- Sớm biết ngày hôm nay, thì khi xưa đã đừng...
- Đúng thế, lão phu hối không kịp nữa rồi, Hải đại nhân, ta cũng không làm ngài khó xử...
Từ Giai ngập ngừng:
- Hay là như này, Đại Minh luật có ghi, phạm nhân chỉ chỉ cần không phải tử tội, người thân có thể nộp tiền chuộc tội, lão phu tình nguyện nộp một phần điền sản chuộc tội cho hai đứa nhi tử. Như vậy vừa cứu người vừa giữ pháp luật, đại nhân thấy sao?
Hải Thụy im lặng, hắn biết Từ Giai khẳng định hiểu rõ mục đích cuối cùng của mình, cho nên mới nói thế:
- Luật pháp đúng là có điều này, nhưng hai vị công tử còn chưa định tội, có thích hợp dùng điều khoản này hay không thì chưa chắc.
- Cương Phong...
Từ Giai đau khổ nói:
- Chẳng lẽ lão phu cầu khẩn mọi cách mà không có chút tác dụng nào sao.
Hải Thụy nhíu chặt mày rất lâu mới nói:
- Thôi vậy, thái sư đã cầu khẩn như thế, nếu Hải Thụy không thông cảm chút nào thì quá bất nhân rồi... Hạ quan có ba điều kiện, nếu thái sư đồng ý, vụ án của hai vị công tử có thể không truy cứu nữa.
- Mời Cương Phong nói.
Từ Giai một mực tỏ ra bi thương.
- Chuyện thứ nhất, Ngô Trung năm nay xảy ra nạn đói, quan phủ cần mua lương thực ở tỉnh gần bên chẩn tai, để vượt qua vụ xuân. Nhưng vì phương bắc đánh trận, quốc khố trống rỗng, đành quyên góp từ phú thương, mong thái sư đi đầu hưởng ứng.
- Điều này rất nên.
Từ Giai gật đầu.
- Thứ hai, hạ quan nghe nói gia nhân Từ phủ hơn nghìn, nghênh ngang bên ngoài, ảnh hưởng cực xấu tới thanh danh thái sư, kiến nghị ngài chủ động tước hộ tịch những kẻ mượn danh kia, để chúng không dựa thanh thể ngài làm càn làm bậy được nữa.
Từ Giai trầm mặc chốc lát:
- Chuyện này rất lớn, không thể nhận lời ngay được.
- Chuyện này không vội, để hạ quan nói hết đã...
Hải Thụy gật đầu, biểu thị lý giải:
- Theo tra xét xác nhận, số điền sản của phủ thái sư thực sự lớn kinh người, ảnh hưởng rất không tốt.
- Chuyện nay cho lão phu nói một lời.
Từ Giai vội nói:
- Lão phu quanh năm ở ngoài, khi về cũng không hỏi tới chuyện lặt vặt, cho nên với số điền trạch của tệ gia không rõ lắm, nhưng cũng biết đại đa số điền sản không thuộc về tệ gia, mà là người thân ký gửi, đây là lệ cũ, từ chối không nổi. Kỳ thực tệ gia chẳng được lợi lộc gì, còn chuốc lấy tiếng xấu. Chính đang định dựa cơ hội này bỏ đi khối tâm bệnh ấy.
- Được thế thì tốt quá.
Hải Thụy gật đầu:
- Vậy đi, hạ quan cho thái sư ba ngày, ba ngày sau ngài cho một câu trả lời rõ ràng, được không?
- Cám ơn Cương Phong thông cảm.
Từ Giai chậm rãi đứng dậy, phảng phất thoáng chốc già đi rất nhiều.
Hải Thụy đỡ Từ Giai lên kiệu, nhưng không nhìn thấy khi rèm kiệu hạ xuống, đôi mắt mờ đục của Từ Giai dần dần trở nên sắc bén như dao.
Kiệu trở về Từ phủ, hai đứa nhi tử đi tới đỡ Từ Giai, nhưng bị ông ta đẩy mạnh ra, thảng thốt nhìn cha hầm hầm đi vào thư phòng, bước đi như rồng như hổ, đâu có cái vẻ gần đất xa trời như ở nha môn tuần phủ.
- Té ra là đóng kịch.
Từ Côn lẩm bẩm:
- Giờ đệ mới biết à?
Từ Phan bĩu môi, hắn theo Từ Giai lâu năm, tất nhiên chẳng lạ gì kỹ năng biểu diễn của cha.
Hai tên đi vào thư phòng, thấy Từ Giai chắp tay sau lưng, đứng trước cửa sổ.
Dè dặt gọi một tiếng "cha", đợi rất lâu mới nghe thấy Từ Giai nói:
- Các ngươi rốt cuộc có bao nhiêu ruộng?
"Không ngờ Hải Thụy nói nhà mình sản nghiệp kinh người, xem ra con số không phải là bình thường."
- Chuyện này...
Hai đứa nhi tử nhìn nhau, lúng ba lúng búng.
Từ Giai lạnh lùng nói:
- Tới nước này rồi còn muốn giấu ta à?
- Cha hiểu lầm rồi.
Từ Côn nói nhỏ:
- Chủ yếu là các phòng đều có một quyển sổ, chưa bao giờ cộng gộp lại, cho nên nhất thời không ai nói rõ được.
- Vậy thì đi tra đi.
Từ Giai tuy không phát tác, nhưng giọng lạnh tới mức làm người ta rợn người.
Hai đứa nhi tử vội đưa người tới các phòng lấy sổ, đây vốn là trái cấm của các phòng, tuyệt đối không cho người khác xem, nhưng lúc này thời kỳ phi thường, lão tam lão tứ đều bị nhốt vào từ đường, ngay cả lão gia tử cũng phải đích thân đi cầu xin, hiển nhiên nguy cơ lớn nhất của Từ phủ đã ở ngay trước mắt. Vì thể ngoan ngoan nộp sổ sách, sau đó đưa tới thư phòng của Từ Giai.
Vì đây là tuyệt mật của Từ phủ, cho nên không thể dùng trướng phòng trong phủ, chỉ đành do đích thân Từ Phan và Từ Côn ra trận, thêm vào tâm phúc của Từ Giai là Lý tiên sinh và Lữ tiên sinh, bốn người lạch cạch tính toán từ trưa cho tới tận tối.
Bọn họ tính toán ở gian trong, Từ Giai đợi ở gian ngoài, ông ta vốn định xem sách, nhưng nghe thấy tiếng lách cách, lòng phiền loạn không sao xem nỏi, đành khép mắt lại.
Trong đầu chẳng biết vì sao nhớ tới sự kiện Cảnh vương trả ruộng năm năm trước.....
Mùa xuân năm Gia Tĩnh thứ 44, Cảnh vương Chu Tái Quyến hoăng, không con trai, đất phong bị phế trừ, mấy vạn mẫu ruộng bị thân thích chiếm đoạt.
Số ruộng này vốn thuộc về sở hữu của bách tính, bởi thế dân phẫn nộ, gần như tạo thành biến loạn. Về sau Từ Giai tấu xin trả ruộng cho dân, khiến cho lòng dân mừng rỡ, tới nay vẫn cảm tạ ơn đức của ông ta.
Năm năm trước, mình lệnh Cảnh vương phủ trả ruộng, giờ tới lượt Hải Thụy lệnh mình trả ruộng...
Từ Giai cười tự trào, cười xong thở dài, dần dần nhắm mắt lại đi vào cõi tiên, như trở về Bắc Kinh, vẫn là thủ phụ hô phong hoán vũ, một đạo chỉ dụ là cách trức ngay tên Hải Thụy không hiểu chuyện.
Cho tới khi hai đứa nhi tử gọi tỉnh, Từ Giai mới nói lời tạm biệt vinh quang ngày xưa, quay về hiện thực:
- Tra rõ chưa?
- Có con số đại khái rồi.
Từ Phan nơm nớp lo sợ đưa danh sách dâng lên:
- Phụ thân ngàn vạn lần đừng giận.
...
Từ Giai nhìn hắn, im lặng nhận lấy, liếc tới con số cuối cùng, hai mắt trợn trừng trừng, nhìn lại lần nữa, xác định không nhầm lẫn, mắt tối xầm lại, dựa vào ghế mãi không nói lên lời.
Từ Phan vội đi tới hết đấm lưng lại vuốt ngực, Từ Giai dần dần tỉnh lại, nhìn Từ Côn với vẻ không sao tin nổi:
- Ngươi làm thế để làm gì? Muốn chết cũng không cần dùng cách này.
- Cha bớt giận.
Từ Côn vội vàng quỳ xuống, hoảng sợ nói:
- Người xa quê nhiều năm, không biết nay khác xưa rồi, bách tính Tùng Giang không còn lấy nông nghiệp kiếm sống nữa, rất nhiều nhà phu thê tới công trường làm việc, đem đất đai gửi vào đại hộ, mỗi năm chỉ cần một phần lương thực. Sau đó đại hộ thuê người phương bắc trồng ruộng, bởi thể điền sản tất nhiên tập trung vào vài nhà. Từ gia chúng ta giữ vững quy củ, nhân nghĩa vang xa, tất nhiên thành một trong số đó... Nếu không có chúng ta, Tô Tùng chắc biết có bao nhiêu đất hoang.
- Té ra các ngươi là công thần cơ đấy.
Mặc dù Từ Côn nói rất chân thành, nhưng Từ Giai là ai, có kẻ nào lừa nổi ông ta không? Nghe vậy cười lạnh liên hồi:
- Sao người ta tự dưng lên cơn điên tố cáo chúng ta cưỡng đoạt.
- Chuyện ấy có lẽ là cũng có, nhưng nhìn chung là giống như hài nhi đã nói.
Từ Côn giọng lí nhí.
- Giỏi, giỏi, năm xưa ta nên đưa ngươi tới Bắc Kinh, bằng cái bản lĩnh nói láo không ngượng mồm này, chắc chắn làm quan lớn hơn đại ca ngươi nhiều.
Từ Côn cúi đầu xuống không dám nói lời nào.
- Đông ông bớt giận, hiện giờ không phải lúc truy cứu trách nhiệm, quan trọng là ứng phó với cửa ải trước mắt ra sao.
Thấy tình thế căng thẳng, Lý tiên sinh vội đẩy sang chuyện khác.
- Ừ..
Từ Giai thở hắt ra một hơi:
- Tiên sinh có cao kiến gì?
- Kỳ thực chúng ta đều biết Hải Thụy tới Tùng Giang làm gì, "trà ruộng có thể miễn tội" là thật, nhưng lòng tham của hắn tuyệt không nhỏ. Chúng ta gia nghiệp lớn, ngay quản gia cũng có vài vạn mẫu ruộng, muốn thỏa mãn hắn không thành vấn đề. Nhưng nếu chúng ta trả quá nhiều ruộng, ngược lại thành chứng thực lời tố cáo của Hải Thụy, làm người ta cho rằng Từ gia chiếm đoạt ruộng dân thực thì sao?
- Đúng thế, tiến thoái lưỡng nan.
Từ Giai gật đầu:
- Hải Thụy còn bảo ta quyên góp, cũng như vậy, ta quyên ít hắn sẽ bất mãn, nhưng nếu quyên vài vạn lượng, Thanh Lưu khắp triều sẽ nhìn ta ra sao?
- Đúng, không thể thỏa hiệp.
Từ Phan lên tiếng:
- Chút gia nghiệp hiện nay bọn con kinh doanh hơn 20 năm mới có, trong đó có lẽ có "chiếm đoạt", nhưng tuyệt đại đa số là thu được chính đáng, sao có thể bằng một câu nói của hắn là chắp tay dâng lên?
- Vậy phải làm sao đây?
Từ Giai lạnh lùng nói.
- Theo hài nhi thấy, Hải Thụy ngang ngượng làm càn, nhưng chúng ta phải làm việc đúng pháp luật.
Nhà họ Từ quả thực tố chất rất khác người, Từ Côn nói:
- Đại Minh luật quy định, phàm ruộng đất mua trên 5 năm không được truy tố. Cho nên điền sản dưới tên chúng ta có trên 5 năm không được đụng vào, thống kế số ruộng mới ra, kiếm kẻ nghèo khó, có tranh cãi trả lại, dù Hải Thụy không hài lòng, chúng ta cũng không cần sợ hắn, dẫu thế nào cũng không thể đem sản nghiệp chúng ta có được một cách chính đáng tặng người khác chứ?
- Đúng, ý của Nhị công tử rất hay.
Lý tiên sinh gật đầu:
- Hải Thụy chẳng thể nói được gì.
- Đi thống kê đi, số ruộng vào sổ sách năm năm qua, chiếm đoạt cũng được, không chiếm đoạt cũng được, trả hết cho ta... Hải Thụy muốn ta làm gương, ta cấp cho hắn cái thể diện này.
Từ Giai mệt mỏi nhắm mắt lại.
- Cha..
Hai đứa con đau lòng kêu lên.
- Các ngươi muốn bức tử ta hay sao?
Từ Giai mở choàng mắt, cầm lấy chén chà ném vỡ choang xuống đất:
- Lão phu cả đời thanh liêm, bị các ngươi hủy hết rồi.
Hai tên hoảng sợ xéo vào trong tiếp tục tính toán sổ sách.
Lý tiên sinh đuổi lui hạ nhân, đích thân quét dọn mặt đất, mang cho Từ Giai một chén trà mới, định lui xuống, nhưng bị Từ Giai gọi lại:
- Ông nói xem, hôm nay ta quỳ xuống, có thể làm Hải Thụy nhân nhượng không?
-....
Lý tiên sinh suy nghĩ chốc lát, nói thực:
- Vốn là có thể, trên đời ngoại từ hoàng đế và thái phu nhân, không ai nhận được cái lậy này của người. Nhưng, một thủ phụ là Cao Củng, ông ta nhất định không động lòng; hai, chỗ dựa của Hải Thụy, nói trắng ra là Thẩm Mặc sẽ không động lòng; ba là đám ngôn quan bị chỉnh chết đi sống lại, chỉ sợ có liên quan tới chúng ta, e không dám lên tiếng cho đông ông.
Từ Giai thở dài:
- Sớm biết thế này năm xưa ta đã chẳng thiên vị...
Lý Tường biết ông ta nói tới Thẩm Mặc, an ủi:
- Con người đâu có thể nhìn được tương lai, ai ngờ kẻ hậu sinh này hung mãnh như thế.
- Thôi, không nhắc tới điều này nữa...
Từ Giai khoát tay:
- Ông nói không sai, chỉ cần còn Cao Củng, ai nói giúp ta cũng vô dụng, cho nên chúng ta phải dẫn họa đi, không thể để một mình Từ gia gặp tai ương, phải để cả Tùng Giang, không, cả mười phủ Tô Tùng đều phải gặp tai ương...
Nói tới đó cười lạnh:
- Lũ khốn kiếp, thường ngày nịnh bợ xun xoe, giờ Từ Giai ta gặp nạn, tên nào tên nấy đều giả câm, ta muốn xem xem, khi đồ đao của Hải Thụy chém lên đầu các ngươi, các ngươi còn im lặng được hay không.
Ba ngày sau, Từ Giai trả lời ba yêu cầu của Hải Thụy: Thứ nhất, quyên 5000 lượng bạc chẩn tai; thứ hai, gia nô ở Từ phủ nhiều năm, tình cảm sâu nặng, không thể cưỡng ép đuổi đi, chỉ đành để tự nguyện; thứ ba, nguyện trả lại tất cả điền sản mua trong 5 năm qua, tổng cộng 4 vạn mẫu, đã lệnh đám nhi tử lên danh sách trả ruộng, đợi chủ tới nhận về.
Từ Phan, Từ Côn mặc dù rất không muốn, nhưng lệnh cha khó cãi, đành nghe theo. Từ Giai viết một lá thư nói rõ nguồn cơn, đưa lên nha môn tuần phủ.
Nhìn thư của Từ Giai, khuôn mặt mệt mỏi của Vương Tích Tước hiện lên nụ cười hưng phấn:
- Chúc mừng đại nhân, Từ các lão cuối cùng cũng chịu trả ruộng rồi.
Hải Thụy tâm tình cũng rất rất, Từ gia chịu trả ruộng, khẳng định các Tấn thân ở Tùng Giang không dám chống nữa, e 10 phủ Tô Châu cũng sẽ lui theo.
Nhưng đôi mày vừa giãn ra lại co vào, sao chỉ trả chưa tới 1 phần 10? So với hơn 40 vạn mẫu còn lại, 4 mẫu này có đáng gì? Nếu như các hương thân học theo, thì hành động trả ruộng này còn có ý nghĩa gì nữa?
Suy nghĩ mãi, Hải Thụy cầm bút viết thư cho Từ Giai, mở đầu là khen ngợi vài cau, tiếp đó thái độ xoay chuyển, nói rõ con số -- Yêu cầu trả một nửa.
Trong mắt Hải Thụy, cho dù có trả một nửa, nhà họ Từ vẫn còn hơn 20 vạn mẫu ruộng, vẫn là Tùng Giang đệ nhất tài chủ, còn muốn gì nữa? Nếu chẳng phải lo ép Từ Giai chó cùng giứt giậu, ảnh hượng tới đại kế đo ruộng, với tính khí của Hải Thụy làm sao chấp nhận được.
Có lẽ cảm thấy quá lợi cho nhà họ Từ, ngữ khí của Hải Thụy trở nên khắc bạc, cuối cùng không ngờ viết:" Tích xưa sửa cái sai của cha, vàng chất bảy phòng đem giải tán hết, công lấy danh cha sửa sai cho con có gì không thể."
Nhận được thư trả lời của Hải Thụy, Từ Giai cười, nhưng cười đầy sát khí, hai nắm đấm siết chặt, mày dựng lên...
Tên Hải man mọi này không biết điều, dám được nước lấn tới, dám đòi trả một nửa, còn lên tiếng dạy dỗ ta, dù không trực tiếp nhắm vào mình, nhưng chẳng phải chỉ nhi tử của mình chiếm đoạt quá nhiều, bảo mình giải tán hết gia tài, sửa cái sai của con sao?
Từ Giai không thể lùi được nữa.
Trước đó lùi là vì rút lui chiến lược vì thắng lợi cuối cùng, hiện giờ nếu tiếp tục lùi, người thiên hạ sẽ cười rụng răng, Từ Giai không chịu nổi mất mặt, quyết không lui nữa, lập tức viết thư cho Hải Thụy, nói mình không hỏi nguyên ủy, trả hết ruộng mua 5 năm qua, không biết còn cáo bao nhiêu ruộng đất thuộc về "chiếm đoạt", đành nhờ quan phủ tới tra, nếu có chứng cứ, nhất định sẽ trả.
Từ Giai thường ngày có thể nhẫn nhịn đủ điều, cuối cùng tới mức không thể nhẫn nhịn nữa.
Thái độ cứng rắn của Từ Giai là có chỗ dựa, vì Đại Minh luật không hạn chế cá nhân sở hữn ruộng, chỉ nghiêm cấm che giấu con số, ảnh hưởng tới thu nhập phú thuế mới bị đả kích. Hơn nữa bất kể là nguyên nhân gì, mua bán trên 5 năm, hai bên đều không bị truy tố.
Hiện Từ Giai trả số ruộng mua trong 5 năm qua, từ pháp luật đứng ở thế bất bại, Từ Giai không có gì phải sợ hãi.
Mặt khác, ông ta liên tục viết thư cho môn sinh cố hữu, muốn bọn họ vào lúc thích hợp, cho Hải Thụy chút giáo huấn....
Bên kia cùng lúc Hải Thụy viết thư trả lời Từ Giai, liền phát ra Thối Điền lệnh, yêu cầu tất cả những người bị phán trả ruộng, phải trả lại ruộng chiếm đoạt trái phép trước năm mới.
Sau ngày 15 tháng giêng năm Long Khánh thứ 4, đăng ký hồ sơ lại, lúc đó nhà nào còn chưa trả ruộng, sẽ nghiêm trừng không tha.
Một cơn bão tái phân phối ruộng đất đã hình thành, đại hộ phủ Tùng Giang chấn động, lần này bị người ta kề dao vào tận cổ rồi.
Vì thế bọn chúng không kiêng dè gì nữa, lũ lượt kéo tới nhà Từ Giai, xin ông ta chủ trì công đạo. Từ Giai nói với chúng, lần này ông ta bị Cao Củng nhắm vào rồi, lời nói không có tác dụng, còn gây hiệu quả trái ngược, nên đành im lặng chịu đựng... các vị chỉ có thể dựa vào bản thân.
Không hi vọng vào Từ Giai được nữa, đám hương thân đành thông qua mối quan hệ của mình trong triều, phản ánh việc làm của Hải Thụy như "kích động điêu dân cáo trạng, khiến dân gian náo loạn", " so với oan tiểu dân, thà oan hương thân, chấp pháp bất công", "không cần biết có chiếm đoạt hay không, cưỡng ép hương thân trả ruộng" v.. v... v...
Vì thế gần cuối năm, lời bàn tán về việc làm của Hải Thụy ở Tùng Giang dần nổi lên..
Kỳ thực trước đó không ngừng có người công kích Hải Thụy, nhưng bị nội các áp xuống. Nhưng càng lúc người cáo trạng càng nhiều, nội các không thể trấn áp được hết.
May Cao Củng trượng nghĩa, khi áp lực với Hải Thụy tăng lên, công khai khen ngợi thành tích và thái độ làm việc của Hải Thụy, chỉ phê bình phương pháp làm việc, cho rằng hắn nên suy nghĩ chu toàn hơn.
Nhưng cuối năm, một tấu sớ đàn hặc từ Tô Từng tuần án Đới Phượng Tượng làm Cao Củng không bảo vệ nổi nữa:" Người ta nói Hải Thụy là thanh quan trung thành, nhưng thần phát hiện hắn mua danh chuốc tiếng, đại gian vờ trung, tham cái danh, loạn luật pháp, hoàn toàn không hiểu đạo làm quan. Mặc cho điêu dân tố cáo hương thân, vô lý tước đoạt tài sản hợp pháp của người khác, làm dân gian có lời tựa như 'trồng ruộng không bằng đi kiện'.
Lại còn nói Hải Thụy "câu kết với giặc Oa", " vây hãm thành trì", " cướp kho chém quan" khiến cho "khói lửa không ngừng", đúng là thánh kinh của kẻ vu khống biến không thành có.
Nhưng hắn là tuần án Tô Tùng, tất nhiên có tiếng nói về hành vi của Hải Thụy, huống hồ hắn có thanh quan không tệ. Quan trọng hơn nữa, hắn tố cáo không phải hoàn toàn vô chứng cứ, ít nhất "Mặc cho điêu dân tố cáo hương thân, vô lý tước đoạt tài sản hợp pháp của người khác" có đầy đủ nhân chứng vật chứng...
Kỳ thực chứng cứ là do đám môn khách của Từ Anh bày ra... Trước tiên là sai điêu dân cáo trạng, tiếp đó để địa chủ cố ý bị đoạt tài sản, sau đó sai đi khóc lóc tố cáo, Đới Phượng Tường liền tin..
Vì sao? Hắn vốn khó chịu vì Hải Thụy tới Phượng Tường che hết hào quang của hắn, trong lòng đầy thiên kiến. Hiện giờ thấy họ Hải phán án tùy tiện, làm người vô tội tổn thất, Đới tuần án sao chẳng đàn hặc?
Uy lực của cáo trạng này quá lớn, ngay Cao Củng cũng nghi ngờ, vì gần đây tin đồn Hải Thụy hãm hại Từ các lão truyền khắp triều đình.
Trong lời đồn, Hải Thụy bị nói thành kẻ man mọi không biết biến báo, không hiểu chừng mực. Còn Từ Giai được miêu tả thành ông già gần đất xa trời, đáng thương khi từ bỏ quyền lực, quy ẩn điền biên bị hãm hại vô tình...
Càng làm Cao Củng uất ức hơn là tất cả đều cho rằng kỳ thực Hải Thụy chỉ là một thanh đao của họ Cao nào đó dùng chỉnh trị Từ Giai.
Ngay cả Long Khánh vốn không hỏi tới chính vụ cũng uyển chuyển nói với Cao Củng cống hiến năm xưa của Từ các lão, ý tứ rõ ràng, tha cho lão thủ phụ đi.
Cao Củng có miệng khó cãi, bị dồn ép hết sức bị động.
Đúng lúc đó tấu chương của Đới Phượng Tượng tới, Cao Củng sao dám bảo vệ Hải Thụy nữa? Đành nói, xem Hải Thụy tự biện hộ thế nào.
Mấy ngày sau, tấu chương của Hải Thụy đưa lên, vẫn đầy đấu chí đúng phong cách họ Hải:" Vi thần chỉ căn cứ quyền lực quan viên mà hoàng thượng ban cho để làm việc, căn bản không có gì sai. Chỉ càn có được ủng hộ, trong vòng một tháng, thần có thể làm cục diện triệt để thay đổi, nhưng hiện giờ sự chưa thành.. vi phần phụ quốc gia, Đới Phượng Tường khi quân, không thể dung thứ cả hai" xin hoàng đế đồng thời cách chức cả hắn lẫn Đới Phượng Tường.
Thấy Hải Thụy nhất định không nhận sai, đám ngự sự im lặng đã lâu rốt cuộc không kìm chế nổi nữa, bắt đầu nổ pháo, từ các góc độ luận chứng Hải Thụy tài hèn chí lớn, tính tình hẹp hỏi. Loại người này không thể đứng đầu một phương, nên cho tới Nam Kinh hưởng chức nhàn, không để làm hại cách tính nữa.
Ngự sử hai kinh hưởng ứng lẫn nhau, tấu sớ đàn hặc đổ xuống như tuyết, Hải Thụy đành theo thông lệ đình chức ngừng xử lý, việc trả ruộng bị đình trệ, đám đại hộ vốn đình trả ruộng cũng chuyển sang nghe ngóng, đợi ngày Hải Thụy bị rớt đài.
Bọn chúng ngông cuồng quát tháo tiểu dân dám cướp thức ăn trong miệng hổ:
- Họ Hải không chống nổi tới năm sau đâu, đợi hắn xéo rồi, sẽ khiến các ngươi phải trả cả vốn lẫn lãi.
Bách tính thất vọng tột độ, một số kẻ nhát gan bắt đầu cầu xin tha thứ, thậm chí hẹn bị cáo cùng tới quan phủ, hi vọng sửa lại điền khế.
Vương Tích Tước nổi giận mắng:
- Tưởng là trò đùa à, đừng mơ.
Rồi hầm hầm trở về hậu đường, thấy Hải Thụy vẫn đang vùi đầu chỉnh lý sổ sách đo đạc ruộng năm sau.
- Đại nhân thật trấn tĩnh.
Vương Tích Tước cười khổ:
- Nếu là hạ quan, dù cưỡng ép bản thân cũng không làm được chuyện cần tỉ mỉ như thế.
Hải Thụy không hề ngẩng đầu lên:
- Người đình chức, nhưng thời gian không nghỉ, đo đạc ruộng chỉ còn chưa tới 20 ngày, việc phải làm rất nhiều, không tranh thủ sao được, đừng nói thừa nữa, làm việc đi.
Vương Tích Tước ngồi xuống bàn, nhưng đúng như hắn nói, thật không sao làm việc được, đành hỏi:
- Đại nhân không lo triều đình cách chức ngài sao?
- Lo làm gì? Cái chức này vốn ở trên trời rơi xuống, mất cũng chẳng sao.
Hải Thụy đột nhiên thở dài:
- Nói không lo là giả, nhưng lo chúng ta quên ăn quên ngủ mấy tháng, cuối cùng cũng khoét được vào chỗ đột phá, nếu lúc này triều đình đổi tuần phủ, liệu chuyện có quay về như cũ, cùng một giuộc với đám đại hộ không?
- Không đâu.
Nói tới chuyện Bắc Kinh thì Vương Tích Tước nhạy ben hơn nhiều:
- Nếu nội các còn do ba vị Cao Thẩm Trương định đoạt, vậy cải cách tài thuế sẽ là một quốc sách, đo đạc ruộng đất là cơ sở của nó, dù khó khăn cũng phải đi tiếp... Dù có đổi tuần phủ cũng phải đi tiếp trên con đường của ngài, vì ngài đã lập nên một con đường tốt nhất.
- Ngươi nói thế làm ta có tự tin rồi.
Cùng với thời gian trôi đi, Hải Thụy càng tin tưởng vào Vương Tích Tước, người này phán đoán thời cuộc và nhân tâm hơn mình một bậc, cười nói:
- Vậy càng có lý do tranh thủ công tác, dù kết quả có tệ, coi như người trước trồng cây, người sau hưởng bóng mát...
Tử cấm thành Bắc Kinh, nội các.
Đối diện với tấu chương đàn hặc đổ xuống ùn ùn, Trương Cư Chính đề xuất, hay là nên điều Hải Thụy đi một thời gian, giảm bớt áp lực cho bản thân hắn.
Cao Củng trầm ngâm, ông ta cũng sắp không chống đỡ nổi nữa.. Đại nghiệp cải cách mới bắt đầu, mọi thứ còn đang hỗn loạn, cần các phương diện đoàn kết chặt chẽ, bất kỳ mẫu thuẫn nào cũng có thể ảnh hưởng tới cải cách.
Thực ra Trương Cư Chính đang đợi Cao Củng có ý thỏa hiệp mới đề xuất kiến nghị kia...
Dù sao hắn cũng là chưởng môn nhân hiện nhiệm của Từ đảng. Phải thừa nhận thủ đoạn đấu tranh chính trị của hắn ngày càng thuần thục, chọn thời cơ đúng lúc, vừa không khiến Cao Củng phản cảm, càng đổ thêm dầu vào lửa, để Cao Củng hạ quyết tâm. Xong việc còn có thể về khoe khoang, nhìn đi, đó đều là công lao của ta đấy...
Nếu như không có người kia, hắn khẳng định đã thành công. Tiếc là trên đời này không có nếu như...
Cao Củng trầm ngâm rất lâu mới nói:
- Ngươi viết thư hỏi ý kiến Giang Nam ra sao.
- Chuyện này.
Khóe miệng Trương Cư Chính giật giật, nghĩ ông không quên y đi được à, nhưng không dám lộ ra chút nào, vội đáp:
- Vâng.
- Thôi.
Cao Củng lại nói, Trương Cư Chính mừng thầm, đúng thế, y đang xuất chinh, ông cần gì làm chuyện thừa thãi.
- Để ta đích thân viết thư vậy.
Cao Củng nói tiếp.
Trương Cư Chính thiếu điều nổi điên, chửi thầm:" Ông nói liền một mạch thì đứt hơi chết à?"
~~~~o0o~~~~~~~
Thẩm Mặc nhận được thư của Cao Củng vào ngày 27 tháng 12, thực ra trước đó đã nhận được rất nhiều lời nhờ cậy từ đại hộ đông nam. Trong đó đại đa số không có xung đột trực tiếp với Hải Thụy, nhưng đại hộ quan hệ rối rắm. Bọn họ chỉ sợ làn sóng trả ruộng này lan ra khắp đông nam, đành liều viết thư cho Thẩm Mặc, xin y khuyên Hải Thụy, đừng làm chuyện quá cương.
Đau đầu hơn nữa, tới tết lại thu được thư của Từ Giai, dù quan hệ hai người bằng mặt không bằng lòng, nhưng đều là người có thân phận, nên bề ngoài biểu hiện phải có, vì thế trước tết viết cho Từ Giai một bức thư hỏi thăm đầy nhiệt tình, mang kèm với hàng chuẩn bị năm mới.
Từ Giai lần này bị Hải Thụy hành cho chết đi sống lại, vừa vặn trả lời thư tố khổ, nhưng không thể mở đề nói ngay, vi sư bị người ta ép đến thảm.
Trước tiên Từ Giai bày tỏ vui mừng, ta về 2 năm rồi, Chuyết Ngôn còn nhớ tới, lòng già rất an ủi, nhưng lại cảm thấy hổ thẹn? Vì sao, vì sau khi trở về, nhớ lại việc làm năm xưa, thật có chỗ không phải với ngươi, vi sư suy tính vì mình quá nhiều, nghĩ cho ngươi quá ít. Hiện giờ về rồi, kẻ nịnh bợ năm xưa đều tránh xa, hiện giờ bị người ta ức hiếp mà không tìm được ai bày tỏ.
Càng cảm nhận được thói đời bạc bẽo, ta càng thấy Chuyết Ngôn đáng quý, càng thấy hổ thẹn, hiện giờ tất cả những điều ta gặp phải coi là báo ứng, trong lòng mới dễ chịu hơn một chút.
- Vị sư tôn của ta đúng là biết có biết duỗi.
Đối tượng Thẩm Mặc nói là một nam tử trung niên mặc áo bông xanh, kiểu quan sự, không lên tiếng căn bản không nhìn ra sự bất phàm của ông ta:
- Từ Giai hiện tình cảnh khó khăn, không thể không hạ mình, xin đại nhân tha cho một đường sống. Nhưng thái độ lại còn uy hiếp đại nhân, nếu không đáp ứng sẽ nói ngài ám thị Hải Thụy, trả thù sư phụ.
Không ngờ là Dư Dần, mất tích đã hai năm.
Hai năm trước vì chuyện Hồ Tôn Hiến, Dư Dần cảm thấy không thể đối diện với Thẩm Minh Thần và Vương Dần nữa, sự nghiệp Thẩm Mặc ngày càng lớn, càng cần có người thay y làm những việc không thể lộ ra...
Mặc dù có Cẩm Y vệ, nhưng bọn họ là ưng khuyển của triều đình, chẳng ai biết tới ngày nào đó hoàng đế nổi hứng xào bài lại, thì quá bị động.
Cho nên thấy Thẩm Mặc ỷ lại vào Cẩm Y vệ, Dư Dần khuyên can nhiều lần, nói không phải thứ của mình, sẽ có lúc không thể dựa vào, nên kiến lực lực lượng ngầm của bản thân, ít nhất có thể bảo vệ mình dưới tình huống xấu nhất.
Thẩm Mặc do dự rất lâu, cuối cùng qua vụ án Hồ Tôn Hiến, đồng ý với kiến nghị này, là người đề xuất, Dư Dần tự gánh lấy trọng trách.
Làm người ta vui mừng là Thẩm Mặc âm thầm phát triển mười mấy năm, thực lực ẩn chứa quá mạnh, làm Dư Dần như hổ thêm cánh, vừa bắt tay đã có hơn trăm tinh anh cốt cán đầu quân...
Những người này đều là con cháu thị vệ cũ của Thẩm Mặc, tuyệt đối trung thành, nhiều năm trước được Thẩm Mặc an bài vào trấn phủ ti, do Chu Thập Tam trui rèn, ai cũng là cao thủ đặc vụ.
Để che giấu tai mắt người khác, Dư Dần đăng ký một tiêu cục tên Vĩnh Hòa, một có thể khoác lớp ngoài lên cho những phần tử nguy hiểm này. Hai, Dư Dần nhìn ra, công thương nghiệp phát triển, thúc đẩy hàng hóa qua lại giữa các thành phố, nghề bảo tiêu đã tới mùa xuân phồn thịnh. Vĩnh Hòa có thể nhờ trận gió đông này trải phân hiệu khắp toàn quốc mà không khiến quan phủ hoài nghi.
Lần này Dư Dần tới là áp tiêu một xe lễ vật Từ các lão gửi cho Thẩm Mặc, ông ta tận dụng cơ hội hiếm có này để gặp đông gia.
Nói ra từ lần gặp nhau ở Thông Châu, hai người không gặp lại nữa, tuy vẫn giữ liên hệ, nhưng lúc trùng phùng vẫn cảm xúc dào dạt.
- Không ngờ gặp nhau một lần lại khó khăn như thế.
Thẩm Mặc áy náy nói:
- Ngay cả cơ hội mời tiên sinh một bữa cơm cũng không có, tiên sinh đừng trách.
- Hiện giờ không biết có bao nhiêu cặp mắt nhìn vào đại nhân mà.
Dư Dần rất hiểu tình cảnh của Thẩm Mặc:
- Đông xưởng, lại cả mật thám của Sơn Tây bang, đại nhân nếu không cẩn thận mới làm thuộc hạ lo lắng.
- Đúng thế, chỗ nhìn có vẻ phong quang, luôn mang nguy hiểm vô hạn.
Thẩm Mặc vừa pha trà vừa nói:
- Tới ngay cả Cao các lão cũng trở nên cẩn thận rồi.
Dư Dần đã xem qua thư của Cao Củng, mặt lạnh tanh nói:
- Tâm tư cả vị thủ phụ này không hề thô hào như vẻ bề ngoài, ông ta muốn đại nhân ủng hộ quyết định thay Hải Thụy phải không?
Thẩm Mặc gật đầu:
- Bình thường thôi, làm thủ phụ có ai đơn giản? Chẳng qua lão Cao không thèm dùng mưu mô, nên mới thấy thô hào một chút. Giờ ông ta là tể tướng một nước, vai gánh trọng trách cải cách, không thể bất chấp tất cả như trước kia được nữa.
- Vậy ý đại nhân ra sao? Nếu đồng ý với Cao Củng, khó tránh khỏi làm người ta thất vọng.
- Tiên sinh tưởng rằng Cao Túc Khanh muốn thay đổi thật sao?
Thẩm Mặc cười lạnh:
- Cải cách là mộng tưởng cả đời của ông ta, việc Hải Thụy làm là điều ông ta luôn muốn làm, sao có thể vì chút trở lực mà ngừng lại?
- Đại nhân phán đoán quả nhiên nhạy bén, đây là điều thuộc hạ muốn bẩm báo.
Dư Dần nói rồi lấy từ trong ống tay áo ra một phong thư, nở nụ cười hiếm có.
Thẩm Mặc nhận lấy xem, đó là thư Hàn Ấp môn sinh của Cao Củng viết cho Thái Quốc Hi.
Thẩm Mặc có chút ấn tượng về người này, hắn là môn sinh của Từ Giai, năm xưa làm binh bị phó sứ Tô Tùng xảy ra xung đột với nhi tử của Từ Giai. Nghe nói quan thuyền của hắn gặp quan thuyền của huynh đệ Từ gia trên sông, không ai nhường ai, kết quả bị đám ác nô của Từ gia xông lên thuyền lột quan phục ném xuống sông, đánh bị thương tùy tùng rồi nghênh ngang bỏ đi.
Thái Quốc Hi bị sỉ nhục lớn, tất nhiên tới phủ Tùng Giang cáo trạng, nhưng Trung Trinh Cát khuyên nhẫn nhịn. Không chịu nổi, hắn cáo trạng lên cả tỉnh, thậm chí Bắc Kinh, nhưng không ai thụ lý.
Cuối cùng huynh đệ Từ gia tuyên bố, nếu còn dám tố cáo, sẽ triệt để lột quan phục của hắn, Thái Quốc Hi không chịu được nhục, từ quan bỏ đi... Nói ra đã 5 năm rồi.
" Sao Hàn Tiếp lại nhớ tới vị này?" Thẩm Mặc vừa suy nghĩ vừa lấy thư ra đọc, thì ra hai người họ là đồng hương, quan hệ không tệ.
Từ khi Cao Củng nắm quyền, Hàn Tiếp luôn mưu cầu phục xuất cho đồng hương, cuối cùng đã được toại nguyện, cho nên vội vàng viết thư khoe công. Trong thư nói, Cao Củng đồng ý cho hắn phục nguyên chức, còn nói sau khi Hải Thụy lùi xuống, chức tuần phủ nhất định thuộc về hắn.
Chương 854: Chung Kim- Cao Củng đã quyết thay Hải Thụy, thậm chí có người thay thế rồi.
Dư Dần phân tích:
- Làm thế có hai cái lợi, một là xoa dịu dư luận, hai là Hải Diêm Vương đi, Thái Đồ Tể lại tới, vận mệnh cha con họ Từ càng bi thảm hơn, ruộng đo vẫn đo... Kỳ thực còn có điều thứ ba, năm xưa Hải Thụy từng chửi mắng Cao Củng, với tính ông ta, sao có thể không không khúc mắc gì, cho nên thay người chẳng có gì lạ.
Nghe Dư Dần phân tích, Thẩm Mặc im lặng rất lâu mới lạnh lùng nói:
- Ta không đồng ý.
Để cơn giận lắng xuống, y mới nói tiếp:
- Hải Thụy là người ta chọn, không thể để ông ta muốn đổi là đổi, nếu không có tiền lệ này, sẽ mang tới hậu họa khôn cùng.
- Vâng.
Dư Dần liền không nói tới Cao Củng nữa, quay sang Hải Thụy:
- Nghe nói Hải đại nhân có câu danh ngôn là "kẻ giàu không phải người, là người thì không giàu", vừa mới tới Tô Châu đã ban bố pháp lệnh yêu cầu quan viên tiết kiệm, đại hộ cũng phải tiết kiệm, còn đóng cửa đổ trường thanh lâu. Hơn nữa cũng rất bất mãn với việc đổi trồng lúa sang bông dâu, có ý thay đổi... Nếu để hắn làm loạn kinh tế Tô Tùng thế nào cũng thụt lùi, đó là trái tim kinh tế toàn quốc.
- Sao ta không biết hắn là dao hai lưỡi chứ?
Thẩm Mặc cười méo xẹo:
- Đừng quên mục đích của chúng ta là gì.
- Chúng ta muốn ép đại hộ ra khỏi đất đai.
Là tâm phúc Thẩm Mặc tín nhiệm nhất, Dư Dần đương nhiên là biết...
Trong mắt Thẩm Mặc, Cao Củng và Trương Cư Chính thông qua kiềm chế thôn tính, giải quyết nguy cơ vương triều, là trị ngọn không trị gốc, hơn nữa phương pháp đả kích trực tiếp của bọn họ, sẽ khiến họ đứng về phía đối lập với cường hào địa chủ. Mà cường hào địa chủ là cơ sở thống trị đế quốc nghìn năm qua, dù hoàng đế có muốn xử bọn chúng cũng sẽ bị bọn chúng xử lại.
Nên phải thay đổi quan niệm của mọi người, khiến giai cấp địa chủ mau chóng rút khỏi đất đai, chuyển hóa thành giai cấp công thương thuần túy.
Vậy phải làm sao? Chính như Hải Thụy đang làm, khiến bọn chúng trả lại ruộng đất chiếm đoạt, đồng thời nạp thuế theo số mẫu đất, khiếm thôn tính đất đai không còn kiếm lợi được nữa.
Chuyện này nhìn khắp Đại Minh chỉ có Hải Cương Phong là làm được, vì thanh danh của hắn quá tốt, được công nhận là công chính vô tư, còn đám phú hào đại hộ lợi ích bị tổn hao kia, chỉ có thể bôi xấu hắn ở phương thức công tác, như thù người giàu, thô bạo v.. v.. v..
Mà những điều này sức sát thương với một quan viên mà nói rất hữu hạn, tất nhiên cần có người kiên trì chống lưng cho hắn.
Cho nên Thẩm Mặc cực kỳ kiên định đứng về phía hắn, viết cho Cao Củng một lá thư dài dốc hết ruột gan, nói rõ sư nghĩ của mình. Y còn viết một phong tấu sớ, lấy thân phận thượng cấp cũ, biện hộ cho Hải Thụy, tán thưởng hắn một phen:" Giữ chính nghĩa thiên hạ, sửa cái sai thế gian, tuy nguy hiểm chông gai, vẫn không quay đầu lại"
Ý tứ là một quan viên như vậy mà triều đình cũng không dưng sao? Đương nhiên Hải Thụy cũng có khiếm khuyết, sau này phải chú ý phương pháp công tác.
Đây gần như là lần đầu tiên Thẩm các lão công khai bài tỏ thái độ với sự kiện gây tranh luận, đám ngôn quan tức thì im thin thít, ngay cả báo chí đông nam chửi Hải Thụy thành kẻ ngu xuẩn, cũng giảm bớt thế công, bắt đầu dùng phương pháp tách bạch để bình luận vị tuần phủ đại nhân này.
Biết rõ thái độ của Thẩm Mặc, Cao Củng chỉ đành tiếp tục ủng hộ Hải Thụy, tức thì hướng gió nghịch chuyển, bóng mây bao phủ trên đầu Hải Thụy bị xua tan hết.
Thẩm Mặc hiểu rất rõ sự vô sỉ của hào tộc đông nam, bọn chúng công khai không hạ được Hải Cương Phong, sẽ dùng thủ đoạn ngầm. Vì thế lệnh Dư Dần lập tức tới Tùng Giang, ngầm bảo hộ Hải Thụy tránh thanh thần kiếm gãy trong âm mưu quỷ kế.
Được nội các ủng hộ, sau tết năm Long Khánh thứ tư, Hải Thụy thẳng tay triển khai hành động đo đạc ruộng đất... Đương nhiên đó là chuyện sau này.
Thời gian như thoi đưa, chớp mắt đã tới tháng hai năm Long Khánh thứ tư, thời tiết ấm dần, cỏ chuyển màu xanh, én bay về phía bắc, mọi người bỏ đi áo mùa đông dầy cộm. Thẩm Mặc không chú ý tới triều cục nữa, vì qua mùa đông, thế công phục Sóc đã triển khai.
Trong mấy tháng mùa đông, thế cục Hà Sóc phát sinh biên hóa cực lớn, đầu tiên là Nặc Nhan tuyên bố quy y Lạt Ma giáo, sau đó ba tên đệ đệ bị bắt của hắn cũng nối gọt, dẫn bộ của mình quy thuận Đại Minh. Trong 9 bộ, đã có 4 bộ quy phục, một cái bị đánh tan từ ban đầu, bốn bộ còn lại không dám vượt Hoàng Hà một bước, tránh nạn ở bình nguyên phía bắc.
Thẩm Mặc một mặt lệnh đám Đặc Nhan và Bái Tang giữ liên hệ với bộ lạc huynh đệ, truyền đạt ý chiêu nạp của Đại Minh, đồng thời không giảm bớt hành động quân sự, thời cơ vừa tới, Lý Thành Lương chờ đợi đã lâu, liền dẫn tinh nhuệ vượt sông Hoàng Hà, tìm địch quyết chiến.
Bản thân thành chủ tướng xuất kích, Thích Kế Mỹ lại phải ở lại thủ Sóc, Lý Thành Lương cảm thấy rất hài lòng, thề đánh một trận lập nên sự nghiệp, để thiên hạ biết đại danh của mình.
Vì lần xuất kích này, hắn dày công chuẩn bị cả một mùa đông, tiến hành huấn luyện nghiêm khắc thuộc hạ, cuối cùng chọn ra 5000 chàng trai, mỗi người đều thành thạo cung mã, gặp người Mông Cổ đấu một chọi một cũng không rơi xuống hạ phong, kết trận chiến đấu càng có ưu thế lớn. Huống hồ còn trang bị tam nhãn súng, thần khí của kỵ chiến.
Chỉ cần bằng vào 5000 thiết kỵ này, tới ngay cả vương đình Yêm Đáp, hắn cũng dám xông vào.
Đây là lần đầu tiên Lý Thành Lương một mình phụ trách một mặt công tác, cuối cùng có thể tận tình phát huy tài hoa quân sự của mình rồi.
Nhưng trên thảo nguyên mênh mông, không có bất kỳ tiếp viện nào, kỵ binh Mông Cổ nhiều hơn gấp bội có thể đánh tới bất kỳ lúc nào, muốn bảo tồn bản thân, tiêu diệt kẻ địch là chuyện khó khăn nhường nào.
Kỳ thực lúc mới đầu, Lý Thành Lương chẳng hề có mục tiêu rõ ràng, cơ bản chỉ là tìm địch quyết đấu, đột kích chiến, tao ngộ chiến, dũng thì dũng thật, nhưng cực khổ một chút.
Cũng có lẽ hắn là đại danh tướng sinh ra từ chiến tranh, là danh tướng trời ban, cho nên không để hắn bị tiêu diệt trong lần đầu của mình, mà tặng cho hắn một thắng lợi lớn....
Sau khi vượt qua Hoàng Hà, dọc đường bạ đâu đánh đấy, không ngờ lại vào được trung tâm Hà Sóc, gặp phải đại quân Mông Cổ hay tin quân Minh xâm nhập, đang vội vã di chuyển.
Để yểm hộ mấy vạn phụ nữ trẻ em rút lui, quân Mông Cổ đành liều mình nghênh chiến, kết quả bị một loạt đạn của Lý Thành Lương đánh rối loạn sau đó hung hãn xua quân xông vào, đánh quân Môn tơi bời hoa lá, bỏ chạy khắp nơi.
Trận này chém hơn nghìn thủ cấp, cổ vũ lớn sĩ khí quân Minh, cũng đem chút đấu chí tích lũy được qua mùa đông của quân Mông bóp nát, đánh cho quân Mông không có cả sức chống đỡ, tới khi Hoàng Thai Cát và Bố Ngạn Thai Cát tới cứu viện mới gượng lại được.
Người Mông cổ tập kế trọng binh, thề tiêu diệt kỵ binh xâm nhập. Thế nhưng lúc này Lý Thành Lương đã hoàn toàn quen với việc tác chiến thảo nguyên, đồng thời cũng nắm rõ địa hình thảo nguyên như lòng bàn tay, trong những cuộc chiến tiế theo, hắn dùng binh linh hoạt, liên tục tung ra những cú đấm mạnh, đánh cho người Mông Cổ choáng váng, khổ không sao kể siết...
Cao trào của thế công mùa xuân xuất hiện ở giai đoạn cuối cùng. Lý Thành Lương suất lĩnh bộ hạ hành quân thần tốc hơn 300 dặm, tránh thế trận phòng ngự của hai tên Thai Cát, liên tục công phá năm bộ lạc nấp ở Ô Lạp Đặc, sau đó âm thầm dọc theo Ân Sơn Đông Lộc đánh thẳng vào đại doanh Hoàng Thai Cát.
Mặc dù sau khi biết hậu phương bị tập kích, người Mông Cổ phái quá nửa nhân mã quay về cứu viện, nhưng vẫn có hơn 1 vạn 5 ngàn kỵ binh ở lại, để chặt đường về của Lý Thành Lương.
Trận này thực sự mới là quyết máu lửa, Lý Thành Lương suất lĩnh chưa tới 5000 kỵ binh, chạy gần 1000 dặm, đấu với chủ lực khỏe mạnh của Hoàng Thai Cát và Bố Ngạn Thai Cát.
- Cao Củng đã quyết thay Hải Thụy, thậm chí có người thay thế rồi.
Dư Dần phân tích:
- Làm thế có hai cái lợi, một là xoa dịu dư luận, hai là Hải Diêm Vương đi, Thái Đồ Tể lại tới, vận mệnh cha con họ Từ càng bi thảm hơn, ruộng đo vẫn đo... Kỳ thực còn có điều thứ ba, năm xưa Hải Thụy từng chửi mắng Cao Củng, với tính ông ta, sao có thể không không khúc mắc gì, cho nên thay người chẳng có gì lạ.
Nghe Dư Dần phân tích, Thẩm Mặc im lặng rất lâu mới lạnh lùng nói:
- Ta không đồng ý.
Để cơn giận lắng xuống, y mới nói tiếp:
- Hải Thụy là người ta chọn, không thể để ông ta muốn đổi là đổi, nếu không có tiền lệ này, sẽ mang tới hậu họa khôn cùng.
- Vâng.
Dư Dần liền không nói tới Cao Củng nữa, quay sang Hải Thụy:
- Nghe nói Hải đại nhân có câu danh ngôn là "kẻ giàu không phải người, là người thì không giàu", vừa mới tới Tô Châu đã ban bố pháp lệnh yêu cầu quan viên tiết kiệm, đại hộ cũng phải tiết kiệm, còn đóng cửa đổ trường thanh lâu. Hơn nữa cũng rất bất mãn với việc đổi trồng lúa sang bông dâu, có ý thay đổi... Nếu để hắn làm loạn kinh tế Tô Tùng thế nào cũng thụt lùi, đó là trái tim kinh tế toàn quốc.
- Sao ta không biết hắn là dao hai lưỡi chứ?
Thẩm Mặc cười méo xẹo:
- Đừng quên mục đích của chúng ta là gì.
- Chúng ta muốn ép đại hộ ra khỏi đất đai.
Là tâm phúc Thẩm Mặc tín nhiệm nhất, Dư Dần đương nhiên là biết...
Trong mắt Thẩm Mặc, Cao Củng và Trương Cư Chính thông qua kiềm chế thôn tính, giải quyết nguy cơ vương triều, là trị ngọn không trị gốc, hơn nữa phương pháp đả kích trực tiếp của bọn họ, sẽ khiến họ đứng về phía đối lập với cường hào địa chủ. Mà cường hào địa chủ là cơ sở thống trị đế quốc nghìn năm qua, dù hoàng đế có muốn xử bọn chúng cũng sẽ bị bọn chúng xử lại.
Nên phải thay đổi quan niệm của mọi người, khiến giai cấp địa chủ mau chóng rút khỏi đất đai, chuyển hóa thành giai cấp công thương thuần túy.
Vậy phải làm sao? Chính như Hải Thụy đang làm, khiến bọn chúng trả lại ruộng đất chiếm đoạt, đồng thời nạp thuế theo số mẫu đất, khiếm thôn tính đất đai không còn kiếm lợi được nữa.
Chuyện này nhìn khắp Đại Minh chỉ có Hải Cương Phong là làm được, vì thanh danh của hắn quá tốt, được công nhận là công chính vô tư, còn đám phú hào đại hộ lợi ích bị tổn hao kia, chỉ có thể bôi xấu hắn ở phương thức công tác, như thù người giàu, thô bạo v.. v.. v..
Mà những điều này sức sát thương với một quan viên mà nói rất hữu hạn, tất nhiên cần có người kiên trì chống lưng cho hắn.
Cho nên Thẩm Mặc cực kỳ kiên định đứng về phía hắn, viết cho Cao Củng một lá thư dài dốc hết ruột gan, nói rõ sư nghĩ của mình. Y còn viết một phong tấu sớ, lấy thân phận thượng cấp cũ, biện hộ cho Hải Thụy, tán thưởng hắn một phen:" Giữ chính nghĩa thiên hạ, sửa cái sai thế gian, tuy nguy hiểm chông gai, vẫn không quay đầu lại"
Ý tứ là một quan viên như vậy mà triều đình cũng không dưng sao? Đương nhiên Hải Thụy cũng có khiếm khuyết, sau này phải chú ý phương pháp công tác.
Đây gần như là lần đầu tiên Thẩm các lão công khai bài tỏ thái độ với sự kiện gây tranh luận, đám ngôn quan tức thì im thin thít, ngay cả báo chí đông nam chửi Hải Thụy thành kẻ ngu xuẩn, cũng giảm bớt thế công, bắt đầu dùng phương pháp tách bạch để bình luận vị tuần phủ đại nhân này.
Biết rõ thái độ của Thẩm Mặc, Cao Củng chỉ đành tiếp tục ủng hộ Hải Thụy, tức thì hướng gió nghịch chuyển, bóng mây bao phủ trên đầu Hải Thụy bị xua tan hết.
Thẩm Mặc hiểu rất rõ sự vô sỉ của hào tộc đông nam, bọn chúng công khai không hạ được Hải Cương Phong, sẽ dùng thủ đoạn ngầm. Vì thế lệnh Dư Dần lập tức tới Tùng Giang, ngầm bảo hộ Hải Thụy tránh thanh thần kiếm gãy trong âm mưu quỷ kế.
Được nội các ủng hộ, sau tết năm Long Khánh thứ tư, Hải Thụy thẳng tay triển khai hành động đo đạc ruộng đất... Đương nhiên đó là chuyện sau này.
Thời gian như thoi đưa, chớp mắt đã tới tháng hai năm Long Khánh thứ tư, thời tiết ấm dần, cỏ chuyển màu xanh, én bay về phía bắc, mọi người bỏ đi áo mùa đông dầy cộm. Thẩm Mặc không chú ý tới triều cục nữa, vì qua mùa đông, thế công phục Sóc đã triển khai.
Trong mấy tháng mùa đông, thế cục Hà Sóc phát sinh biên hóa cực lớn, đầu tiên là Nặc Nhan tuyên bố quy y Lạt Ma giáo, sau đó ba tên đệ đệ bị bắt của hắn cũng nối gọt, dẫn bộ của mình quy thuận Đại Minh. Trong 9 bộ, đã có 4 bộ quy phục, một cái bị đánh tan từ ban đầu, bốn bộ còn lại không dám vượt Hoàng Hà một bước, tránh nạn ở bình nguyên phía bắc.
Thẩm Mặc một mặt lệnh đám Đặc Nhan và Bái Tang giữ liên hệ với bộ lạc huynh đệ, truyền đạt ý chiêu nạp của Đại Minh, đồng thời không giảm bớt hành động quân sự, thời cơ vừa tới, Lý Thành Lương chờ đợi đã lâu, liền dẫn tinh nhuệ vượt sông Hoàng Hà, tìm địch quyết chiến.
Bản thân thành chủ tướng xuất kích, Thích Kế Mỹ lại phải ở lại thủ Sóc, Lý Thành Lương cảm thấy rất hài lòng, thề đánh một trận lập nên sự nghiệp, để thiên hạ biết đại danh của mình.
Vì lần xuất kích này, hắn dày công chuẩn bị cả một mùa đông, tiến hành huấn luyện nghiêm khắc thuộc hạ, cuối cùng chọn ra 5000 chàng trai, mỗi người đều thành thạo cung mã, gặp người Mông Cổ đấu một chọi một cũng không rơi xuống hạ phong, kết trận chiến đấu càng có ưu thế lớn. Huống hồ còn trang bị tam nhãn súng, thần khí của kỵ chiến.
Chỉ cần bằng vào 5000 thiết kỵ này, tới ngay cả vương đình Yêm Đáp, hắn cũng dám xông vào.
Đây là lần đầu tiên Lý Thành Lương một mình phụ trách một mặt công tác, cuối cùng có thể tận tình phát huy tài hoa quân sự của mình rồi.
Nhưng trên thảo nguyên mênh mông, không có bất kỳ tiếp viện nào, kỵ binh Mông Cổ nhiều hơn gấp bội có thể đánh tới bất kỳ lúc nào, muốn bảo tồn bản thân, tiêu diệt kẻ địch là chuyện khó khăn nhường nào.
Kỳ thực lúc mới đầu, Lý Thành Lương chẳng hề có mục tiêu rõ ràng, cơ bản chỉ là tìm địch quyết đấu, đột kích chiến, tao ngộ chiến, dũng thì dũng thật, nhưng cực khổ một chút.
Cũng có lẽ hắn là đại danh tướng sinh ra từ chiến tranh, là danh tướng trời ban, cho nên không để hắn bị tiêu diệt trong lần đầu của mình, mà tặng cho hắn một thắng lợi lớn....
Sau khi vượt qua Hoàng Hà, dọc đường bạ đâu đánh đấy, không ngờ lại vào được trung tâm Hà Sóc, gặp phải đại quân Mông Cổ hay tin quân Minh xâm nhập, đang vội vã di chuyển.
Để yểm hộ mấy vạn phụ nữ trẻ em rút lui, quân Mông Cổ đành liều mình nghênh chiến, kết quả bị một loạt đạn của Lý Thành Lương đánh rối loạn sau đó hung hãn xua quân xông vào, đánh quân Môn tơi bời hoa lá, bỏ chạy khắp nơi.
Trận này chém hơn nghìn thủ cấp, cổ vũ lớn sĩ khí quân Minh, cũng đem chút đấu chí tích lũy được qua mùa đông của quân Mông bóp nát, đánh cho quân Mông không có cả sức chống đỡ, tới khi Hoàng Thai Cát và Bố Ngạn Thai Cát tới cứu viện mới gượng lại được.
Người Mông cổ tập kế trọng binh, thề tiêu diệt kỵ binh xâm nhập. Thế nhưng lúc này Lý Thành Lương đã hoàn toàn quen với việc tác chiến thảo nguyên, đồng thời cũng nắm rõ địa hình thảo nguyên như lòng bàn tay, trong những cuộc chiến tiế theo, hắn dùng binh linh hoạt, liên tục tung ra những cú đấm mạnh, đánh cho người Mông Cổ choáng váng, khổ không sao kể siết...
Cao trào của thế công mùa xuân xuất hiện ở giai đoạn cuối cùng. Lý Thành Lương suất lĩnh bộ hạ hành quân thần tốc hơn 300 dặm, tránh thế trận phòng ngự của hai tên Thai Cát, liên tục công phá năm bộ lạc nấp ở Ô Lạp Đặc, sau đó âm thầm dọc theo Ân Sơn Đông Lộc đánh thẳng vào đại doanh Hoàng Thai Cát.
Mặc dù sau khi biết hậu phương bị tập kích, người Mông Cổ phái quá nửa nhân mã quay về cứu viện, nhưng vẫn có hơn 1 vạn 5 ngàn kỵ binh ở lại, để chặt đường về của Lý Thành Lương.
Trận này thực sự mới là quyết máu lửa, Lý Thành Lương suất lĩnh chưa tới 5000 kỵ binh, chạy gần 1000 dặm, đấu với chủ lực khỏe mạnh của Hoàng Thai Cát và Bố Ngạn Thai Cát.
Các tăng nhân dùng tri thức và nhân từ trừ bỏ sự đề phòng của người Mông, được bọn họ hoanh nghênh và yêu quý. Không ít nam nữ già trẻ thành tín đồ của bọn họ, mỗi sáng đều theo bọn họ tụng kinh, mỗi lần nghe lạt ma giảng kinh xong, trên mặt các tín đồ tràn ngập nụ cười thỏa mãn, điều này người thờ phụng Tát Mãn vĩnh viễn không có được.
Hơn nữa Tát Mãn giáo cũng không cấm tín đồ theo giáo phái khác, vì thế ngày càng có nhiều người quy y, thành tín đồ Cách Lỗ Phái.
Mặc dù người trẻ tuổi như Triết Hách và Biệt Hách vẫn không tin vào những lạt mã ngoại lai, nhưng cha mẹ trưởng bối của họ đều thành tín đồ, tựa hồ ngày lạt ma thay thế tát mãn, chỉ là chuyện sớm muộn....
Bên ngoài lại truyền tới tiếng tụng kinh cổ quái, Biệt Hách mỗi khi nghe những âm thanh này, lại nhớ tới dự ngôn của Bác Cát.. Khi ma quỷ dùng chú ngữ khống chế được nhân tâm, sẽ dâng họ cho ma vương.
Từ tình cảm mà nói, hắn ngả về tát mãn, dù sao từ nhỏ tai nghe mắt thấy khiến hắn tin vào thiên thần. Nhìn tình hình của bộ lạc, dự ngôn kia dần dần thành sự thực rồi, Biệt Hách hết sức lo lắng, nếu như tộc nhân thành tế phẩm của ma quỷ, mà mình không làm gì, chẳng phải thành đồng lõa của ma quỷ?
Vì thế trong một đêm hạ tuần tháng ba, hắn đấu tranh bên đống lửa, có nên nhận lời Tát Mãn Bát Cát, liều mình giúp họ không?
Trong đêm đó cũng có một người đang phải gian nan lựa chọn, đó là Chung Kim. Nói thế cũng không đúng, vì từ rất lâu viên minh châu của thảo nguyên đã rơi vào mâu thuẫn, chỉ là gần đây càng trở nên nghiêm trọng mà thôi.
Nguyên nhân là Tiêu Cần, sư phụ nàng, giáo chủ Bạch Liên giáo bí mật tới bộ lạc.
Khi Tiêu Cần lặng lẽ xuất hiện trong lều của nàng, Chung Kim giật mình, sợ hãi cúi đầu xuống:
- Sư phụ...
Tiêu Cần mặc trắng bệch, không chút màu máu nào, hắn nhìn Chung Kim rất lâu rồi hỏi:
- Nhiệm vụ của ngươi hoàn thành thế nào rồi...
Nói thực Chung Kim từ nhỏ sợ nam nhân gầy quắt này, dù từ nhỏ bái hắn làm thầy, nhưng tình cảm hai bên không sâu. Hơn nữa Chung Kim càng lớn càng hiểu rõ con người của hắn, càng sợ hãi việc hắn làm...
Hắn là ma quỷ, xảo trá như sói, hung ác như hổ.
Cho nên nếu không cần thiết nàng tránh hắn thật xa, nhưng thành Tế Nông bị phá, tộc nhân bị ép vào tuyệt cảnh, nàng đành tới Bản Thăng tìm hắn cầu cứu. Tiêu Cần nói được, nhưng phải giúp ta một việc...
Chung Kim hỏi nàng phải làm gì?
Tiêu Cần nói, Bạch Liên giáo đang lên kế hoạch ám sát, cần nàng giúp đỡ.
Chung Kim hỏi giết ai?
- Đại học sĩ, đốc sư cửu biên Thẩm Mặc Thẩm Giang Nam.
Nhắc tới cái tên này, mắt Tiêu Cần ánh lên vẻ độc ác.
Với Chung Kim mà nói, nàng vừa cùng tử chiến cùng quân Minh, tận mắt nhìn vô số tộc nhân chết thảm, nếu có cơ hội giết chết thống soái Đại Minh, nàng sẵn sàng bất kể mọi giá, dù có là sinh mạng bản thân.
Vì thế nàng đồng ý không chút do dự, Tiêu Cần bảo nàng về tộc, chủ động tới hầu hạ phụ thân.
Tiêu Cần nói:
- Với dung mạo của ngươi, chỉ cần ngươi muốn, có thể làm tất cả nam nhân mất lý trí; chỉ cần ngươi gặp được Thẩm Mặc, là có cơ hội mê hoặc y, dù không chiếm được trái tim y, cũng sẽ làm y mê mẩn, sau đó kiếm cơ hội, dùng kịch độc giết y.
Tiêu Cần cho nàng một cái nhẫn, chỉ cần xoay viên ngọc, sẽ có mũi gai độc bắn ra, chỉ cần nó đâm vào cơ thể là thần tiết cũng không cứu nổi.
Vì thế Chung Kim mang chiếc nhẫn đó cùng quyết tâm hi sinh, tới gặp phụ thân, đồng thời gặp được đốc sư Đại Minh.
Nhưng nàng phát hiện đó là thanh niên người Hán mà năm xưa mình gặp trong miếu sơn thần, người hán đó nụ cười ôn hòa, nói chuyện hóm hỉnh, phong độ tiêu sái, dù chỉ gặp một lần, nhưng để lại cho Chung Kim ấn tượng cực tốt, mặt dù chưa tới mức tương tư. Nhưng ảnh hưởng tới việc lựa chọn phu lang của nàng.
Từ năm nàng 14 tuổi, đội ngũ cầu thân tới nhà nàng có thể xếp một vòng quanh thành Tế Nông. Nhưng nàng luôn muốn tìm một phu tế giống người kia, được sống trong ánh mặt trời ấm áp kia, chứ không phải sống với dũng sĩ Mông Cổ thô lỗ.
Trong tình cảnh đó gặp lại Thẩm Mặc, sao chẳng khiến trái tím nàng bấn loạn, kế hoạch chuẩn bị trước vứt lên tận chín tầng trời...
Chung Kim phải lần nữa kiến thiết tâm lý, ý chí mới trở nên kiên định. Mặc dù vì sau gặp được phật âm ở Tác Nam Gia Thố, thiếu chút nữa ý chí tan vỡ, nhưng trong lòng nàng luôn giữ chút tỉnh táo, không bị hoàn toàn đánh tan tâm chí.
Nhưng đại kế ám sát không hề có tiến triển.
Cùng với thời gian trôi đi, quyết tâm của Chung Kim ngày càng dao động, chẳng phải là vì si tình hay bị tẩy não, mà vì cô gái xinh đẹp này có đầu óc tỉnh táo hơn đại đa số nam nhân...
Trước đó nàng sở dĩ đồng ý đi ám sát vì nghĩ phụ thân chết chắc, tộc nhân rơi vào tuyệt cảnh... Nhưng khi gặp lại phụ thân, chẳng những không bị ngược đãi, còn ở trong đình viện ấp ám, ăn mặc hoa lệ, cuộc sống sung sướng thì sát ý đã giảm đi ba phần.
Sau đó lại ngồi nghe phụ thân và Thẩm Mặc nói chuyện, biết rằng tộc nhân của mình không cần phải chết nữa, lại có thể tiếp tục chăn thả gia súc trên thảo nguyên, đương nhiên tiền đề là quy thuận Đại Minh.
Vì tộc nhân, Chum Kim không ám sát Thẩm Mặc.
Kỳ thực nàng đã quan sát, phát hiện phương án bảo an của y cực kỳ hoàn mỹ, mà mục tiêu lại là nhân vật tâm trí cực kỳ kiên định. Nàng không cho rằng có thể khiến đối phương mê đắm, đồng thời có thể hoàn thành nhất kích tất sát dưới tình huống hộ vệ theo sát như hình với bóng.
Vì kiểm chứng phán đoán của mình, nàng từng thử dùng mũi chân chạm vào y, mới phát hiện vừa giơ chân lên đã có hơn mười nòng súng chĩa vào. Nhìn những ánh mắt lạnh như băng đó, nàng tin, mình còn tiếp tục đá tới, bọn họ nhất định sẽ nổ súng.
Về tới bộ lạc, Chung Kim ném cho giáo đồ Bạch Liên giáo đang đợi tin tức một câu:
- Không có cơ hội.
Có điều nàng biết không thể như vậy là xong, vì sư phụ nàng là người không đạt được mục đích thề không thôi.
Mặc dù đã chuẩn bị sẵn tâm lý, nhưng khi Tiêu Cần xuất hiện trước mặt, Chung Kim vẫn cảm thấy sởn gai ốc, cố lấy tinh thần ứng phó:
- Sao sư phụ lại tới đây?
- Nhiệm vụ của ngươi ra sao rồi.
Tiêu Cần lạnh lùng nhìn nàng.
- Không phải đã sai người truyền tin rồi sao?
Chung Kim theo tiềm thức lùi lại:
- Đồ nhi không có cơ hội, thất bại rồi.
- Chưa bại lộ là chưa thất bại, chỉ cần y còn tin ngươi là sẽ có cơ hội.
- Nhưng...
Chung Kim ấp úng một lúc, cuối cùng hạ quyết tâm ngẩng đầu lên nhìn Tiêu Cần:
- Hiện giờ đồ nhi không thể làm việc này nữa.
Ánh mắt Tiêu Cần càng lạnh hơn.
- Nếu sư phụ đã tới, nhất định thấy thành bảo của người Hán dựng sát bên bộ lạc của đồ nhi, nếu có chút động tĩnh nào là xông vào chém giết ngay.
Chung Kim bi ai nói:
- Mà bộ lạc đã bị giải trừ vũ trang, nếu đồ nhi dám làm càn, bất kể có thành công hay không cũng mang lại họa diệt vong cho bộ lạc.
Nói rồi quỳ xuống, khuôn mặt xinh đẹp mang vẻ thản nhiên nói:
- Xin lỗi sư phụ, đồ nhi biết mình không có khí tiết, không để ý tới đại nghĩa, không phải là anh hùng. Nhưng đồ nhi là nữ nhân, trong lòng nữ nhân, bảo vệ gia đình vĩnh viễn là quan trọng nhất, bộ lạc là nhà của đồ nhi, đồ nhi không thể vì hành vi của mình, mang lại tai họa cho họ.
Chung Kim hạ thấp bản thân, không ngờ nhất thời làm Tiêu Cần cứng họng, trầm ngâm một lúc mới nói:
- Chẳng lẽ sống như tù nhân, đợi người Hán bố thí hay sao? Các ngươi vốn là dân tộc du mục, chăn thả trâu ngựa, giờ lại làm trâu ngựa cho người Hán. Kiêu ngạo của các ngươi đâu rồi, chẳng lẽ muốn sống ti tiện như thế này?
- Chỉ cần còn sống là còn hi vọng.
Chung Kim cười, khi nàng cười mặt như tỏa sáng:
- Đó là lời sư phụ dạy đồ nhi, đồ nhi luôn lấy người làm gương.
Khóe miệng Tiêu Cần co giật, đúng thế mình có tư cách gì nói cô ta? Bản Thăng mà mình thống trị không phải đang sống cuộc sống ti tiện sao? Nữ tử thảo nguyên thẳng tính, vĩnh viễn không học được cách khôn khéo của nữ nhi người Hán, mở miệng ra có thể khiến người ta tức chết.
- Khà khà, ngươi coi sư phụ là loại người nào?
Tiêu Cần đổi sang bộ mặt thân thiết:
- Sao ta có thể để tộc nhân của ngươi nguy hiểm.
- Đa tạ sư phụ thông cảm.
Chung Kim cười như đóa hoa sen nở, không lòe loẹt, nhưng thấm sâu vào lòng người. Làm động vật máu lạnh như Tiêu Cần bất giác giọng hòa hoãn hơn:
- Mau đứng lên đi, ngồi xuống rồi nói.
Chung Kim ngoan ngoãn gật đầu, cứ như cô gái vừa dám nói những lời chua cay kia không phải là nàng vậy.
- Nếu kế hoạch của ta có thể không làm ngươi lẫn tộc nhân bị liên lụy, ngươi có chịu đồng ý giúp sư phụ không?
Tiêu Cần mỉm cười nói:
- Kế hoạch thế nào?
Chung Kim không nhận lời ngay.
- Quỷ ranh.
Tiêu Cần muốn tỏ ra hòa ái, nhưng phát hiện mình cười còn khó coi hơn khóc, đành khôi phục vẻ lạnh lùng:
- Theo ta biết họ Thẩm sắp lên đường vào Sóc, cha ngươi và ba thúc thúc cửa ngươi chuẩn bị mời y tham gia nghi thức tế thánh tổ vào 28 tháng này.
- Đồ nhi không biết.
Chung Kim lắc đầu, nàng không biết Tiêu Cần lấy tin ở đâu ra, nhưng tám phần là sự thực.
- Ngươi sẽ mau chóng biết thôi.
Tiêu Cần thấy đắc ý, rồi chửi mình kém cỏi, nghiêm mặt nói:
- Theo thông lệ, chén rượu tế Thành Cát Tư Hãn sẽ do nữ tử thánh khiết nhất thảo nguyên dâng lên, chuyện này chắc chắn thuộc về ngươi.
Chung Kim im lặng, nàng không biết giáo chủ sư phụ lại có mưu ma chước quỷ gì.
- Ta chỉ có một yêu cầu, khi ngươi đi lên tế đài, trực tiếp quỳ xuống ở đó, không đợi tới trước mặt chủ tế ở đài ngũ sắc mới quỳ, ngay cả quốc sư Đại Kim ta đây, cũng không thấy cảnh tế tự, người Hán chắc chắn càng không nghi ngờ, ngươi đã yên tâm chưa?
Chung Kim thầm nghĩ:" Ta càng lo hơn thì có" liền hỏi thẳng:
- Đồ nhi muốn biết, sẽ xảy ra chuyện gì.
- Cát bụi sẽ trở về với cái bụt, từ nay thế giới thanh tịnh. Tế tướng Minh triều, một tế phẩm hoàn mỹ, Thành Cát Tư Hãn sẽ vinh dự vì các ngươi.
- Sao có thể làm được?
Chung Kim hỏi tới:
- Nếu cùng mưu, vậy dùng phương pháp gì phải nói cho đồ nhi chứ?
- Nói cho ngươi cũng được.
Tiêu Cần là kẻ thù vặt, ngay cả tiểu cô nương cũng không tha:
- Có điều chẳng may ngươi ngủ mơ tiết lộ thì không hay, nên không biết thì hơn.
- Thôi vậy...
Chung Kim cong cánh môi mọng ướt lên:
- Nếu người Hán truy cứu thì sao?
- Bạch Liên giáo lập tức sẽ tuyên bố chịu trách nhiệm.
Tiêu Cần hào khí ngút trời nói:
- Với Bạch Liên giáo mà nói, giết chết tể tướng Đại Minh là công tích ngàn đợi, tuyệt đối sẽ không phủ nhận.
- Vậy để đồ nhi suy nghĩ.
Chung Kim không thể không thừa nhận, yêu cầu của giáo chủ sư phụ rất khó cự tuyệt. Người ngoại tộc còn tích cực như thế, nàng là người Mông Cổ sao có thể không đồng ý.
- Vi sư nhắc ngươi một chút.
Tiêu Cần lạnh lùng nói:
- Ngươi sắp thành hôn với Đại Thành Thai Cát, không thể chỉ nghĩ cho nhà mẹ đẻ, thành Hô Hòa Hạo Đặc mới là ngôi nhà tương lai của ngươi.
Chung Kim nhướng mày lên, muốn nói gì nhưng thôi, khẽ gật đầu:
- Đồ nhi hiểu.
- Ừ, cho ngươi một ngày suy nghĩ, mai ta lại tới.
Đợi bóng dáng Tiêu Cần biến mất, Chung Kim như quả bong bóng xì hơi, ngồi ngây ra bên đống lửa... Sư phụ nàng vô sỉ hung tàn, nếu như nàng dám không đồng ý, hắn sẽ có thủ đoạn ép nàng phải chấp nhận.
Cả đêm trằn trọc mất ngủ, khi trời sáng Chung Kim đi ra khỏi lều thì chạm mặt Biệt Hách.
- Đại ca.
Chung Kim cười thỉnh an.
- Muội muội ngủ ngon chứ?
Biệt Hách cưng chiều cười với muội muội.
- Không ngon, đại ca cũng thế, mắt thâm xì kìa.
- Ồ, ha ha ha...
Biệt Hách chột dạ cười lảng đi:
- Muội đi đâu đấy?
- Đi thỉnh an a ba, a ma. Đại ca không đi sao?
Chung Kim bày ra bộ mặt:" Huynh biết còn hỏi?"
- Ta không đi.
Biệt Hách lắc đầu:
- Hôm nay bận rồi, muội đi đi.
Nói xong vội vã đi trước, tới chỗ ở của Tát Mãn Bác Cát.
Chung Kim biết đại ca trung thành tát mãn, chống đối đạt ma, nhưng đại ca xưa nay trầm ổn, nàng không lo lắm.
Chung Kim tới hãn trưởng, hỏi thị nữ biết a ba a ma đều đã dậy, liền vén rèm cửa đi vào.
Thấy nữ nhi, đôi phu thê vốn mặt mày âu sầu đều tươi cười, A Nhu gọi nữ nhi tới ngồi bên cạnh, vuốt mái tóc đen của con đầy quyến luyến.
Chung Kim cảm thấy không khí khác thường, hỏi:
- Có chuyện gì vậy ạ?
Hai phu thê nhìn nhau, vốn không muốn nói với nữ nhi sớm như thế, nhưng Chung Kim xưa nay rất hiểu chuyện, nên nói trước thì hơn, vì thế Nặc Nhan nói:
- Hôm qua thu được thư của ngoại công con, nói tháng sau sẽ phái người mang sính lễ tới, đón con về.
Chung Kim cúi đầu xuống không nói.
Thấy con buồn bã, A Nhu rất đau khổ, ôm lấy vai con, nói:
- A ma biết, a ba từng nhận lời để con tự tìm nam nhân. Nhưng hùng chủ như ngoại công con, sẽ không nghe nguyện vọng của một tiểu nữ đâu, người giống như hoàng đế người Hán, nói một là một.
- Đều tại a ba vô dụng, nếu Ngạc Nhĩ Đa Tư không chia rẽ chiến bại, làm sao thúc phụ đối đãi với ta như thế?
- A ba đừng nói thế.
Chung Kim không chú ý tới bản thân, an ủi phụ thân:
- Khi nguy nan cha thể hiện rất tốt, cha là đầu lĩnh xứng đáng nhất.
- Ta thật vô dụng, còn cần nữ nhi phải an ủi nữa.
Nặc Nhan xua tay:
- Không nói a ba nữa, Chung Kim, a ba không dám trở mặt với ngoại công con. Nhưng nếu con không muốn gả cho Đại Thành Thai Cát, a ba viết thư cho Thẩm các lão, xin các lão lấy danh nghĩa triều đình, ban hôn cho con.
Đem mâu thuẫn giữa hai bộ lạc chuyển thành mâu thuẫn giữa Yêm Đáp và Đại Minh, ai dám nói ông ta vô dụng?
- Ban cho ai?
Chung Kim hiểu ra vì sao trước kia phụ thân đột nhiên muốn gả cho Thẩm các lão, thì ra a ba sớm dự liệu tới mình trở về sẽ bị bức hôn.
Đối với tên Bả Hán Na Cát chỉ biết nói mồm, lại còn bị chiều hư, vừa nghĩ tới thành thê tử của hắn, phải hầu hạ hắn, phải nghe lời hắn, Chung Kim thấy buồn nôn, chỉ sợ mình không kiềm chế được, sẽ cho hắn một mũi tên.
- Con muốn gả cho ai?
Nặc Nhan hỏi lại.
Chung Kim hoang mang lắc đầu, nàng không có người trong lòng.
- Nếu chưa nghĩ kỹ cũng có cách trì hoãn.
Nặc Nhan dịu dàng nói:
- Sắp tới lễ tế xuân rồi, cha và mấy thúc thúc của con thương lượng, dù thế cục không thái bình, nhưng càng nên thành kính bái tế.
Rồi nhìn con cái, kiêu ngạo nói:
- Nếu con làm thánh nữ, không ai dám nói a ba lấy quyền làm việc riêng, như vậy có thể kéo dài một tháng, con có thể tận dụng thời gian này chọn phu tế.
- Làm khó a ba rồi, con nghe a ba hết.
- Được.
Nạp Nhan yêu chiều nhìn con:
- Đừng nói nữa, sữa trong bát lạnh rồi kìa.
- Vâng.
Chung Kim ngoan ngoãn cầm bát sữa lên nhấp một ngụm nhỏ, nhìn phu thân:
- A ba, con hỏi một câu được không?
- Con nói gì thế, có gì không hỏi được?
- Người Hán xâm chiếm nhà cửa của chúng ta, giết bao tộc nhân, chúng ta có nên báo thù không?
Chung Kim tựa như lẩm bẩm.
- Nhưng đa số thời gian là chúng ta cướp bóc chém giết người Hán.
Nặc Nhan chậm rãi nói:
- A Hưng đạt ma nói, thù hận là một cái bánh xe, nó khiến chém giết không ngừng... A ba vừa tới tuổi cầm được đao, bị a ba của a ba yêu cầu nhớ kỹ thù hận này. A ba của a ba nói, a ba của người cũng nói thế, người nói: Này con, hãy nhớ, thù này không phải chỉ là quá khứ, mà là hiện tại, là cả tương lai...
Đoạn gia sử này Chung Kim không lạ gì, tổ phủ Cổn Tất Lý Khắc khi còn trẻ, thủ lĩnh của Ngõa Lạt Bộ. Thái sư Mông Cổ Diệc Bất Lạt, nhân lúc gia gia của tổ phủ là Đạt Duyên Hãn vĩ đại tây chinh, thừa cơ phản bội, giết chết trưởng tử của Đạt Duyên Hãn là Ô Lỗ Tư.
Phản loạn quá bất ngờ, tất cả không kịp chuẩn bị, phụ thân của tổ phụ là Ba Nhĩ Tư đành thứa lúc bóng bỏ chạy, đi tìm phụ thân.
Khi đó Cổn Tất Lý và Yêm Đáp còn quá nhỏ, chỉ có thể ở lại chỗ cô cô, Diệc Bất Lạt điên cuồng muốn giết sạch người của gia tộc hoàng kim, phái người lùng sực tư tôn Đạt Duyên Hãn khắp nơi, vị cô cô kia hết cách, giao hai đứa bé cho hai người hầu bỏ trốn ngay trong đêm.