Hoàng thai cát chỉ mong có thế, hiện giờ có lão cáp truyên làm đám huynh đệ câm nín, tức thì phấn khích, điều binh khiển tướng, đồng thời phái tín sứ truyền lời.
Nhận được thông điệp cuối cùng của đối phương, Ba Đồ và Triết Hách tâm tình rất nặng nề, vì diều này có nghĩa là đối phương không sợ ném chuột vỡ đồ, có khả năng bất chấp tính mạng của Yêm Đáp.
Chung Kim lại rất ung dung:
- Đừng lo, quá nửa là chúng hư trương thanh thế thôi, nếu trong tay chúng ta là một hãn bình thường, bọn chúng có thể bất chấp, cùng lắm thay người khác là được. Nhưng trong tay chúng ta là Yêm Đáp hãn, quốc chủ Đại Kim, sinh tử của lão liên quan tồn vong cả quốc gia lớn, một khi lão ta chết ở đây, các bộ lạc sẽ tan rã, a không tin kẻ nào dám gánh trách nhiệm này.
Nhìn thấy đệ đệ và thị vệ trưởng sắc mặt dịu bớt, Chung Kim cười nhạt:
- Huống hồ chuyện tới nước này dù có giao Yêm Đáp ra, bọn chúng cũng không tha cho chúng ta, đành kiến trì tới cùng, cầm cự thêm phút nào, là có thêm một phần hi vọng.
- Chẳng lẽ còn có cứu binh sao?
Triết Hách cảm thấy khó tin.
- Trong tay chúng ta là Yêm Đáp hãn, dù Thổ Mặc Đặc bộ không nể mặt thì thế nào cũng có người cần lão ta.
Chung Kim mỉm cười:
- Đợi xem, có người tới cứu giá không...
Hiện thực tàn khốc làm nàng mau chóng trưởng thành, độc lập và bình tĩnh hơn xưa nhiều.
~~~~~~~~~~~~~~o0o~~~~~~~~~~~~~
Trời sắp sáng.
Dũng sĩ cả Thổ Mặc Đặc bộ đã mài sắc đao, cưỡi lên chiến mã, chuẩn bị tiêu diệt kẻ địch trong vòng vây.
Y Khắc cáp truân được đám con cháu xúm quanh xuất hiện trước trận, nheo mắt nhìn kẻ địch đối diện, thấy bọn họ kết trận, biết đối phương quyết tâm chống trả tới cùng...
Kỳ thực trò bắt con tin này, đối với phe giải cứu và phe bắt cóc đều là một một cuộc so kè tâm trí, ai ngoan cố tới cùng sẽ chiếm thượng phong. Y Khắc cáp truân mặc dù bề ngoài tỏ ra cứng rắn, nhưng dù sao đó là trượng phu của bà ta...
Vị lão cáp truân đã phò tá hai vị đại hãn này biết rõ giá trị tồn tại của Yêm Đáp hãn, không tới lúc vạn bất đắc dĩ, sẽ bất chấp mọi giá cứu lão ta về...
Nhưng Hoàng thai cái thực lòng muốn Yêm Đáp chết, thấy bà mãi không hạ lệnh, liền tới giục:
- Mặt trời sắp lên rồi, có làm theo kế hoạch không?
- Ngươi mong cha ngươi chết vậy sao?
Y Khắc cáp truân mỉa mai:
- Nếu lão ta chết, ngươi không chống đỡ nổi gia nghiệp này, sẽ mất nhiều hơn.
- Con không có ý đó...
Hoàng thai cát lòng nổi giận:" Bà nói tấn công đấy chứ, sao giờ thành ta sai rồi?
- Các ngươi đừng có khoái trí.
Y Khắc cáp truân trừng mắt với Bính Thỏ thai cát đang cười trộm:
- Trước tiên đánh thử xem, nếu bọn chúng hạ quyết tâm thật rồi, thì dùng ba đứa các ngươi đổi lại đại hãn.
Ba huynh đệ Hoàng thai cát cuống lên:
- Làm thế sao được...
- Dùng cái óc lợn của các ngươi mà nghĩ đi.
Y khắc cáp truân hừ lạnh:
- Chỉ có phụ thân các ngươi mới có thể thống soái được mười vạn thiết kỵ Đại Kim, cón mười vạn thiết kỵ này, không ai dám làm gì các ngươi hết, tới khi đó uy hiếp cũng được, đàm phán cũng được, thế nào cũng có thể đổi các ngươi về. Nếu như đổi thành các ngươi nắm quyền Đại Kim sẽ chia năm xẻ bảy, đánh giết lẫn nhau, cuối cùng bị người Hán tiêu diệt.
- Vậy cũng không cần cả ba cùng đi.
Ba tên làu bàu:
- Kẻ nào muốn đi một mình càng tốt.
Lời này làm ba tên quẫn bạch, chẳng kẻ nào tin huynh đệ mình, càng không muốn một mình mạo hiểm.
Người Thổ Mặc Đặc phát động đánh nghi binh, bị vệ đội của Chung Kim ngoan cười kháng cự, lại không dám kích thích đối phương quá độ, kết quả bỏ lại mấy chục cỗ thi thể rồi quay về.
Y Khắc cáp truân và mấy tên thai cát quan chiến biết đối phương sẽ không khuất phục, phải quyết định, bất chấp tính mạng của Yêm Đáp diệt bọn họ, hay là dùng người chuộc Yêm Đáp về... Hoặc để bọn họ mang Yêm Đáp đi.
Ba cách này đều có lợi riêng hại riêng, chỉ xem bọn chúng lựa chọn ra sao thôi.
- Nếu như người ta chịu đổi lấy ta, lão thái bà này sẽ không làm khó các ngươi.
Y Khắc cáp truân giọng mềm xuống:
- Rốt cuộc là vứt bỏ gia nghiệp lới, hay bảo vệ bản thân, huynh đệ các ngươi tự quyết đi.
Ba tên thai cát không nói, từ khi bà ta đề xuất kiến nghị kia, bọn chúng luôn suy nghĩ có nên mạo hiểm không? Bất ngờ là, đáp án rất rõ, bọn chúng không muốn mạo hiểm sinh mạng, đổi lấy thống nhất quốc gia...
Vương quốc phụ hãn gây dựng quá hư ảo, bộ lạc của bản thân mới là gốc rễ, so với một cái chẳng biết có mạng mà hượng thụ không, chẳng bằng giữ chặt cái thực tế mà sống.
Thấy bọn chúng im lặng, lão cáp truân biết trượng phu của mình bị nhi tử vứt bỏ rồi... Nhớ tới nam nhân chiếm lĩnh cuộc đời mình gần 60 năm, lòng bà như dao cắt, hỏi một câu phí lời:
- Sao không nói gì?
- A ma, nếu thả chúng về nam, bọn chúng sẽ giao bọn con cho người Hán.
Bính Thỏ thai cát nói như muỗi kêu:
- Bọn con tay nhuốm đầy máu người Hán, chắc chắn bọn chúng băm bọn con làm vạn mảnh.
- Đúng thế Đại cáp truân.
Lúc này ba tên thai cát nhất trí cao độ:
- Huống hồ phụ hãn trọng thương, sống chết chưa rõ, chẳng may đổi lại, phụ hoãn không cầm cự được, chẳng phải đã mất phu nhân lại thiệt quân.
- Rắm chó.
Y Khắc cáp truân tức giận chửi:
- Một lũ tham sống sợ chết, mau kết thúc tất cả đi, nhưng quân đội hãn đình sẽ nhớ, kẻ nào đẩy đại hãn của họ vào đường cùng.
Lực lượng chủ yếu của Thổ Mặc Đặc bộ do Yêm Đáp và mấy tên thai cát chia nhau ra thống lĩnh, nhưng là một hùng chủ dục vọng quyền lực cực lớn, quân đội đích thân Yêm Đáp nắm giữ vượt quá nửa, sức chiến đấu cực mạnh.
Trong mắt ba huynh đệ, nữ nhân này không thể nói lý được, làm thế chẳng phải bắt chúng đi nạp mạng sao? Nhưng Yêm Đáp không có mặt, quân đội hãn đình nghe Y Khắc cáp truân chỉ huy, cho nên bà ta có tư cách uy hiếp chúng.
Đang lúc đấu tranh thì thời gian đã tới chính ngọ, hai đạo quân tình khẩn cấp làm bốn mẹ con phải lập tức quyết định...
Trước tiên Mã Phương suất lĩnh đại quân ép tới Hô Hòa Hạo Đặc, trong thành trống rống, nếu không quay về cứu viện sẽ bị người ta xới tung ổ.
Tiếp đó thám cáo cho hay ngoài hai mươi dặm có một đội kỵ binh tới gần, lần này không thể do dự nữa, phải chiến đấu rồi.
Y Khắc cáp truân lệnh hai vạn kỵ binh nghênh chiến, một vạn còn lại tấn công một nghìn tên phản đồ...
Chiến đấu mở màn, vệ đội của Chung Kim tuy nhân số ít, nhưng vũ khí hoàn mỹ, lại chiếm cứ gò núi, khiến người Thổ Mặc Đặc phải xuống ngựa tấn công...
Quan trọng hơn trong tay họ có vương bài Yêm Đáp, chỗ nào chiến sự chăng thẳng, sắp bị công phá là khiêng Yêm Đáp tới, đảm bảo thế công chùng xuống.
Bất kể là quân đội hãn đình hay quân đội của đám thai cát đều không muốn mang tội danh hại chết đại hãn, ném chuột sợ vỡ đồ như thế tất nhiên trói chân buộc tay, đánh nửa canh giờ chỉ có thanh thế hùng hổ, chẳng có kết quả gì.
Người Thổ Mặc Đặc có kẻ đánh ấm ức như táo báo, cũng có kẻ đánh thống khoái như tiêu chảy...
Có câu người có tên như cây có bóng, Lý Thành Lương bảy lần chiến thắng, đánh cho mấy tên thai cát rút sợ, thấy cờ của hắn, là như thấy Mã gia quân, vừa ra trận đã mất ba phần nhuệ khí.
Bộ đội Lý Thành Lương càng đánh càng mạnh, chiến thuật, sẽ khí đều đạt tới đỉnh cao, bắn một loạt đạn là làm phòng tuyến người Mông Cổ thủng cả mảng, sau đó đại quân thuận thế xông vao, thế như chẻ tre, chớp mắt đã đánh qua phòng tuyến của hai vạn quân Mông Cổ, bất chấp sau lưng xông lên ngọn đồi đang huyết chiến.
Khí thế một đi không trở lại của quân Minh, làm Y Khắc cáp truân nhớ tới Yêm Đáp khi còn trẻ, nay anh hùng xế bóng, thanh lão già háo sắc tới mê muội, còn người Hán như mặt trời đang lên, thời đại của người Mông Cổ qua rồi...
Không biết gió cát hay là thương tâm quá độ, chỉ thấy đôi mắt mờ đục biến thành hai suối nước.
Lý Thành Lương xông vào như tia chớp, cứu lấy vệ đội Chung Kim còn chưa đầy 200 người, may mắn là nhân vật trọng yếu không chết một ai, còn người Thổ Mặc Đặc lo cho an nguy của Hô Hòa Hạo Đặc, lại lo quân Minh có viện binh, không dám đánh, vứt bỏ đại hãn của chúng, rút quân.
Lý Thành Lương đưa Chung Kim và Yêm Đáp rút lui, nửa đường gặp được Thích Kế Mỹ tiếp ứng, liền giao người cho hắn, bản thân muốn dân quân biến mất.
Thích Kế Mỹ giữ lại:
- Ngươi đi lấy Thác Khắc Thác à?
- Sao? Ngươi có ý kiến à?
Có lẽ do trung niên mới được thỏa chí, Lý Thành Lương khát công lao tới độ làm đồng liêu khó chịu.
- Không ý kiến.
Thích Kế Mỹ cười:
- Có điều không cần đi đâu.
- Cái gì?
Lý Thành Lương trừng mắt.
- Biết đây là ai không?
Thích Kế Mỹ chỉ một nam tử Mông Cổ bên cạnh.
- Ai?
- Đạt Vân Kháp, hay còn gọi là Thoát Thoát.
Làm Lý Thành Lương tức tối, Thích Kế Mỹ khoái lắm:
- Biết Thác Khắc Thác nghĩ là gì chứ? Tức là "Thoát Thoát chi thành"...
- Chẳng lẽ Thác Khắc Thác hàng rồi?
Dù có chuẩn bị tâm lý, nhưng Lý Thành Lương vẫn chấn kinh.
- Không sai, nếu không đại quân của ngươi quá cảnh, sao hắn không kháng cự, cũng không báo tin.
- Kỳ thực tiểu nhân đang chuẩn bị dâng thành cho Lý tướng quân.
Đạt Vân Kháp cung kính nói:
- Ai ngờ tốc độ của ngài quá nhanh, chúng tôi chưa chuẩn bị xong ngài đã vượt qua rồi.
Thấy công lao lớn bị Thích Kế Mỹ nhặt không côn, Lý Thành Lương tất nhiên không vui vẻ gì, mặt biến đổi một hồi rồi cười lớn:
- Ha ha ha, ai bảo ta muốn tới Thác Khắc Thác, ta có có quyền quyết đoán tại chỗ, đi về phía tây, đi, ha ha ha, các con, chúng ta đi càn quét.
Rồi dẫn đám kiêu binh hô hào kéo đi.
Lình theo đội quân của Lý Thành Lương, Thích Kế Mỹ nhổ phì một cái:
- Đánh trận có tốt mà không giữ quân kỷ cũng là tai họa.
Thích gia quân coi trọng quân kỷ nhất, hắn đương nhiên ngứa mắt với cái thói thổ phỉ của Lý Thành Lương.
Thích Kế Mỹ hộ tống Chung Kim, đưa Yêm Đáp tới Thác Khắc Thác, nơi đó là thành trì của quân Minh rồi...
Mặc dù là nghĩa tử của Yêm Đáp, nhưng Đạt Vân Kháp có nhận thức tỉnh táo về thực lực của quân Minh, nên hắn ngầm tính toán, nhân cơ hội tham gia xuân tế, thăm dò thái độ của triều Minh.
Kết quả bị khí độ và trí tuệ của Thẩm Mặc làm hắn dao động, tiếp đó nhân cơ hội một tháng đợi Chung Kim xuất giá, hắn và Thẩm Mặc qua lại mật thiết, nhận lễ còn quý trọng hơn cả sính lễ Yêm Đáp tặng Chung Kim, đồng thời được lời hứa hẹn hấp dẫn, trong lòng sớm có ý quy thuận.
Khi đó lo lắng duy nhất là bộ tộc ở bờ bắc, một khi vọng động, khó tránh khỏi tai họa. Vì thế Đạt Vân Kháp sau khi đón Chung Kim về giao cho Bả Hán xong, liền lấy cớ sức khỏe không tốt, không tham gia hôn lễ, về Thác Khắc Thác, bí mật triệu tập tâm phúc thương lượng.
Tộc nhân xảy ra tranh cãi đúng như dự kiến, Đạt Vân Kháp đang nghĩ có định dùng vũ lực cưỡng ép hay không thì tin tức Yêm Đáp bị bắt truyền tới, gần như cùng lúc quân Minh dùng tốc độ như chớp vượt Hoàng Hà, áp lực mạnh mẽ từ hai phía làm đám trung thành với Yêm Đáp phải câm nín, Đạt Vân Kháp hạ lệnh dâng thành...
Đúng như lời hắn nói, vì Lý Thành Lương đi quá nhanh, muốn ngăn không kịp, làm Thích Kế Mỹ theo sau được cái công này.
Thích Kế Mỹ mừng rỡ, một mặt phái người báo huynh trưởng, một mặt bảo Đạt Vân Kháp theo mình tăng viện.
Thích Kế Quang xưa nay thủ thì vững như núi, đánh thì nhanh như gió, đích thân dẫn quân tiếp quản thành, khi Thích Kế Mỹ quay về, thấy cờ Đại Minh bay trên thành rồi.
Thích Kế Quang nhìn thấy vị kiêu hùng một thời thoi thóp trên xe, không khỏi sinh thương xót, nhân vật như thế này phải chiến tử sa trường chứ không phải bị bắt như thế...
Lắc đầu vứt bỏ tình cảm không phù hợp, lệnh đại phu bất chấp mọi giá cứu ông ta, rồi báo hỉ cho Vương Sùng Cố.
Chung Kim luôn ở bên cạnh bàng quang, nghe thấy đối phương nói báo hỉ cho Vương Sùng Cố mà không phải Thẩm Mặc, không kìm được hỏi:
- Sư phụ ta đâu?
- Thẩm các lão đã rời nhiệm rồi.
Thích Kế Quang thu lại nụ cười, nói nhỏ:
- Lệnh bản soái sau này nghe Vương tốc đốc chỉ huy.
- Rời nhiệm... Là sao?
Chung Kim tái mặt, hỏi gấp:
- Chẳng lẽ sư phụ xảy ra chuyện gì?
- Không phải, chỉ là có trọng trách khác mà thôi.
- Y đang ở đâu?
- Chắc là vừa rời Đông Thắng...
Thích Kế Quang chưa nói hết, Chung Kim tung mình lên ngựa phóng đi.
Nhìn bóng lưng tuyệt trần của nàng, Thích Kế Quang lắc đầu, lại thở dài. Làm người bên cạnh lấy làm lạ, sao gần đây đại soái đa sầu đa cảm như thế? Thì thấy hắn lạnh mặt lại lệnh:
- Toàn quân chuẩn bị vượt sông, quay về Đông Thắng.
- Hả?
Thích Kế Mỹ kinh ngạc, trên đường hắn còn khoe khoang với Đạt Vân Kháp, nói có bọn ta giúp ngươi thủ thành, sau này Thác Khắc Thác sẽ vững như bàn thạch, sao chưa đánh đã rút rồi?
Nhưng Đạt Vân Kháp không tiện mở miệng, vì thế Thích Kế Mỹ hỏi:
- Đại soái, vì sao không kiên thủ?
- Thác Khăc Thác trơ trọi ở bờ bắc, cách trở với trong Sóc, một khi bị bao vây sẽ thành cô thành, quá nguy hiểm.
- Nhưng thủ thành là sở trường của chúng ta, công thành là sờ đoản của người Mông Cổ mà.
Thích Kế Mỹ kiên trì.
- Phải tùy tình hình, nơi này thành trì cao không quá một trượng, nhiều năm không tu sửa, không dựa vào tường thành được. Còn người Mông Cổ muốn có lợi thế trao đổi với chúng ta sẽ lấy trọng binh bao vây Thác Khắc Thác, không những nguy hiểm thất trận, còn làm chính sách tương lai sẽ bị động..
- Nhưng...
Thích Kế Quang phất tay không thảo luận nữa:
- Không hiểu cũng phải chấp hành.
Thích Kế Mỹ ủ rũ lùi ra, nhưng bị gọi lại:
- Phải rồi, sao không thấy Lý Thành Lương?
- Mạt tướng đang định nói, hắn chê không đã, mang người đi đánh Cốc Thảo rồi.
- Hoang đường.
Thích Kế Quang biến sắc:
- Hắn đi về phía nào, mau phái người gọi lại.
- Hắn nói đi về hướng tây.
Thích Kế Mỹ ý thức được tầm nghiêm trọng, cau mày nói:
- Có điều thật hay giả rất khó nói.
- Lập tức phái du kỵ đuổi theo.
Thích Kế Quang nổi giận:
- Nói với hắn, nếu vì hắn mà phá hỏng đại kế triều đình, lập bao công cũng không bù được.
- Vâng.
Thích Kế Mỹ lập tức đi chấp hành, Thích Kế Quang nhìn Đạt Vân Kháp, trầm giọng nói:
- Ngẩn ra làm gì, mau tổ chức tộc nhân của ngươi vượt sông?
- Nhưng làm sao giải thích cho bọn họ.
- Muốn đi thì đi, muốn ở thì ở, cầu nổi chỉ để tới trưa hôm sau, qua giờ là phá, nghĩ tới lửa giận của Thổ Mặc Đặc bộ, đi đâu tự quyết đi.
- Ài...
Đạt Vân Kháp cay đắng gật đầu, thói đời này thật khó sống.
~~~~~~~~~~~~~~~
Sau khi được tin Yêm Đáp bị bắt, Vương Sùng Cố lập tức lệnh văn võ bá quan thương nhân thợ thuyền cùng bộ lạc quy thuận, vào hết Phục Sóc bảo, tạm thời trốn trong tường thành. Hạn năm ngày phải rút hết, vượt thời gian, quan viên chủ quản cách chức, các bộ lạc nghiêm trừng... Các hiệp nghị ký với quan phủ hủy bỏ.
Mấy chục vạn bách tính Mông Cổ liền đem gia súc, tài sản theo hai đường thủy lộ rút về phía nam...
Kỳ thực Vương Sùng Cố quá lo, hiểu người Mông Cổ nhất là chính họ, những người quy thuận biếta Đại Kim ắt sẽ phát động báo thù thảm liệt nhất, chuyện này liên quan tới ổn định chính quyền, đám nhi tử của Yêm Đáp chắc chắn đồng tâm hiệp lực, bảo vệ uy nghiêm hãn đình.
Cho nên vừa nghe thấy Yêm Đáp bị bắt, Nặc Nhan Đạt Lạp và Bái Tang liền tích cực chuẩn bị nam di, không ai dám ở lại...
Vương Sùng Cố không chỉ là nhà quân sự còn là một chính trị gia, chỉ là không có chiến trường cho ông ta phát huy, giờ mới có cơ hội tự đảm đương, cuối cùng đã có cơ hội dụng võ...
Khi Vương Sùng Cố hạ một loạt mệnh lệnh, tướng sĩ dưới quyền không phục... Từ lúc nhập Sóc tới nay, thắng trận liên tiếp làm họ không để người Mông Cổ vào mắt nữa, giờ lại bắt được Yêm Đáp, đáng lẽ phải san bằng Hô Hòa Hạo Đặc.
Nhưng Vương Sùng Cố phụ trách quân nhu biết bên mình không có năng lực vượt sông xuất kích, hơn nữa người Mông Cổ mang binh phục hận tới, phải dùng phương pháp vườn không nhà trống, mới có thể giảm tổn thất xuống thấp nhất.
Cùng lúc đó Vương Sùng Cố dẫn 1 vạn kỵ binh tăng viện cho Đông Thắng, ra vẻ quyết chiến bảo vệ Hà Sóc. Nhưng ngầm ra lệnh, bất kể người Mông Cổ khiêu chiến ra sao cũng không được tự ý ra đánh.. Chuẩn bị giằng co lâu dài.
Cục thế phát triển chứng minh quyết sách của ông ta là chính xác, Mã Phương sao phá nổi tường cao hào sâu của Hồ Hòa Hạo Đặc, huống hồ đó chỉ là nghi binh.
Theo lệnh Thẩm Mặc, mục đích của ông ta là tới mỗi thôn của Bản Thăng đọc lệnh sá miễn, cho phép bọn họ di cư tới Hà Sóc cư ngụ, bất kể nông dân, mục dân hay thương nhân đều có ưu đãi.
Đọc lệnh xong, Mã Phương đốt thông, ép hàng dân về phía nam, sáu ngày Mã Phương hủy 30 thôn, cưỡng ép di dời 4 vạn hàng dân.
Hành động của ông ta có được sự thuận lợi như thế vì hung danh của Mã Phương quá lớn, một mặt khác là người Mông Cổ chẳng còn để ý tới ông ta được nữa... Thổ Mặc Đặc bộ, Ngột Thận bộ, Ngột Lương Cáp bộ, mười mấy bộ lạc lớn nhỏ đã xuất binh tới Hà Sóc...
Dưới tư tưởng chỉ đạo chỉ cần bắt được nhân vật đủ lớn làm tù binh, hoặc đủ số lượng, là có thể trao đổi với quân Minh, bọn chúng bao vây thành Đông Thắng, không ngừng ở dưới thành khiêu chiến, nhưng Vương Sùng Cố trấn áp quân Sóc, quyết không ra mặt.
Thấy quân Minh rụt đầu vào mai, hơn nữa cái mai rùa này đúng là làm người ta phải sợ... Hao phí tám tháng, nơi này thành một công sự phòng ngự chắc chắn, làm người Mông Cổ nhìn đã không muốn đánh.
Mấy tên Thai cát đành phái quân đi càn quét, nhưng phát hiện thảo nguyên Ngạc Nhĩ Đa Tư đã không còn ai nữa. Người Mông Cổ xuất chinh chỉ mang lương khô cho mười mấy ngày, tiếp tế dựa vào cướp bóc, giờ không có người để cướp, cứ thế vây thành mười mấy ngày hết lương, đảnh rút về...
Thấy người Mông Cổ rút binh đúng như dự liệu, Vương Sùng Cố không vui nổi, vì ông ta biết đối phương tuyệt đối không chịu thôi, tám phần là đi đánh Tuyên Đại, Tuyên Phủ, Đại Đồng.
Từ Tuyên Phủ tới Đại Đồng là vùng biên giới trải dài, không thể chỗ nào cũng vững như tường đồng vách sắt, một khi bị người Mông Cổ tìm được sơ hở vượt qua vào nội địa tàn phá, thậm chí tới kinh thành...
Lúc đó đám thanh lưu ngôn quan đầu óc đầy "tôn nghiêm Đại Minh không thể xâm phạm" sẽ ép triều đình giết Yêm Đáp.
Nếu thế Hán Mông sẽ không thể đội trời chung, đi ngược chính sách Thẩm các lão đề ra.
Người Mông Cổ cực kỳ coi trọng ân oán, đám nhi tử của Yêm Đáp đời này sẽ phải báo thù, đời này không báo được thù, con cháu tiếp tục phải báo, Hán Mông sẽ chiến tranh mãi mãi.
Nhưng Vương Sùng Cố không thể quyết định sống chết của Yêm Đáp, ông ta cơm nước nuốt không trôi, đột nhiên nhớ tới mười mấy năm trước có một người hoàn cảnh tương tự mình.
Đó là Hồ Tôn Hiến, năm xưa Hồ đại soái giam lỏng Vương Trực, nhưng bị đám đầu óc ngoan cố muốn áp giải lên kinh, lấy đầu Vương Trực tế thái miếu.
Nếu thế, giặc Oa sẽ hoàn toàn mất đi ước thúc, càng thêm điên cuồng, càng thêm phân tán, càng thêm khó tiêu diệt, cuối cùng Vương Trực được Mao Hải Phong cứu thoát.
Vương Sùng Cố lúc ấy làm tri phủ Tùng Giang, dám khẳng định Hồ Tôn Hiến ngầm thả người, nhưng ông ta biết đó là lựa chọn tốt nhất với Đại Minh, với đông nam, cho nên im lặng biểu đạt ủng hộ Hồ Tôn Hiến.
Hiện giờ khảo nghiệm tương tự đến với minh, liệu có nên học theo, ngầm thả Yêm Đáp không? Hiển nhiên không thể, vì mức độ nguy hại hai kẻ này khác nhau hoàn toàn, mình sẽ thành tội nhân dân tộc. Nhưng nếu giết Yêm Đáp, thế cục cửu biên không lạc quan.
Nhưng ông ta may mắn hơn Hồ Tôn Hiến nhiều, vì triều chính đang nắm trong tay những chính trị gia trác tuyệt. Tiếp đó Vương Sùng Cố nhận được báo cáo, Cao Củng triệu tập nội các, mau chóng thống nhất tinh thần, không được giết, không được thả Yêm Đáp, mà cung phụng ông ta sống vinh hoa phú quý.
Khi nhận được tin, Vương Sùng Cố phấn chấn, ông ta biết mình sắp thành nhân vật lịch sử rồi. Thế là ông ta phái sứ giả tới đàm phán với người Mông, người này phải tinh thông tiếng Mông, giỏi tùy cơ ứng biến, đủ khí thế trấn áp người Mông.
Có điều Vương Sùng Cố không lo, vì Thẩm Mặc để lại cho ông ta chuyên gia đàm phán tốt nhất -- Bảo Sùng Đức.
Nhận được mệnh lệnh của tổng đốc, Bảo Sùng Đức dẫn tiểu đội thân binh xuất phát, vừa vượt qua Hoàng Hà là rơi vào tay người Mông, nếu không nói rõ thân phận, e rằng bị coi là gián điệp cho bay đầu rồi.
Biết hắn là sứ giả mang tới tình hình của Yêm Đáp, người Mông Cổ không dám chậm trễ đưa tới Hồ Hòa Hạo Đặc, đón nhận lễ "hoan nghênh" đằng đằng sát khí của mấy tên Thai cát.
- Ngươi không biết ta đã hạ lệnh phàm người Hán nhập cảnh sẽ moi tim không?
Hoàng thai cát dọa dẫm:
- Ta biết.
Bảo Sùng Đức ung dung trả lời trước uy hiếp tử vong.
- Vậy ngươi có biết cái nồi đun sôi kia là chuẩn bị cho ngươi không?
Hoàng thai cát càng tỏ ra hung dữ.
- Ta biết.
Bảo Sùng Đức bình thản:
- Vậy sao ngươi còn dám tới.
- Nếu ta mà không tới, cha ngươi đã chẳng còn mạng.
Là nhân vật được Thẩm Mặc coi trọng, Bảo tham quân tất nhiên có chỗ hơn người, đặc điểm lớn nhất của ông ta là bình tĩnh...
Bảo Sùng Đức biết, dù Hoàng thai cát bày rõ thái độ tuyệt không đàm phán, nhưng chỉ là hư trương thanh thế mà thôi, tuy Yêm Đáp chết hắn có thể kế vị, nhưng hắn tuyệt đối không dám bỏ mặc sống chết của Yêm Đáp.
Bởi vì hãn đình còn 5 vạn tinh binh tuyệt đối không trung thành với kẻ kế thừa chỉ mong đại hãn chết, cần phải làm Y Khắc cáp truân hài lòng, hắn mới chính đáng kế nghiệp được...
Nhưng hiện giờ ở hai mặt đông tây, quân Minh đều có danh tướng tọa trấn, hắn không có bản lĩnh dẫn quân đi ép quân Minh nghe lời. Cho nên nghe nói triều đình phái sứ giả tới, hắn như trút được gánh nặng, nhưng không thể chuyển biến quá nhanh, vẫn buông lời dọa nạt, thể hiện cứng rắn của mình.
Đáng tiếc, Bảo huynh thủ biên cương bao năm, lại lăn lộn kinh thành, nếu luận âm mưu thủ đoạn, Hoàng thái cát chẳng xứng xách giày cho hắn.
Thấy đối phương chẳng e sợ, Hoàng thai cát thuận thế đổi sắc mặt:
- Vậy phụ hãn hiện nay ra sao?
- Rất tốt, chúng tôi an bài cho ông ấy chỗ ở tốt nhất, tìm đại phu tốt nhất xem bệnh cho ông ấy, ngươi không cần lo. Có điều ông ấy bị thương nặng, lại đi đường xa, phải tĩnh dưỡng chừng một năm mới hồi phục.
- Bao giờ các ngươi mới thả phụ hãn của ta về?
Hoàng thai cát hỏi ra vấn đề làm hắn rối rắm không thôi.
- Thả? Thế nào cũng phải vài chục năm, Yêm Đáp xâm lược biên quân, quấy nhiễu Trung Nguyên, phạm tội ác tày trời với bách tính Đại Minh.
Bảo Sùng Đức thản nhiên nói:
- Triều đình coi ông ta là tội phạm số một, ai ai cũng được giết.
- Nếu các ngươi dám động tới một sợi tóc của phụ hãn, ta nhất định tắm máu Hà Sóc, Tuyên Đại để báo thù.
Hoàng thai cat đùng đùng nổi giận nói.
- Thai cát nói lời vô nghĩa này làm gì? Nếu muốn làm loạn cứ giết ta đi, sau đó nam hạ xem thai cát đánh nổi Mã vương gia hay Thích đại soái.
Đây mới là điều quan trọng, cho dù Yêm Đáp cũng chưa chắc thắng, Hoàng thai cát chỉ có nước chịu đòn... Trên chiến trường không đánh nổi người ta thì làm sao mà vênh mặt lên được?
- Chẳng lẽ ngươi tới đây để chế nhạo ta?
Hắn hầm hừ nói:
- Muốn chết cũng không cần dùng cách này.
- Bản quan đương nhiên không phải tới nạp mạng.
Bảo Sùng Đức lúc này mới nghiêm mặt nói:
- Ta tới đây là vì thai cát.
- Vì ta?
Hoàng thai cát nheo mắt:
- Lại có mưu đồ gì, ta sẽ không thương lượng.
- Bản quan chỉ hỏi một câu, thai cát muốn làm tù trưởng một bộ lạc, hay là làm vương toàn Mông Cổ?
- Điều này còn cần phải nói sao? Nam nhân không có hùng tâm thì như nữ nhân không có vú vậy.
- Ha ha ha, nói hay lắm.
Bảo Sùng Đức vỗ tay:
- Vậy thai cát thử nghĩ xem, nếu sự thế phát triển như hiện nay, thai cát có khả năng thực hiện hùng tâm không?
Hoàng thai cát im lặng, nếu hắn không báo thù, hoặc không đón Yêm Đáp về thì không được các bộ lạc đi theo, đám huynh đệ không nể mặt mình. Dù sau này có tự xưng cô xưng quả, cũng chỉ thành trò cười.
- Một khi các vị chia rẽ, mạnh ai nấy đánh.
Thấy hắn không nói, Bảo Sùng Đức tiếp tục:
- Đại Minh ta sẽ đánh diệt từng người, tin rằng đám Lý Thành Lương, Mã Phương rất vui vẻ chấp hành nhiệm vụ này.
- Ngươi làm ta hồ đồ rồi, rốt cuộc ngươi đứng về bên nào?
- Ta đã nói tới đây vì thai cát, đương nhiên tất cả nghĩ cho thai cát.
-...
Hoàng thai cát trừng mắt lên:
- Đừng vòng vo nữa, người Hán các ngươi làm người ta bực mình, có gì nói thẳng đi.
- Được, ta tới chỉ cho thai cát một con đường sáng.
- Như thế nào?
- Xin lui tả hữu đi đã.
Bảo Sùng Đức tỏ ra thần bí.
Hoàng thai cát phẩy tay đuổi những người còn lại đi:
- Giờ đã nói được chưa?
Bảo Sùng Đức hạ thấp giọng xuống:
- Không ngại tiết lộ cho thai cát, phụ thân ngài sẽ tới kinh thành thường trú vài năm, Hán Mông ngày nào chưa hòa bình, ông ta sẽ không thể về. Còn tương lai có hòa bình hay không, thì phải xem ý thai cát.
- Ngươi nói thế nghĩa là gì?
Xung quanh không có ai, Hoàng thai cát không vờ vịt nữa.
- Theo ngu kiến của tại hạ, một Yêm Đáp hãn còn sống lại không ở thảo nguyên là có lợi với thai cát nhất.
Bảo Sùng Đức giải thích:
- Mông Cổ coi trọng võ công nhất, huyết thống chỉ xếp hàng thứ hai, thai cát hi vọng thành đại hãn như phụ thân mình, thì cần có võ công như thế. Nhưng thế thời thay đổi, phụ thân thai cát năm xưa bốn bề là địch, phải chinh đông phạt tây mới có cục diện này nay. Nhưng giờ cục diện của thai cát nhìn thì tốt hơn, thực tế khó hơn vạn phần, Đại Minh quân lực ngày một mạnh, không dễ khinh nhục nữa, thảo nguyên lại thiên tai không dứt, bộ dân thiếu ăn thiếu mặc. Nhìn xung quanh, hoặc là thế lực huynh đệ của thai cát, hoặc là Ngột Lương Cáp, đều không đụng vào được, thai cát tiến thoái lưỡng nan, dựa vào võ lực không thể phá vỡ cục diện.
Những lời này đúng là nói vào tận đáy lòng hắn rồi, Hoàng thai cát gật gù, tơi ngay phụ hãn đã không trụ nổi, mấy lượt xin triều cống, mình võ dũng chẳng bằng một nửa phụ hãn, làm sao duy trì được?
Thấy đã đủ lửa, Bảo Sùng Đức đủng đỉnh nói:
- Hiện giờ trời ban cho thai cát một con đường mới ngay trước mắt.
- Đường mới thế nào?
- Các vị không phải muốn triều cống sao, giờ là một cơ hội, đại nhân nhà ta thuộc phái hòa bình hiếm có, nếu các vị muốn, có thể xin triều đình phong Yêm Đáp hãn thành Đại Minh Thuận Nghĩa Vương, chỉ cần các vị thần phục trước...
Giơ tay lên ngăn Hoàng thai cát lại, Bảo Sùng Đức nói:
- Ta biết, điều này mất thể diện, nhưng tất cả vì phụ hãn của ngài, nếu không triều đình xử tử phụ hãn ngài, mấy huynh đệ ngài không đồng ý, tức là hại chết phụ hãn. Ít nhất Y Khắc cáp truân sẽ ủng hộ ngài, có 5 vạn đại quân trong tay bà ấy, đám huynh đệ kia lại không thần phục thai cát hay sao?
Hoàng thai cát mặt âm trầm:
- Ngươi muốn ta thành đại hãn Mông Cổ đầu tiên bị uy hiếp?
- Tất cả đều có cái giá của nó, chỉ cần đáng, ngại gì chút thanh danh?
Hoàng thai cát cắn răng hỏi:
- Vậy triều đình cho ta được cái gì?
- Phụ hãn.. À không phụ vương ngài sống ở Bắc Kinh, vậy quyền triều cống sẽ là của ngài, ngoài ra triều đình sẽ cấp ngài ấn tín quan phục làm thổ ti duy nhất của Thổ Mặc Đặc, đồng thời cũng có quyền triều công, mỗi năm ân thưởng ngang phụ vương của ngài.
Hoàng thai cát suy nghĩ hồi lâu mới nói:
- Ta yêu cầu triều đình mở biên, lập mã thị...
Sau khi triều cống, kinh thành sẽ ở chợ thông thương, nhưng quy mô hữu hạn, với hơn trăm vạn người Mông Cổ, chẳng khác gì muối bỏ biển, nên mở biên cảnh, cho người Mông Cổ tự do thông thương, mới là phương pháp thực sự giải quyết khó khăn của họ.
- Chuyện này...
Bảo Sùng Đức trầm ngâm.
- Chỉ cần triều đình thông thương.
Hoàng thai cát vội tăng thêm vốn:
- Ta không chỉ ước thúc các bộ không quấy nhiễu đại minh, còn chinh phạt bộ lạc không thần phục, đảm bảo Đại Minh không phải lo về họa biên cương.
Nhìn thấy Hoàng thai cát nóng lòng như thế, Bảo Sùng Đức mỉm cười, Vương Sùng Cố đã bắt đúng mạch của người Mông Cổ rồi
Trong thư gửi cho nội các, Vương Sùng Cố nói, Yêm đáp bị bắt, Đại Minh ta chiếm ưu thế tâm lý hoàn toàn, lúc này đề xuất thông thương sẽ không bị ai cho là nhục quốc thể nữa, cần sớm quyết đoán, tránh lỡ thời cơ tốt.
Vì thế Vương Sùng Cố phái Bảo Sùng Đức tới đạt thành hiệp nghị với Hoàng thái cát, do hắn và Y Khắc cáp truân cùng ký tên dâng thư, biểu thị thần phục triều đình...
Đối với mấy vị thai cát và Y Khắc cáp truân mà nói, đây chẳng phải chuyện khó gì, dù Yêm Đáp lập quốc xưng vương, nhưng chẳng ai vì thế không thừa nhận hãn đình cả Sát Cáp Nhĩ.
Nếu như bọn họ đã thừa nhận Sát Cáp Nhĩ là Đại khả hãn, vậy thừa nhận Đại Minh cũng chẳng có vấn đề gì, chẳng qua đổi tên chủ nhân, mặc dò không được thoải mái lắm, nhưng với cái lợi thông thương, thế là đáng rồi.
Dù sao người Mông không coi trọng thể diện như người Hán.
Sau đó Vương Sùng Cố phụ trách xin cáo phong cho cả nhà họ, hai bên triển khai đàm phán thông thương. Đồng thời ước định tam biên không đước dấy binh đao, có người bên nào gây hấn, cả hai bên cùng giết.
Đánh trận có lợi gì chứ? Cướp bóc lợi cho bộ hạ chứ không phải đầu lĩnh; thất bại thì đầu lĩnh chịu nguy hiểm chứ không phải bộ hạ. Vậy sao phải mạo hiểm tranh thủ cái có lợi không liên quan tới mình? Quy cho cùng tất cả chủ trương chỉ vì bản thân.
Triều Minh còn cho phép bọn họ phái đại biểu tới thăm Yêm Đáp sau khi đàm phán thành công, có thể phái người hầu hạ.
Vì thể hiện thành ý, bên phía Mông Cổ đem đáp yêu nghiệt Tiêu Cần tới Đại Minh, thậm chí hủy Bản Thăng, đuổi người Hán về phía nam. Với điều cuối cùng, Vương Sùng Cố biểu thị không cần thiết.
Y Khắc cáp truân cực hận Tiêu Cần dụ hoặc Yêm Đáp có mưu đồ bất lương với tôn tức, cho nên mới gặp cái họa vô vọng này, nên đem hết đám cốt cán của Bạch Liên giáo trói lại rồi, tặng cho triều Minh chỉ là thuận tay.
Có điều trong mắt triều Minh, đây lại là thắng lợi trọng đại, lập tức đưa bọn chúng tới Bắc Kinh, Long khanh đích thân tế thiên, lăng trì xử tử, cuối cùng đem đầu tới cửu biên.
Hiện Mông Cổ đã xưng thần, Hán gian cũng đã giao nộp, đây là điều trăm năm chưa có, đủ biểu thị thành ý, đáng lý chuyện rất thuận lợi, triều Minh không nên làm khó bọn họ nữa.
Nhưng việc triều cống khó khăn không phải ở bên Mông Cổ mà ở triều đình, khi Vương Sùng Cố định lợi dụng Yêm Đáp tiêu trừ đao binh thì đám thanh quan trong triều cho rằng, triều công là biểu hiện của đớn hèn, thông thương càng không đúng.
Bọn chúng còn nhớ chuyện Cừu Loan mở mã thị, bọn chúng muốn làm Dương Kế Thịnh, kiên quyết phản đối chủ nghĩa đều hàng hữu khuynh này, bọn chúng nhắc tới Thế tông cuối cùng đóng cửa mã thị.
Thế nhưng bọn chúng quên hiện giờ không còn là thời Thế tông nữa, Cao Củng không phải Nghiêm Tung, Vương Sùng Cố không phải cửu loan...
Cao Củng không tiện tỏ thái độ, lần này đứng ra là Trương Cư Chính, vị đại học sĩ này thực sự kích động rồi, viết thư cho Vương Sùng Cố biểu thị cực lực tán thành chính sách của ông ta.
Khi đó Thẩm Mặc đã rời nhiệm, trách nhiệm tiền tuyến đặt hết lên người Vương Sùng Cố, khi đám ngôn quan nhao nhao phản đối, làm ông ta khó xử, nhưng Trương Cư Chính đại biểu nội các ủng hộ, làm ông ta đứng vững trước đám ngôn quan.
Ở phương diện nội các Cao Củng, Trương Cư Chính, Trương Tứ Duy đều biểu thị tán đồng, Cao Nghi không phản đối.
Nhưng trong triều lại ầm ĩ đòi giết Yêm Đáp, số này không ít, thậm chí đàn hặc Vương Sùng Cố bán nước, yêu cầu bắt ông ta về trừng trị.
Lại Trương Cư Chính đại biểu nội các tỏ thái độ:
" kim chi nghị giả giai vị giảng hòa nhuyễn nhược, mã thị khởi hấn, vi thử ngôn giả, bất duy bất trung, cái diệc bất trí thậm hĩ phu sở vị hòa giả, vị lưỡng địch tương giác, trí sửu lực quân, tự độ vị túc dĩ thắng chi, cố bất đắc dĩ nhi cầu hòa, như hán chi hòa thân, tống chi hiến nạp, thị chế hòa giả, tại di địch nhi bất tại trung quốc, cố cổ nghị dĩ vi đảo huyền, khấu công bất khẳng chủ nghị. Kim tắc bỉ xưng thần nạp khoản, hiệu thuận khất phong, chế hòa giả tại trung quốc nhi bất tại di địch, bỉ chi hán, tống chi sự, vạn vạn bất mâu, độc khả vị chi thông cống, nhi bất khả vị chi giảng hòa dã"
Ý tứ là, thời Hán Tống bị người ta ép cho cùng đường nên mới phải cầu hòa, nhưng chúng ta là phe thắng lợi, đối phương xưng thần, mong công nạp, sao có thể gọi là cầu hòa.
***
Đoạn trên nguyên văn trong sử, không dịch.
Trương Cư Chính phản kích rất mạnh mẽ, bác bỏ hết lời của phe phản đối, nhưng cái Hoa Hạ này xưa nay chẳng phải là chỗ nói đạo lý, ngươi có nói đúng đên đâu người ta cũng không nghe vào tai, bọn chúng nhất định giữ quan điểm, đối đầu với ngươi.
Cuối cùng Cao Củng ra mặt nói, chúng ta đình nghị vậy.
Đình nghị là chế độ quyết sách đặc sắc, do các quan lớn, công khanh, một phần ngự sự tham gia, dưới sự chủ trì của hoàng đế, mọi người đưa ra ý kiến của minh, tổng kết lại, bên nào nhiều hơn thì làm theo.
Đương nhiên hoàng đế có thể tự quyết, nhưng sẽ tổn thương trái tim các đại thần... Hậu quả làm tổn thương các đại thần Đại Minh thì mọi người biết rồi đấy.
Loại phương pháp mang sắc thái dân chủ này vốn không được tiên đế thích, nhất là chuyện Đại lễ nghị làm Gia Tĩnh khốn khổ, cho nên từ khi nắm đại quyền, ông ta không cử hành đình nghị. Hiện giờ Cao Củng đề xuất định nghị, tất nhiên là hưng phấn...
Hai bên tin chắc mình sẽ thắng nên không cãi nhau nữa, mà tranh thủ thời gian liên lạc đồng liêu, hi vọng áp đảo đối phương.
Vì thế ba ngày sau phát sinh sự kiện "biểu quyết triều cống" ghi vào lịch sử, tổng cộng tham dự có 44 người, mọi người lần lượt phát ngôn, sau đó viết thành điều trần, trình cho hoàng đế.
Vì tránh gây thị phi, Long Khánh lệnh tuyên đọc kết quả trước mặt mọi người: Có 22 người cho rằng triều cống, thông thương là có thể chấp nhận; 17 người không đồng ý; 5 người đồng ý triều cống không đồng ý thông thương.
Dùng thuật ngữ hậu thế là thông qua đa số phiếu... Tức là tính mạng Yêm Đáp được bảo đảm, triều cống chấp nhận, nhưng thông thương thì không.
22 - 22 thông thương bế tắc rồi.
Cuối cùng phải nghe thánh ý thôi, Long Khánh dở khóc dở cười, các ngươi chơi trò gì thế? Đủn đi đủn lại, cuối cùng vẫn do ta gánh trách nhiệm này?
Đành thương lượng với mấy vị đại học sĩ, Cao Củng là kẻ sách động sau màn, Trương Cư Chính là nhân vật chính trên sân khấu, Trương Tứ Duy hoạt động khắp nơi kiếm phiếu.
Bị mấy người này giựt giây, Long Khánh ngự bút phê:" Chuyện này trọng đại, biên thần rõ nhất, giờ biên thần nói làm, các khanh nói cũng có lý, vậy thì làm đi, tốn kém thêm chút có là gì?”
Đương nhiên không đơn giản như thế, song khó khăn trong đó không cần nói kỹ nữa, có điều dưới nội các hiệu suất cao khóa này, thông thượng chuyện nghị luận cả năm cần một tháng là xong...
Triều đình phong Yêm Đáp làm Thuận Nghĩa vương, ban chỗ ở tại Bắc Kinh, Y Khắc cáp truân phong Thuận Nghĩa phu nhân, Hô Hòa Hạo Đặc đổi thành "thành Quy Hóa", Hoàng thai cát và con cháu, đầu lĩnh Ngột Thận Bộ đều được phong chức... Tổng công 61 người.
Từ đó trở đi bọn họ thành tướng quân và quý tộc Đại Minh thiết kỵ Mông Cổ không đạp lên ruộng đồng của Đại Minh nữa, đao thương họ không còn nhuốm máu người dân Hoa Hạ nữa...
Nhưng người khởi xướng tất cả lại âm thầm nam hạ, không hề phát ra bất kỳ lời nào trong cuộc đại biện luận kia.
Thời gian quay lại lúc Yêm Đáp bị bắt làm tù binh, có lẽ ông trời đã định sẵn, Thẩm Mặc nhận được thánh chỉ nam hạ...
Vì triều đình tập trung lực lượng ở phương bắc nên loạn tây nam càng lúc càng dữ dội, Vi Ngân Báo công chiếm Quế Lâm làm đô thành, giết tuần phủ Quảng Tây, xâm lược Quảng Đông, thanh thế chấn động triều đình.
Đương nhiên tây nam loạn đến đâu cũng không cần thứ phụ đích thân làm đề đốc, nhưng vì y giả thần giả quỷ khi bái thánh lăng, có quan hệ mờ ám với thiếu nữ quý tộc Mông Cổ... Chết người nhất là y quỳ lạy Thành Cát Tư Hãn, đụng chạm tới thần kinh đám theo chủ nghĩa Đại Hán, bị chúng đẩy đến tầm nhục quốc thể.
Đối diện với tấu chương đàn hặc hùng hổ, Thẩm Mặc không phản bác, chỉ dâng sớ theo lệ, nói mình suy nghĩ thiếu chu toàn, xin hoàng đế thứ tội v.. v.. v.. Thái độ cực kỳ thành khẩn.
Lúc này lại phát đinh chuyên Vi Ngân Báo công chiếm Quế Lâm, y chủ động xin nam hạ, tiến cử Vương Sùng Cố tiếp nhận việc của mình.
Long Khánh tất nhiên không muốn thấy sư phụ chịu oan ức cỡ đó, song đám đàn hặc tám phần là do Thẩm Mặc an bài, y còn viết thư cho Cao Củng nói thẳng "đây là cách tránh họa", Cao Củng hiểu lo lắng của y, hơn nữa chiến cục đã định Thẩm Mặc rút lui quang minh lỗi lạc, ông ta chỉ bội phục, không nói gì hết.
Thẩm Mặc không tạm biệt văn võ, chỉ căn dặn Vương Sùng Cố và Thích Kế Quang vài câu, rồi chuẩn bị hành trang nam hạ.
Đúng lúc xuất phát thì y nhận được tin Yêm Đáp bị bắt, Thẩm Mặc đứng lặng trong sân rất lâu, Tiểu Lục Tử hỏi có xuất phát không, y lắc đầu:
- Không biết kết quả ra sao, ta yên tâm đi thế nào được?
Vì thế nói với Vương Sùng Cố:
- Giám Xuyên huynh, xem như ta nợ huynh ân tình này, huynh lập tức bảo Lý Thành Lương xuất quân giải cứu người.
- Đại nhân nói gì thế, Yêm Đáp bị bắ là quân tình tối cao, hạ quan cũng đang có ý này.
- Đa tạ.
Thẩm Mặc gật đầu:
- Lúc này huynh bận rộn rồi, đi đi, không cần tiếp kẻ nhàn rỗi này nữa.
- Hạ quan tới là để mời đại nhân chủ trì.
Vương Sùng Cố cung kính nói:
- Chuyện này quá lớn, hạ quan sợ có sai sót.
- Ở vị trí nào lo công việc đó.
Thẩm Mặc lắc đầu:
- Nếu ta không tin huynh đã không đem trọng trách này giao cho huynh. Gánh lấy nó đi, Giám Xuyên huynh, huynh sẽ lưu danh sử sách.
- Vâng...
Vương Sùng Cố cảm kích hành lễ lui ra.
Tiếp đó Thẩm Mặc không màng cơm nước, đêm không chợp mắt, sốt ruột đợi tin, đến khi biết Chung Kim bình an rồi mời thở phào, nói:
- Lên đường thôi.
- Đại nhân, không nghỉ ngơi sao?
- Không cần, ta sẽ ngủ trên ngựa.
Vì thế bọn họ xuất phát nam hạ.
Buổi sáng trên thảo nguyên cực kỳ yên tĩnh, Thẩm Mặc quay đầu lại phương bắc, chỉ thấy mảng thảo nguyên xanh mênh mông, trái tim y tựa hồ bị chia làm đôi nửa.
Từ đằng xa, đột nhiên xuất hiện một chấm nhỏ, càng lúc càng lớn, cuối cùng các vệ sĩ nhìn rõ đó là một nữ tử mặc áo đỏ, cưỡi ngựa đỏ, sát khí đằng đằng... Nhưng bọn họ không ngăn cản mà lại tản ra thật xa.
Thiếu nữ đó là Chung Kim, nàng mặc trang phục tân nương, hãn huyết bảo mã phía dưới vì đổ mồ hôi mà từ trắng thành màu đỏ. Ngựa tới trước mặt Thẩm Mặc, nàng vẫn không hề giảm tốc độ, Thẩm Mặc cũng không nhúc nhích, chỉ yên tĩnh nhìn nàng.
Hai con ngựa sượt qua nhau, Chung Kim tung mình nhảy lên, ôm lấy Thẩm Mặc, hai người ngã xuống ngựa, lăn trên thảm cỏ dầy, cỏ non mang sương sớm ướt đẫm y phục bọn họ, nhưng chẳng ai để ý, cuồng si quấn lấy nhau...
- Nàng muốn giết ta sao?
Thẩm Mặc khó khăn lắm mới thoát khỏi vòng tay thiếu nữ.
- Chàng không cần người ta nữa.
Chung Kim trừng mắt lên:
- Cho nên mới đẩy người ta vào lò lửa, đúng không?
- Nói bậy.
- Vậy vì sao lại cho người ta khẩu súng này, chẳng lẽ không phải dự liệu được người ta bị Yêm Đáp phi lễ.
- Ta đâu phải Gia Cát Khổng Minh mà biết trước.
Thẩm Mặc thở dài:
- Tin ta đi, nếu biết nàng sẽ gặp phải tao ngộ như thế, ta sẽ không để nàng đi đâu.
-...
Chung Kim nhìn y chăn chú, muốn nhìn thấu nội tâm của y, nhưng không nhìn được điều gì, hồi lâu nàng mới than:
- Kiếp này định sẵn người ta bị chơi đùa trong tay chàng rồi.
- Nhưng tựa hồ luôn là nàng chủ động phi lễ ta.
Thẩm Mặc cười khổ.
- Xi, được lợi còn lên mặt.
Hai người chìm vào im lặng, hồi lâu Thẩm Mặc mới khó khăn nói nhỏ:
- Yêm Đáp... Không làm gì nàng chứ?
- Chàng quan tâm làm gì, người ta có phải là gì của chàng đâu?
- Nàng là nữ đồ đệ của ta.
- Có sư đồ nào ôm nhau như thế này không?
- Ta không thể làm chuyện có lỗi với sư nương nàng.
Thẩm Mặc khổ sở nói:
- Ta đã thề, đời này không làm chuyện gì có lỗi với nàng ấy nữa.
- Vậy ta có bị phi lễ hay không liên can gì tới chàng?
Chung Kim hờn dỗi.
- Nhưng bất kể thế nào, ta đều đã có lỗi với nàng ấy rồi, chuyện của ta và nàng đã truyền tới Bắc Kinh, ta lại một lần nữa làm tổn thương nàng ấy rồi.
- Vậy chàng đi đi...
Chung Kim đột nhiên nổi giận, siết nắm tay nhỏ đấm y:
- Chàng là đồ hèn, coi như ta mắt chó nhìn nhầm người.
- Mắt nàng sao là mắt chó được, mắt nàng là mắt hoa đào lung linh.
Thẩm Mặc nhịn đau nói:
- Nếu nàng nguyện ý, có thể tới Bắc Kinh một chuyến, bưng cho sư nương nàng chén trà.
Chung Kim sửng sốt, tròn mắt nhìn Thẩm Mặc:
- Chàng nói gì? Người ta không nghe nhầm chứ?
- Nàng và ta cứ ở bên nhau suốt, nàng lại bắn bị thương Yêm Đáp hãn, sau này còn ai dám cưới nàng nữa?
Thẩm Mặc dịu dàng nói:
- Chuyện ta làm, ta sẽ gánh hậu quả.
- Chàng đúng là đồ giả dối, cứ phải kiếm hết cái cớ này cớ nọ, chàng không dám nói thật lòng mình sao. Hừ, nếu thế không cần chàng thương hại người ta...
Chung Kim lạnh lùng nói:
- Thiên hạ thiếu gì nam nhân, cần gì phải sống chết bám vào chàng.
Thẩm Mặc cười khổ:
- Chẳng lẽ nàng nhất định muốn ta từng này tuổi đầu rồi phải nói một tiếng, ta yêu nàng?
- Ai thèm...
Chung Kim cười mắng, ôm chặt lấy cổ y, như nàng đã nói, nữ nhân có thể chờ đợi, chỉ cần biết trái tim kia hướng về mình…
Thẩm Mặc vẫn một mình lên đường, Chung Kim nói, nàng sẽ không rời khỏi thảo nguyên, càng không tới Bắc Kinh gặp con hổ cái của y, vì nàng là Chung Kim, một nữ tử dám vứt bỏ sư phụ tình lang của mình, dám nổ súng bắn Yêm Đáp hãn.
Kiếp này nàng không quỳ gối trước bất kỳ ai nữa, nàng sợ một khi tới đất Hán, nàng sẽ không tự định đoạt được.
Nàng sẽ trở về Hà Sóc, lợi dụng phong hiệu của mình, kiến lập lên bộ lạc của nàng, làm chuyện nữ nhân thời đại này muốn làm mà không làm được.
Nàng còn nói với Thẩm Mặc, nếu như bi kịch "công cao hơn chủ" hoặc là "thỏ chết chó vào nồi" xảy ra, hoan nghênh y tới thảo nguyên tị nạn, làm áp trại nam nhân của nàng.
Không lâu sau, Thẩm Mặc được tin, nàng không dùng phong hiệu của mình, không xưng quận chúa, mà xưng là Tam nương tử, ý tứ rõ ràng tự nhận mình đừng sau Nhược Hạm và Nhu Nương... Khiến Thẩm Mặc mắt cay xè, trái tim cô gái này không cứng như cái miệng nàng.
Nhưng gánh nặng trên vai quá lớn, Thẩm Mặc không thể cho nàng điều gì, đành thu lại vấn vương, kiên định nhìn về phía trước.
Chương 862: Nam Trung Quốc Hải (1)Đại Minh cương vực rộng lớn, nam và bắc, đông và tây, đều cách nhau vạn dặm, tây bắc, đông nam, đông bắc, tây nam, mỗi vùng có điều kiện tự nhiên, kinh tế phát triển, kết cấu dân tộc khác biệt rất lớn, mang lại khó khăn cho kẻ thống trị.
Bị giới hạn bởi thông tin và năng lực hành chính của thời đại này, quốc gia có mạnh đến đâu cũng không thể chu toàn mọi mặt, phải dựa vào mức độ hệ trọng phân ra nặng nhẹ nhanh chậm.
Trong mắt triều đình, tây bắc đối diện với uy hiếp Mông Cổ, tất nhiên phải đảm bảo trước tiên về nhân lực vật lực; đông nam là nguồn phú thế, phải phái quan lại giỏi nhất tới quàn lý; trung nguyên quan hệ tới ổn định xã tắc, cần được ưu tiên tài chính. Nhưng năm gần đây vì Thổ Man và Đóa Nhan nổi lên ở Liêu Đông, đông bắc thành điểm nóng mới.
Vì thế tính đi tính lại, tây nam cách trung tâm đế quốc xa nhất, lại là khu sơn cùng thủy tận, thành địa khu ít được chú ý nhất và bị hi sinh.
Có thể nói lịch sử tây nam là lịch sử tạo phản và dẹp loạn... Khi tạo phản dao động căn cơ tây nam, triều đình không thể chấp nhận sẽ phái đại quân đi dẹp loạn, chặt một đống đầu lâu, sau đó ổn định mười mấy năm, rồi lại tạo phản, cứ mãi như vậy không dứt.
Câu chuyện về gia tộc Vi thị là một ví dụ sống động...
Năm Hoằng Trị thứ năm, vùng Quảng Tây xảy ra nạn đói lớn, quan phủ vẫn cưỡng ép người dân nộp thế, người dân không chịu đựng nổi, vì thế Vi Triều Uy, phụ thân Vi Ngân Báo, cùng đệ đệ Vi Triều Mãnh liên lạc với đám Đàm Quảng Đức dẫn người tạo phản.
Năm Hoằng Trị thứ 8, bọn họ tiến công chiếm huyện thành Cổ Điền, chiếm cứ Cổ Điền 26 năm, tự xưng "Quảng Phúc vương", tới tận năm Chính Đức thứ 13 mới bị tiêu diệt, Vi Triều Uy, Vi Triều Mãnh bị chặt đầu.
Sau khi huynh đệ Uy Mãnh hi sinh, bốn nhi tử của bọn họ báo thù cho cha, tiếp tục tạo phản. Nhưng một là nguyên khí của họ tổn hại nặng, khó mà phục hồi trong thời gian ngắn. Hai là khi ấy có đám Mao Bá Ôn, Trương Kinh trấn gữ Quảng Tây. Ba là Ngõa lão thái quân ở Điền Châu lòng hướng về triều đình, lang binh vô địch thiên hạ...
Cho nên suốt những năm Gia Tĩnh, họ Vi chỉ gây chuyện nho nhỏ, lấy khôi phục nguyên khí làm chủ.
Cuối thời Gia Tĩnh, Ngõa Thị phu nhân quy tây, Vi thị quật khởi, đồng thời có vị lãnh tụ ưu tú, Vi Ngân Báo, em út trong bốn huynh đệ.
Vi Ngân Báo từ nhỏ sức mạnh vô song, thích đọc sách, nhất là binh thư, trong chiến dịch chống trả bốn vạn quân triều đình từ Lưỡng Quảng Hồ Nam, bằng vào địa thế có lợi, chiến thuật dương đông kích tây, hắn đánh cho quan binh kiệt quệ, cuối cùng tập trung ưu thế binh lực đánh tan quan quân vây tiễu.
Sau đó, Vi Ngân Báo kết minh với những thổ ti có thế lực như Đàm Vạn Hiền, Hoàng Triêu Mãnh, mở rộng dịa bàn, dẫn quân tấn công huyện thành Cổ Điền, chém chết huyện lệnh Chu Khải.
Tiếp đó lại tấn công huyện thành Lạc Dung, giết huyện lệnh Trương Sĩ Nghị, thanh uy Vi Ngân Báo tăng vọt, lại có bát đại thô ti tới quy phục.
Vì thế hắn kiến lập chính quyền tại Cổ Điền, lấy hiệu Mặc Nhất đại vương, chính thức dấy binh phản Minh, vì làm suy yếu thế lực triều Minh ở Quảng Tây, hắn tấn công trọng trấn Linh Xuyên, sau khi vào thành giết quan lại, đôt nha môn, cướp lương thực, chia cho dần nghèo, vì thế được thanh danh "giết người giàu chia cho người nghèo".
Sau trận Linh Xuyên, quân Minh nghe tên là bỏ chạy, còn triều đình trước dẹp loạn giặc Oa, sau dẹp loạn Cống Nam, không rảnh phái binh chi viện, quan binh đành lui về thành Quế Lâm cố thủ.
Vì thế Vi Ngân Bảo tiến vào thời kỳ phát triển hoàng kim, hắn liên tiếp chiếm lĩnh hơn 20 huyện thành, thế lực bao phủ phía bắc Quảng Tây, hắn đặt quan lại quản lý ở địa bàn, thu thuế đại hộ, cứu tế người nghèo, tranh thủ sự ủng hộ của bách tính cùng khổ, dã tâm bày rõ với thiên hạ.
Cùng với thế lực bành trướng, hùng tâm của Vi Ngân Báo cũng lớn lên, lập một loạt hành động quân sự làm uy danh hiển hách, đỉnh cao là ba lần đánh thành Quế Lâm... Hai lần sau đánh vào thành sau này, cướp ngân khố, giết mười mấy quan viên từ Quảng Tây bố chính sứ trở xuống, diệt hơn 3000 người phủ Tĩnh Giang Vương, Tĩnh Giang Vương phải trốn vào mật đạo mới thoát nạn.
Tấn công thành Quế Lâm làm danh tiếng Vi Ngân Báo đạt tới đỉnh điểm, cũng làm hắn ngày càng coi thường Đại Minh, năm Gia Tĩnh 44 không ngờ đánh vào biên cảnh Hồ Nam, cuối cùng đã khiến triều đình chú ý.
Khi đó binh bộ thượng thư Dương Bác lệnh Du Đại Du làm tổng binh Quảng Tây, điều trọng binh dẹp loạn. Du Đại Du mặc dù bị kẻ nào đó chèn ép, luôn bất chí, nhưng chưa bao giờ mất đi sự nhạy bén quân sự, nhận được lệnh, liền từ Quảng Đông tiến thẳng sào huyệt Cổ Điền của Vi Ngân Báo.
Du gia quân tề danh với Thích gia quân, quan quân bình thường không thể bì được, thế như trẻ tre, thuận lợi thu phục thành Quê Lâm, tiến quân Cổ Điền.
Vi Ngân Báo chấn động, rút binh từ Hồ Nam về cứu viện, hai bên giao chiến vài lần, hắn đều ở thế hạ phong, chỉ đành lợi dụng địa hình có lợi quần nhau với đối phương.
Du Đại Du đánh chắc tiến chắc, ép thế lực của Vi Ngân Báo co cụm ở phía nam Quế Lâm, nhưng vì địa hình phức tạp, binh lực không đủ, lại có ý kiến bất đồng với tuần phủ Lý Duyên, nên không tiến thêm được bước nào.
Khi tiến quân về phía bắc bị cản trở, Vi Ngân Báo phát triển xuống phía nam, giết hại Sầm Đại Mãnh thổ ti Điền Châu, thôn tính vùng đất lớn ở nam bộ Quảng Tây, thu hàng 2 vạn lang binh, thực lực tăng vọt.
Phía quân Minh chia rẽ giữ Du Đại Du và Lý Duyên ngày một lớn, tới mức mất một còn, Lý Duyên là môn sinh của Cao Củng, Du Đại Du lại không có chỗ dựa, vì thế Dương Bác điều Du Đại Du về Quảng Đông, phái tổng binh khác nghe lệnh Lý Duyên.
Lý Duyên nắm được đại quyền, cuối cùng có thể tiễu phỉ theo cách của mình, nhưng 5 vạn quan binh tiễu phỉ 3 năm, hao tốn của triều đình 200 vạn lượng bạc, bản thân hao binh tổn tướng, mà chẳng làm mất một cọng tóc của Vi Ngân Báo.
Còn Vi Ngân Báo, trong cuộc chiến giằng co lâu năm với triều đình cũng không thể một mình chống cự nữa. Mặc dù hắn thu được địa bàn của Sầm gia nhưng trong địa phận kháng cự liên tục, mà Sầm Đại Thọ đệ đệ của Sầm Đại Mãnh vẫn còn, làm hắn không dám tín nhiệm Lang binh.
Vì thế hắn cầu cứu vương triều nhà Mạc ở An Nam, xin xuất binh giúp mình kháng cự quân Minh, sau khi thành công, sẽ phân chia nam bắc Quảng Tây. Nhà Mạc đồng ý, đưa ba vạn binh sang kháng cự quân Minh.
Kỳ thực Vi Ngân Báo chẳng muốn chia đất thật, khi đó hắn còn cầu trợ vương triều Đông Hu Miễn Điện, mạnh nhất bán đảo trung nam khi đó, cũng lấy điều kiện tương tự. Nhưng bị Miễn Điện vương Mãng Ứng Long nhìn thấu kế "một gái gả hai nhà" của hắn nên không xuất binh.
Nhưng cho dù như thế, Vi Ngân Báo cũng đã lôi kéo được gần 10 vạn đại quân, lúc này hắn kiên thủ thì có thần niên cũng chẳng làm gì nổi.
Nhưng 10 vạn đại quân hao tổn rất lớn, nửa vùng Quảng Tây, cho nên đành tấn công phía bắc, mà địch thủ của hắn Lý Duyên mấy năm qua ăn lẹm quân lương ăn tới mỡ lên não, vơ vét khiến người người căm giận, thấy Vi Ngân Báo tới, các thổ ti liền trở giáo.
Lý Duyên chưa đánh đã sợ, không ngờ lui liền 100 dặm, Quế Lâm lại thất thủ, quân Minh bại trận liên tục bị đuổi tới tận Hồ Nam, Quảng Tây mất hoàn toàn, triều đình nổi giận.
Trong triều ý thực được, nếu không coi trọng Vi Ngân Báo phản loạn, Đại Minh sẽ mất Quảng Tây vĩnh viễn như mất An Nam.
Ngay Long Khánh cũng phá lệ mở triều hội thảo luận cách dẹp loạn, triều đình bị Vi Ngân Báo xưng có 30 vạn đại quân làm khiếp sợ, lúc này ai cũng cho rằng chỉ có một người có thể thu dọn tàn cuộc, thứ phụ nội các Thẩm Mặc.
Lúc này tác chiến ở Hà Sóc cơ bản đã kết thúc, trong vòng vài năm dự kiến không có chiến dịch lớn, Long Khánh hạ chỉ phong Thẩm Mặc là thái tử thái bảo, lệnh đốc sư dẹp loạn, binh mã các tỉnh thiên hạ nghe lệnh điều khiển.
Chương 862: Nam Trung Quốc Hải (2)Thẩm thái bảo vừa tới Hồ Nam liền chặt đầu Lý Duyên, bêu khắp sáu tỉnh phương nam, biểu thị thái độ của mình với những kẻ đớn hèn.
Sau đó điều Ân Chính Mậu làm tuần phủ Quảng Tây, lệnh Ngô Bách Bẳng tổng đốc Lưỡng Quảng và Du Đại Du tổng binh Quảng Đông tới nghe lệnh.
Ngoài điều tướng, y điều động trọng binh, hơn 4 vạn thổ binh từ Vĩnh Thuận, Bảo Tĩnh. Ba vạn tay súng từ Phúc Kiến, Nam Trực, Chiết Giang. Cùng 4 vạn quân ban đầu ở Quảng Tây, ba vạn quân Quảng Đông, tổng cộng 14 vạn, đồng thời giở trò cũ, tiến hành đi vay chiến tranh, chuẩn bị được 400 vạn quân lương... Chỉ có điều chẳng biết lần này y lấy cái gì ra đặt.
Quân đông là thế lại không đồng tộc đồng tỉnh, còn có bại quân, nếu là thống soái khác thì đã loạn rồi. Nhưng nay Thẩm Mặc kháng Oa đông nam, tiễu phỉ Cống Nam, thu phục Hà Sóc, đã thành nhân vật truyền kỳ...
Dù y chưa từng chỉ huy đánh bất kỳ trận nào.
Thẩm Mặc vừa tới Quảng Tây đã nhanh chóng ổn định lòng quân, bất kẻ quân tộc nào tỉnh nào cũng không ai dám chọc giận y, đám tướng lĩnh không dám lười biếng, đám quan viên gian tham ngoan ngoãn nghe lệnh.
Thẩm Mặc vĩnh viễn không đi can dự chuyện không sở trường, đem quân đội giao cho Du Đại Du và Ân Chính Mậu thao luyện. Y thì cùng Ngô Bách Bằng thi triền mưu kế, chia rẽ liên quân Vi Ngân Báo, phàm thổ ti quy thuận triều đình đều không truy cứu, còn phong thưởng.
Vì rất nhiều thổ ti không có thù oán gì với triều đình, thậm chí còn nhiều đời nhận hoàng ân, nhưng bị Ngô Thiên Báo uy hiếp mới xuất binh, thấy triều đình giận thật rồi, đều lo sợ đứng ngồi không yên.
Hiện giờ Thẩm Mặc xá miễn tội trạng, còn ban thưởng, các thổ ti đều nổi lòng quy thuận, gần như mỗi ngày đều có người nhân lúc tối trời dẫn người đầu hàng.
Đối diện với cục diện bất lợi, Vi Ngân Báo biết không thể tham lam, vì thế cướp sạch Quế Lâm, chủ động lui binh về căn cứ Cổ Điền.
Trải qua hơn nửa năm chuẩn bị, tháng Giêng năm Long Khánh thứ năm, đại quân tiến công. Tham tướng Lương Cao, Lô Kỳ suất lĩnh hơn ba vạn tiên phong đánh Cổ Điền.
Ví Ngân Báo ứng chiến, bị Du Đại Du, Vương Thế Khoa suất lĩnh lang binh đánh úp đoạt mất huyện thành Lạc Dung.
Có được căn cứ địa, Ân Chính Mậu dẫn 5 vạn binh bao vây phản quân. Lúc này quan quân thay đổi chiến thuật, mỗi khi tiến một bước là chặt sạch cây cối, thấy nhà cửa là đốt, thấy đá là đập, đồng thời tổ chức đội cảm tử luân phiên tập kích, còn lợi dụng thổ binh người Tráng, công chiếm cứ điểm trọng yếu như Mã Lăng, Khổ Thủy.
Phản quân tử thương thảm trọng, thủ lĩnh Hoàng Triều Mãnh trận vong, Vi Ngân Báo đành bỏ cứ điểm, rút lui liên tục, cuối năm rút tới thâm sơn cùng cốc giữa biên giới Việt Trung, Quảng Tây cơ bản được thu về.
Nhưng Vi Ngân Báo vẫn có ba vạn quân, thêm vào ba vạn nhân mã An Nam, dựa vào núi non hiểm trở cố thủ, sau lưng có vương triều nhà Mạc không ngừng hỗ trợ, Ân Chính Mậu tấn công mấy lần đều hao binh tổn tướng, hiệu quả rất kém, đành phải tạm thời dừng bước, bày thế trận vây trường kỳ.
Khi Vi Ngân Báo thở phào thì một tin tức làm hắn kinh hồn táng đảm, nhà Lê tử địch nhà Mạc, cho Đại Minh mượn đường nam bộ An Nam, tấn công nhà Mạc.
Thời đầu Đại Minh lập quốc cực kỳ hiếu chiến, liên miên dùng binh với các dân tộc thiểu số và nước láng giềng, làm tiếng oán thán khắp nơi, nông dân khởi nghĩa liên tục, thế nước đi xuống nhanh chóng.
Lúc đó ở An Nam, Hồ Quý Ly soán ngôi nhà Trần, lập nên nhà Hồ, bắt đầu cải cách, đáng tiếc là không gặp thời cơ tốt. Vĩnh Lạc đế phái Trương Phụ xuất quân, lấy danh nghĩa diệt Hồ hộ Trần, đánh tan nhà Hồ.
Nhưng Chu Lệ là ai? Sao có thể nhà miếng thịt trong miệng ra, vì thế lập Giao Chỉ bố chính sứ ti, thu về dưới quyền thống trị của TW.
Tới năm Vĩnh Lạc thứ 16, quan lại triều đình phái tới Giao Chỉ quá mức tham lam tàn nhẫn, khiến cho người người đều phẫn nộ, đành rút đi một nửa quan binh.
Kết quả thổ quan Thanh Hóa An Nam là Lê Lợi thừa cơ dấy binh làm phản.
Lê Lợi từng theo quân "phản Hồ phục Trần" khởi sự, nên thiện chiến đa mưu. Sau khi quy hàng nhà Minh chỉ được phong chức tuần kiểm, vì thế mà mang lòng bất mãn, đợi quân Minh rút lui một phần về nước, liền tự xưng Bình Định vương.
Sau khi bị quân Minh đánh bại, ông ta dẫn tàn quân lui vào rừng rậm đánh du kích, làm quân Minh lún sâu vào vũng bùn, không làm gì nổi.
Cầm cự tới năm Tuyên Đức thứ ba thì mùa xuân của Lê Lợi tới, Tuyên tông Chương hoàng đế được xưng là bảo thủ không biến tiến thủ bắt đầu cắt giảm chi tiêu...
Trong đó có ba chính sách trọng yêu là đình chỉ Trịnh Hòa đi Tây Dương, rút binh khỏi An Nam, chuyển vệ sở biên phòng vào sâu nội địa, gây ảnh hưởng tiêu cực lớn cho hậu thế.
Quân Minh rút lui, Lê Lợi giành thắng lợi, thu lòng người kiến lập nhà Lê, sau đó được Đại Minh phong tước An Nam vương, khôi phục địa vị phiên quốc.
Nhà Lê một thời cường thịnh, nhưng từ sau năm Chính Đức thứ 5 thì dần suy vi, 70 năm sau, quyền thần Mạc Đăng Dung soán ngôi lập nên vương triều nhà Mạc.
Nhưng nhà Mạc căn cơ kém cỏi, tổ tiên là di dân từ Quảng Đông sang, mặc dù cụ tổ là trạng nguyên trạng nguyên nhà Trần, nhưng tới thời ông ta đã đi xuống rồi, ông ta nổi lên trong quân, lập nhiều chiến công, dần nắm quân quyền, sau ép Lê Triêu Hoàng nhường ngôi đoạt thiên hạ.
Ông ta căn cơ mỏng, lại là võ nhân soán vị, mặc dù xưng đế, nhưng phong tục lề thói học theo chế độ Đại Minh, mà học luôn cả cái thói xấu trọng văn khinh võ.
Mạc Đăng Dung sợ sinh biến, vì thế đối đãi tốt với vương tộc họ Lê, văn võ tiền triều. Nhưng hào tộc nhà Lê vẫn bổ trốn mai danh ẩn tính, hoặc là tụ tập chống lại sự thống trị của ông ta...
Cựu thần Hậu Lê là Nguyễn Cam sau khi chạy sang Ai Lao, được quốc vương Ai Lao ủng hộ, nhưng thấy từng nghĩa quân mạnh hơn mình bị đánh bại, Nguyễn Cam ý thức được muốn với nhà Mạc, phải giương cờ hiệu nhà Lê, vì thế phái người vào trong nước liên hệ hậu nhân tông thất nhà Lê. Ông ta cũng biết bằng vào đú chưa đủ, liền phái sứ thân sang Bắc Kinh, xin vương sư phục quốc.
*** Mình gọi là Nguyễn Kim, bên TQ gọi Nguyễn Cam, Nguyễn Kiềm..
Khi đó Gia Tĩnh còn là một thanh niên nhiệt huyết, phái binh bộ thượng thư xuất chinh, mười vạn đại quân thốn tính Trấn Nam quan, truyền hịch An Nam, với thế quyết diệt nhà Mạc.
Thấy đại quân áp sát viên cảnh, Mạc Đăng Dung đứng ngồi không yên, suy nghĩ mãi rồi hàng.
Mao Bá Ôn phi báo triều đình, Gia Tĩnh đế cao hứng ban chiếu thư, đổi nước An Nam, thành An Nam đô thống sứ ti, nhập vào bản đồ Đại Minh.
Mạc Đăng Dung chẳng hề bận tâm, còn thản nhiên tự xưng đô thống sứ, bị rất nhiều người An Nam phỉ nhổ sau lưng.
Ở phía nam hậu nhân họ Lê được nhiều cựu thần ủng hộ, một lòng trung thành, bên lên bên xuống, lúc này Mạc Đăng Dung qua đời, Nguyễn Cam nhân cơ hội bắc phạt, một dạo tình thế rất tốt, nhưng sau đó Nguyễn Cam bị hàng tướng nhà Mạc đầu độc chết. Bắc phạt phải ngừng hai bên chia nhau ra hình thành cục diện nam bắc triều.
Sau khi Nguyễn Cam qua đời, Trịnh Kiểm nắm quyền quân chính nhà Lê, hai bên có công có thủ, song tổng thế nhà Lê chiếm ưu thế.
Có điều năm Long Khánh thứ hai, Trịnh Kiểm qua đời, con trai tranh quyền đoạt lợi, nhiều trọng thần nhà Lê thấy thế hàng nhà Mạc. Mạc Kính Điển xuất lĩnh mười vạn đại quân nam chinh, tướng nhà Lê hàng liên tục, tình thế nhà Mạc rất tốt.
Đúng lúc này nhà Mạc lại có quyết định ngu xuẩn, bị Vi Ngân Báo cổ động, vua Mạc là Mạc Mậu Hiệp phái ba vạn quân cùng chống quân Minh.
Đáng lý nhà Mạc luôn tôn phụng Đại Minh không nên xen vào vũng nước đục này, nhưng Mạc Mậu Hiệp có tính toán của mình. Khi hắn lên ngôi có Khiêm vương Mạc Kính Điền chủ chỉ quân sự, Ứng vương Mạc Đôn chủ trì nội chính, hai vị này là con Mạc thái tông, Mạc Mậu Hiệp phải gọi là Nhị gia gia, Tam gia gia. Khỏi nói cũng biết hai vị gia gia không coi ấu chúa ra gì.
Mạc Mậu Hiệp từ nhỏ sống dưới bóng hai vị gia gia, nhất là Mạc Kính Điển làm thống soái thảo phạt nhà Lê, sắp thu được thắng lợi toàn diện.
Điều này làm vị vua trẻ rất lo, chuẩn xác là mẫu hậu của hắn rất lo, vì thế hai mẹ con hợp kế, nếu như có thể chiếm một mảnh đất khác bằng với An Nam thì có thể lập nên uy vọng, không tới mức bị Mạc Kính Điển cướp mất hoàng vị, vì thế không ngờ giấu hai vị gia gia, ký quốc thư với Vi Ngân Báo.
Chương 862: Nam Trung Quốc Hải (3)Hai vị gia gia biết được, tất nhiên rất tức giận, nhưng không làm gì nổi, lúc này sứ giả Vi Ngân Báo tới, nhị vương từ chối xuất binh.
Nhưng tên sứ giả đó rất biết ăn nói, cười lạnh:
- Chúng ta đã giao quốc thư, nếu các ngươi bội tín, chúng ta đem nó đưa lên Bắc Kinh, xem hoàng đế Đại Minh tin các ngươi hay tin bọn ta.
Thấy nhị vương biến sắc, sứ giả chuyển sang cực lực thổi phồng công tích của Vi Ngân Báo trong mười năm qua, nói:
- Nếu chẳng phải vương của ta muốn lập quốc, hà tất giao Quảng Nam cho các ngươi? Huống hồ vẫn là chúng ta tiếp giáp với Đại Minh, các ngươi chỉ cần phái binh tương trợ, chuyện thành, các ngươi không tiếp giáp với Đại Minh nữa, không phải nghe lời, tẩy được ác danh trước kia.
Thế là hai vị vương động lòng, năm xưa Mạc thái tổ bất đắc dĩ nhường quốc thổ, kết quả mang tiếng xấu, nếu tiếng xấu này không trừ, sau này có thống nhất thiên hạ, lòng người không phục, có thể có phản loạn bất kỳ lúc nào.
Nói cho cùng vì mấy năm qua chiến sự thuận lợi làm nhị vương lâng lâng, huống hồ bọn họ biết Đại Minh hơn 30 năm qua không diệt nổi Vi Ngân Báo, tám phần là có thiên mệnh.
Tất nhiên nhị vương cộng lại hơn trăm tuổi, thấu hết sự đời rồi, bọn họ căn bản không tin Vi Ngân Báo sẽ thực hiện lời hứa, bọn họ không hi vọng chiếm lĩnh được quốc thổ này, cái bọn họ cần là hành vi xuất binh đánh Đại Minh, bọn họ tin như thế rửa sạch được ác danh bán nước trước kia.
Sau một phen suy nghĩ nhị vương lấy danh nghĩa "không thể để hoàng đế thất tín", quyết thực hiện hiệp ước. Nhưng nhị vương không bán mạng cho Vi Ngân Báo thật, chỉ trú quân biên giới, rồi dùng quân dân tộc thiểu số và quân phương nam ra hàng, rầm rộ kéo tới Quảng Tây, được cả nước reo hò, lập tức xoay chuyển lòng người.
Nhưng tới Quảng Nam, bọn họ mới biết vì sao Vi Ngân Báo chịu nhường nơi này co mình rồi, vì nơi này sơn cùng thủy tận, điêu dân như lang hổ, các vùng bị Vi Ngân Báo vơ vét sạch, còn lại toàn khúc xương khó nhằn, bất kỳ một sơn trại bảo lũy nào cắn một cái cũng gãy răng, đảm bảo không dám cắn cái thứ hai.
Có điều bọn họ chẳng phải quân đội chính quy gì, chẳng ai nói được ai.
Vi Ngân Báo sau khi có được viện quân không ngờ chỉ cầm cự được mười tám tháng đã bị đánh cho té đái vãi phân, lùi tới vùng núi trùng điệp giữa biên giới Việt Trung.
Nhị Vương hồn siêu phách lạc, ngày đêm lo lắng không thôi...
May mà quân Minh dừng bước, tựa hồ có ý đánh lâu dài với Vi Ngân Báo, Nhị vương thở phào, vội hợp kế diệt nam triều trước, rồi đem quân về chống quân Minh.
Nhưng đúng lúc này có một hung tín làm Nhi vương khiếp vía, Đại Minh đề xuất với nam triều Trịnh Tùng, muốn đổ bộ lên Hiện cảng, mượn đường thảo phạt nhà Mạc phản nhịch...
Đây đúng là tin còn đau hơn cả cha chết mẹ cải giá, Mạc Kính Điển ảo tưởng đám nam triều suốt ngày chửi bắc triều phản quốc, có thể nóng máu từ chối cho quân Minh nhập cảnh.
Nhưng ông ta biết điều này là không thể, đừng nói Trịnh Tùng nay đã cùng đường, dù hắn bình an vô sự cũng tuyệt đối không từ chối yên cầu này.
Cho nên chẳng có gì bất ngờ, Trịnh Tung lâm vào tuyệt cảnh tóm lấy cọng cỏ cứu mạng này, biểu đạt hoan nghênh, đồng thời ám thị dốc hết quốc lực, giúp Đại Minh dẹp loạn.
Sau khi xác định ngày tháng cụ thể, Trịnh Tùng cùng Lê vương xuất lĩnh văn võ bá quan tới Hiện cảng đón quân Đại Minh...
Tuy đã vào tháng Chạp, nhưng Hiện cảng không có mùa đông, chỉ có nước biển xanh biếc, bãi cát trắng mà mịn, cây cối xanh tươi đặc trưng của khí hậu cận nhiệt đới.
Lúc này bên cầu tàu có hai người được một đám đông xúm quanh, một là thanh niên một tráng niên, tráng niên ngồi trên ghế đệm vàng, mặc vương phục màu vàng, mặt trắng trẻo, không vui không buồn, thanh nhiên mặc áo cẩm bào đỏ, ngồi ghế đỏ, nhìn qua một cái thì hiển nhiên người tráng niên tôn quý hơn.
Nhưng nhìn kỹ thì thấy không ổn, trước tiên thì hai cái ghế xếp ngang hàng, tiếp đó là văn võ xung quanh đều thận trọng nói chuyện với thanh niên trẻ, ít chú ý tới trung niên áo vàng.
Thanh niên kia thẩn nhiên tiếp nhận, mặc dù tuy chỉ trên hai mươi, nhưng mặt mày uy nghiêm, hơn hẳn trung niên bên cạnh.
Những người này đúng là quần thần nhà Lê, vị trẻ tuổi kia là tể tướng, thượng quốc công Trịnh Tùng, cơ nghiệp nam triều do nhà họ Trịnh khai phá, quốc vương cũng là do bọn họ đi tìm về, cho nên từ khi khai quốc tới nay, ba đời nhà họ Trịnh đều nắm chặt đại quyền quân chính.
Bởi thế vị trung niên bên cạnh tuy là đế vương nhà Lê, nhưng Trịnh Tùng ngay cả cung kính bề ngoài cũng chẳng có, nếu chẳng phải còn cần dùng lá cờ nhà Lê thì e đã soán vị rồi.
Những đại thân đều do họ Tịnh đề bạt, nên nghe lời Trịnh Tùng, đua nhau hỏi:
- Công gia, ngài nói đại quân thiên triều chuyến này tới có phải kế mượn đường diệt Quắc không?
- Đúng đấy bọn họ hoàn toàn có thể trực tiếp vào Thăng Long từ vịnh Đông Kinh (bắc bộ), vì sao bỏ gần tìm xa, lão thần không yên tâm.
- Ba mươi năm trước bắc phạt cũng vào thời tiết này, gia tổ suất lĩnh hạm đội từ vịnh Đông Kinh tiến công Thăng Long.
Trịnh Tùng hắng giọng nói:
- Kết quả bị Mạc tặc giăng xích sắc ngang sông, đốt nửa chiến thuyền, chắc thiên triều cũng lo dẫm vào vết xe đổ này.
- Huống hồ thiên triều hơn 170 năm trước rút lui, đã không còn dẫm chân lên biên cảnh nước ta nữa, sớm đã không quen thuộc nhân sinh địa thế, đổ bộ lên Hiện cảng còn có chúng ta giúp đỡ, là có nhân hòa, triển khai công kích từ quan ải chúng ta trấn giữ là có địa lợi. Thiên triều trước khi dùng binh, chắc có suy tính này.
Cả đám nghe xong gật đầu liên tục.
Trước kia Trịnh Tùng và huynh trưởng Trịnh Cối vì tranh quyền không ngừng đấu đá khiến không ít trọng thần tâm ý nguội lạnh đầu hàng bắc triều, nhà Mạc thừa thế tấn công, không ngờ Trịnh Cối chống không nổi hàng định, uy vọng họ Trịnh tụt xuống vực sâu.
Đúng lúc này biểu hiện của Trịnh Tùng làm người ta trố mắt nhìn, hắn đứng vực trước áp lực, cùng văn võ ăn thề "cùng tồn vong với quốc gia", thu lòng người xong, hắn dẫn quân liều chết kháng cự, nhiều lần kéo nam triều từ bờ vực diệt vong về, có thể nói nam triều tới nay chưa vong quốc là công của Trịnh Tùng, tái trí và khí phách của hắn đã được chứng minh không thua kém tổ phụ.
Lần này Đại Minh mượn đường dẹp nhà Mạc, được Trịnh Tùng hưởng ứng, hoan nghênh nhiệt liệt, kỳ thực hắn đã tính, Đại Minh đánh tới đâu, nam triều thu phục tới đó, đến khi Đại Minh rút lui, còn chẳng phải giao cho nam triều? Nói không chừng chẳng tốn chút sức lực nào mà thu lại được Thăng Long.
Điều này tất nhiên hắn không giải thích với quần thần, lúc này trong đám quần thần a dua nịnh bợ, hoàng đế nhà Lê, Lê Duy Bang im lặng lắng nghe tựa hồ có kiến giải khác, nói:
- Chỉ e mời thần dễ tiễn thần khó, chẳng may đại quân thiên triều giống hơn trăm năm trước ở lỳ không đi thì chúng ta phải làm sao?
Lê Duy Bang rất có tài, nhưng số mệnh kém, tới nay đành nhún nhường người trẻ kia, nhưng lời của ông rất có lý, khiến văn võ trầm tư.
Đối diện với ánh mắt lạnh băng của Trịnh Tùng, Thiên Cổ đế vội cúi đầu xuống, là một con rối ông ta không nên thể hiện trước mọi người, điều này chỉ làm ông ta càng chết nhanh hơn mà thôi.
Có điều Trịnh Tùng vẫn giải đáp:
- Có ba điều, thứ nhất, nước ta nguy trong sớm tối, so với vong quốc trong tay Mạc tặc, chẳng bằng quay về với thiên triều. Thứ hai, thiên triều không chỉ có một lựa chọn ở chỗ ta, có thể đổ bộ lên Chiêm Thành, với thiên triều chẳng qua xa hơn một chút, nhưng chúng ta từ chối giúp đỡ, có thể khiến thiên triều phẫn nộ. Hơn nữa thần có hiểu chút về thống soái Thẩm công, nhìn ngay cả với kẻ thù truyền đời Nguyên Mông còn áp dụng chính sách mềm dẻo, không lấy chiếm lĩnh làm mục đích, chưa chắc có hứng thú với chúng ta...
Những lời này làm mọi người khâm phục vô cùng, ngay Thiên cổ đế cũng phải thầm than, sao nhà họ Trịnh lại có phong thủy tốt như thế, đời nào cũng có nhân vật lợi hại.
Nhưng nếu hắn nghe được lời nói của vị Thẩm công với người bên cạnh, khẳng định sẽ không nghĩ như thế.
Chương 863: Phiên ly (1)Lúc này ở trên biển khơi sóng nước bập bềnh, một hạm đội hơn ba trăm chiến thuyền, cột buồm dày đặc như rừng, cánh buồm trắng như mây, với khí thế nuốt chửng sơn hà thuận theo dòng hải chiều mùa đông, tiến về phía nam.
Chỉ mười mấy năm Đại Minh từ một quốc gia đóng kín không có một mảnh ván ra khơi, phát triển được lực lượng hải quân cường thịnh, theo kịp thời Trịnh Hòa ra biển, nền móng quốc lực cường đại đó, thực sự bất kỳ một quốc gia thời đó cũng khó theo kịp.
Đứng trên kỳ hạm, nhìn xung quanh buồm phủ kín mặt trời, hạm đội hùng mạnh như thế theo mình lập nên tương lai mới cho Hoa Hạ, lịch sử, lại một lần nữa do đích thân ta viết. Điều này làm Thẩm Mặc khó không sinh ra hào tình, đem buồn bã từ khi rời thảo nguyên đến nay quét sạch.
- Gió biển lớn thế này, không thể đến đúng giờ rồi.
Ngô Bách Bằng ở bên cạnh trầm giọng nói:
Thẩm Mặc gật đầu không nói, một lúc lâu sau mới nhìn đồng hương hỏi:
- Nghiêu Sơn huynh, huynh có ý kiến gì về lần viễn chinh này không?
- Ha ha ha, làm người ta kích động vạn phần, có thể sánh với chuyến đi Tây Dương thời Thành tổ rồi.
Thẩm Mặc mỉm cười hỏi:
- Nói tới chuyến đi Tây Dương, huynh thấy việc phế bỏ nó thế nào?
Ngô Bách Bằng xuất thân đông nam, nhạy bén ham học, lại ở Quang Đông mười năm, Thẩm Mặc rất muốn nghe quan niệm của hắn ra sao?
- Từ nhỏ hạ quan được nghe chuyện Trịnh Hòa đi Tây Dương, Vĩnh Lạc thịnh thế thật khiến lòng người khao khát, nhưng đám lão nho lại nói, đóng bảo thuyền đi xa, khoét rỗng tài chính, quốc gia chẳng lợi gì.
Ngô Bách Bằng nói tới đó cười nhạo:
- Kỳ thực nguyên nhân thực sự là Trịnh Hòa cho bọn họ biết thế giới rộng mênh mông vô cùng, lớn tới mức làm bọn họ sợ hãi, sợ tâm luận trung quốc bị lật nhào, sợ Đại Minh không còn là trung tâm thế giới nữa. Cho nên bọn chúng không cho ra biển, bến quan tỏa cảng, rúc vào một xó tiếp tục ôm cái mộng thiên triều thượng quốc...
Ngô Bách Bằng sớm biết Đại Minh chỉ là một phần nhỏ của thế giới mà thôi, làm hắn cực kỳ phẫn hận đám tiền bối bưng tai trộm chuông, không chỉ biến bản thân thành kẻ ngu xuẩn, mà khiến con cháu đời sau ngu xuẩn theo.
- Cũng đừng trách cổ nhân.
Thẩm Mặc lắc đầu:
- Đại Minh là quốc gia lục địa truyền thống, vì lục địa làm người ta cảm thấy an toàn, thà bỏ hơn trăm năm xây dựng Vạn lý trường thành, chứ không dấn thân ra hải dương.
- Thay đổi quan niệm cần một quá trình, chúng ta cho phép cổ nhân phạm sai lầm.
Thẩm Mặc nhìn nhìn biển xanh bao la, giọng kiên định:
- Nhưng phương tây đã tiến vào thời đại hàng hài hơn trăm năm, phân chia thế giới, đời này chúng ta không được phạm sai lầm nữa, phải thay đổi nhận thức của mọi người về hải dương. Trịnh Hòa từng nói "muốn quốc gia giàu mạnh, không thể bỏ qua hải dương".
- Đáng tiếc người có nhãn quan chiến lược như Trịnh Hòa dù sao cũng rất ít, triều đình chẳng những rút khỏi Đông Nam Á, mà còn trấn áp những tập đoàn Hoa thương lớn, phá hỏng mạng lưới thương nghiệp lập nên từ thời Tống Nguyên.
Trịnh Nhược Tằng mặc nho bào, hai mai hoa râm xuất hiện bên cạnh hai người, tiếp lời Thẩm Mặc:
- Thực ra Hoa Hạ cũng không phải thiếu truyền thống hải dương, từ thời Đường Tống đã lập nên con đường tơ lụa nối từ Ba Tư tới Tuyền Châu, Hoa thương trải khắp Nam Dương và Tây Dương. Tiếp đó là Trịnh Hòa sang Tây Dương.
- Khi đó thời đại thương nhân Ba Tư lũng đoạn mậu dịch Tây Dương đã qua, Phật Lãng Cơ thì trăm năm sau mới tới, nói cách khác, Đại Minh ta có cả trăm năm khống chế tuyến đường biển Ấn Độ Dương, nhưng tất cả điều thuận tự nhiên đó đều bị tan thành bong bóng... Khi Trịnh Hòa kết thúc viễn chinh chưa tới trăm năm người Phật Lãng Cơ đã tới xâm lấn phạm vi thế lực của chúng ta...
Nhắc tới lịch sử, Trịnh Nhược Tằng bùi ngùi vô hạn:
- Tới năm Chính Đức thứ năm bọn họ hoàn thành chiếm lĩnh bờ biển tây nam Ấn Độ, năm sau đó chiếm lĩnh Mã Lục Giáp, thôn tính Tích Lang, tới đây Ấn Độ Dương hoàn toàn thành địa bàn của người Phật Lãng Cơ.
- Trước tình hình đó, triều đình chúng ta tỏ ra rất yếu đuối, Mã Lục Giáp thất thủ chỉ ban một chiếu thư lệnh người Phật Lãng Cơ rút lui, vì ở Ấn Độ Dương đã không còn một binh một tốt của Đại Minh nữa.
Trịnh Nhược Tằng đau đớn nói:
- Thế lực của chúng ta bị đuổi khỏi Ấn Độ Dương, làm cư dân đương địa bị thống trị áp bức tàn khốc, Đại Minh chẳng những không thực thi trách nhiệm của người bảo hộ, hơn nữa mất đi lá chắn quân sự trên biển và con đường mậu dịch, ngay quốc phòng và mậu dịch bản thân cũng bị uy hiếp.
- Ấn Độ Dương đã mất, tương lai nhất định phải đoạt lại, nhưng giờ thời cơ chưa chín muồi. Dù chúng ta nay đã khác xưa, nhưng đồng thời thành kẻ thù của hai đại bá chủ không phải là hành vi của kẻ trí.
Sau một hồi phê bình nghiêm khắc, Trịnh Nhược Tằng mệt, Thẩm Mặc nói:
- Việc cấp bách hiện nay là giữ vững Nam Dương đã, nơi đây có là đường hàng hải thông đông tây, có cửa cảng tốt, có thành thị giàu có, hoàn toàn có thể chống đỡ cho nhiệm vụ phòng bị và tiếp tế của một hạm đội hải quân mạnh.
- Ngoài ra Nam Dương sản vật phong thú, nhất là gạo và Tích Thạch nhập khẩu từ Nam Dượng là tối quan trọng với Đại Minh, gạo thì cung cấp nguồn lương thực cho Mân Việt, Tích Thạch nguyên liệu chế tạo tiền đồng. Về điều này Ngô bộ đường khắc có cảm thụ rất sâu.
Trịnh Nhược Tằng cười nói.
- Ha ha ha, Mân Việt nhiều núi ít đất xưa nay không thể tự cung tự cấp.
Ngô Bách Bằng gật đầu:
- Những nơi này ăn gạo Nam Dương đã có vài trăm năm lịch sử rồi.
- Nhưng từ năm Gia Tĩnh kháng Oa, chúng ta không chú ý tới Nam Dương nữa, An Nam, Miễn Điện, Xiêm La những cường quốc Trung Nam này lại thôn tĩnh hỗn chiến với nhau, khiến kẻ khác dễ thừa cơ, gây bất lợi cho sự thống trị của Đại Minh.
Thẩm Mặc nghiêm mặt nói:
- Trật tự Nam Dương quan trọng là ở bán đảo Trung Nam, hiện giờ Đại Minh chỉ còn cái hư danh tông chủ, quan hệ với tông phiên đã cực kỳ yếu ớt.
- Đúng thế.
Ngô Bách Bằng là người rất trí tuệ, nghe Thẩm Mặc và Trịnh Nhược Tằng kiên nhẫn giới thiệu, liền hiểu nhiệm vụ của mình.
- Chuyện này ta và Cao lão, Trương lão trao đổi nhiều lần rồi, cho nên lần này chúng ta xuất chinh Nam Dương là để dựng lại thiên uy Đại Minh, khôi phục trật tự Trung Nam.
Thẩm Mặc nói từng chữ một:
- Vì mục đích này, chúng ta sẽ trú quân tại Trung Nam, đồng thời lập phủ kinh lược Nam Dương.. Tình hình ở đây rất phức tạp, mâu thuẫn quốc gia trùng trùng, các cường quốc như An Nam và Miễn Điện đều đầy hùng tâm, chuyện này khó như lên trời, thế nào, Ngô bộ đường có hứng thú khiêu chiến không?
Ngô Bách Bằng gật đầu mạnh mẽ:
- Hạ quan sẵn sàng làm chức kinh lược Nam Dương này.
Lúc này gió dừng, mặt biển khôi phục yên tĩnh, Hiện càng đã ở trong tầm mắt...
~~~~~~~
Mặc dù quần thần nhà Lê có chuẩn bị tâm lý với uy thế của quân đội thiên triều, nhưng nhìn hạm đội khổng lồ dàng hàng ngang, trước sau hỗ trợ nhau, như một dãy núi hiện lên giữ biển, vẫn hoảng hết cả hồn.
Tới ngay cả Trịnh Tùng cũng sợ đến tái mặt, cảm giác nhỏ bé yếu ớt làm sự tự tin của hắn bị đả kích lớn, lần đầu tiên trong đời hắn cảm thấy mọi chuyện nằm ngoài tầm kiểm soát của mình.
May mà tới lúc đội chiến hạm kia thực sự tới nơi còn mất một thời gian, đủ cho các quần thần khôi phục trấn tĩnh, Thiên cổ đế bất an nói:
- Ta nên thay vương phục vậy...
An Nam theo trào lưu của Trung Nguyên, quân chủ tất nhiên mặc màu vàng. Dù ở Đại Minh lễ nhạc đi xuống, hiện tượng vượt quyền hết sức nghiêm trọng, màu vàng thuộc về đế vương có thể công khai mặc ra đường, chỉ cần đừng thêu ngũ trảo kim long là được. Mặc dù nghĩ đại quan thiêu triều sẽ chẳng thấy lạ nữa, hiện giờ áp lực lớn, Thiên cổ đế lo bị đối phương không vui.
***
Bán đảo Trung Nam là theo cách gọi của người TQ, vì nằm ở phía nam TQ, tức là Đông Dương.
Chương 863: Phiên ly (2)Nửa canh giờ sau chiến thuyền hoàn thành cảnh giới ngoại vi, thuyền vận chuyển bắt đầu đổ bộ lên bến tàu, rất nhanh 5000 quan binh Đại Minh võ trang đầy đủ khống chế bến tàu.
Tới hoàng hôn có quan viên tới truyền quốc vương An Nam cận kiến khâm sai đại nhân.
Thiên cổ đế đã đổi vương phục màu đỏ đứng dậy, Trịnh Tùng cũng đi theo.
Nhưng tới trước tuyến cảnh giới, Trịnh Tùng bị vệ binh ngăn lại bên ngoài, quan tuyên kiến nói:
- Có gọi ngươi không? Chẳng hiểu quy củ gì cả.
Làm Trịnh Tùng thường ngày diễu võ dương oai ngượng đỏ cả mặt.
Thiên cổ đế đứng lại nói:
- Thượng sai, đó là thừa tướng bỉ quốc, xin để ông ấy cùng tiểu vương cận kiến khâm sai đại nhân.
- Đốc sư đại nhân chỉ tuyên quốc vương cận kiến thôi, không gọi thừa tướng.
Quan viên kia sắc mặt không hề thay đổi.
- Nếu thế thần ở ngoài đợi đại vương.
Trịnh Tùng không chịu nổi mất mặt, cười khan đầy ý cảnh cáo với Thiên cổ đế, phất tay áo rời đi.
Mặc dù bị bẽ mặt, nhưng Trịnh Tùng cho rằng, Đại Minh không hiểu tình hình An Nam, tưởng Thiên cổ đế là người có quyền định đoạt, hắn tin sự thực sẽ mau chóng cho Đại Minh biết, An Nam rốt cuộc là của ai.
Thiên cổ đế đi vào rất lâu tới khi trời tối mới ra, nói với Trịnh Tùng khâm sai có lời mời.
- Khâm sai nói với đại vương điều gì?
Trịnh Tùng mặt âm trầm như trời sắp mưa.
- Không có gì cả, ta đi vào đợi rất lâu khâm sai mới ra gặp, hàn huyên vài câu, liền hỏi ta chuyện quân chính. Ta nói sức khỏe không tốt, ít quản việc, đều do thừa tướng quản lý quốc sự. Khâm sai liền mất hứng thú, muốn ta gọi khanh vào.
- Ừm...
Trịnh Tùng sắc mặt hòa hoãn hơn, im lặng một lúc rồi hỏi:
- Tâm tình khâm sai ra sao?
- Không tốt lắm.
Thiên cổ đế thận trọng nói:
- Tựa hồ giận vì chúng ta thiếu chu đáo.
Trịnh Tùng cười lớn, hắn tin khâm sai sẽ mau chóng hiểu ra, muốn thuận lợi ở An Nam, tuyệt đối không thể thiếu sự giúp đỡ của mình.
Hiện cảng kỳ thực chỉ là cảng cá nhỏ, chừng ba bốn nghìn người, vì Đại Minh muốn mượn dùng chỗ này, nên Trịnh Tùng phái binh đuổi hết người dân đi, rồi xây dựng tạm một khu nhà lớn.
Ở An Nam kiến trúc đều xây dựng bằng gỗ, nên làm cũng dễ, lúc này quân Minh cuồn cuộn tiến vào, đã biến nơi này thành một tòa binh thành.
Trịnh Tùng tới cửa hành viên khâm sai, ngẩng đầu lên, nhìn thấy nhìn lá cờ nền xanh chữ vàng viết chữ "Thẩm", hắn có chút kích động, kỳ thực từ nhỏ hắn đã nghe tới đại danh Thẩm Mặc, thậm chí luôn ngầm học theo đối phương, đương nhiên đây thuộc về bí mật không thể nói với người ngoài của quốc công đại nhân.
- Xin thừa tướng đợi một chút, bộ đường nhà chúng tôi sẽ ra nghênh tiếp.
Nghe thấy có người nói chuyện với mình, Trịnh Tùng khôi phục lại tinh thần.
Trịnh Tùng trong lòng vốn có chút bất mãn, nhưng dọc đường thấy quân uy sâm nghiêm của Đại Minh, hắn ý thức được, bất kỳ sự đối kháng nào cũng là lấy trứng chọi đá, phải cố gắng tranh thủ sự ủng hộ của Đại Minh, thu phục đất đã mất, ít nhất cũng phải trấn áp được bắc triều, không cho chúng nam hạ.
Quyết định xong, Trịnh Tùng càng tỏ ra kính cẩn, nói:
- Không dám làm phiền bộ đường đại nhân, tiểu nhân vào bái kiến là được.
Trong lòng thầm thắc mắc, vì sao đốc sư đại nhân lại xưng là bộ đường?
Vào rồi mới biết, thì ra tiếp kiến mình không phải là Thẩm đốc sư, mà là phó soái Ngô Bách Bằng, có điều hắn không dám lộ ra chút bất mãn nào, vì quyền thế đối phương hơn mình rất nhiều.
Ngô Bách Bằng dù là thư sinh, nhưng quanh năm nắm binh, sát khí trên người chẳng hề kém những võ tướng.
Trịnh Tùng đi tới dùng đại lễ tham bái.
Ngô Bách Bằng nhận lễ của hắn xong, nói:
- Ngồi đi.
Có quân sĩ mang ghế tròn lại cho hắn, Trịnh Tùng ngồi xuống, cung kính nói:
- Vương sư đường xa tới đây, tệ quốc chiêu đãi thiếu chu đáo, mong đốc sư, tổng đốc đại nhân lượng thứ.
- Chiêu đã thế là đã tốt lắm rồi.
Ngô Bách Bằng bình thản nói:
- Có thể nhìn ra các vị rất có lòng.
- Cám ơn tổng đốc khích lệ.
Trịnh Tùng tươi cười:
- Không biết ngài gọi tiểu nhân có gì sai bảo.
- Có hai chuyện.
Ngô Bách Bằng nói thẳng:
- Thứ nhất là vấn đề lương thảo của đại quân, lần này xuất chinh có 5 vạn nhân mã, vận chuyển lương thực từ Mân Việt sang thì phiền phức, mà lương thực Mân Việt vốn nhập khẩu từ Nam Dương, nên muốn mua luôn ở Nam Dương cho đỡ tốn. Trước khi đại quân xuất phát đã gửi công văn tới Xiêm La, Miễn Điện, Chân Tịch, Chiêm Thành vận chuyển giúp tới An Nam, không biết chuyện này đã làm ổn thỏa chưa?
Trịnh Tùng không tin đại quân xuất phát lại không mang đủ lương thực, đối phương yêu cầu như thế chẳng qua thăm dò thái độ các nước Nam Dương với Đại Minh mà thôi, công văn đã tới hai tháng trước, trừ Chiêm Thành bị hoa kiều khống chế, các nước khác không có bất kỳ hành động nào.
Là đệ nhất cường quốc Trung Nam, Miễn Điện thậm chí còn bắt đầu tăng cường quân bị, phảng phất như sắp nghênh tiếp không phải là tông chủ mà là kẻ xâm lược cực kỳ nguy hiểm.
Có điều Trịnh Tùng cũng hiểu, nếu chẳng phải mình bị ép tới đường cùng thì cũng chẳng tích cực như thế, vì tuy nói các nước Nam Dương xưa nay tuy là phiên quốc của thiên triều, nhưng quan hệ này chỉ nằm ở việc triều cống, không can thiệp vào nội chính phiên quốc, ít nhất hơn trăm năm qua là thế.
Các lộ chư hầu trên bán đảo Trung Nam quen với quan hệ này, thậm chí đa số thời gian, bọn họ quên luôn cả sự tồn tại của tông chủ Đại Minh.
Nhưng gần đây bọn họ phát hiện Đại Minh đã thay đổi rồi, bất tri bất giác, cửa cảng các nước neo đậu đầy hải thuyền tới từ Đại Minh, trên chợ cũng xuất hiện đủ các loại thương phẩm tới Đại Minh.
Người Hoa xuất hiện ở biên cảnh các nước ngày một tăng, trước kia các chư hầu đều coi người Hoa là dê béo, vì họ biết những người này rời Đại Minh kinh thương, chẳng những không được Đại Minh bảo hộ, mà một khi bị bắt còn bị xử tử với tội danh phản quốc, cho nên khi các chư hầu thiếu tiền luôn nghĩ tới người Hoa trước tiên.
Nhưng hiện nay Hoa kiều ở Nam Dương rõ ràng đoàn kết hơn rất nhiều, vì sau lưng bọn họ có một công ty Nam Dương hùng mạnh chống lưng.
Công ty này thành lập chưa tới mười nam mà thực lực cực kỳ khủng bố, bọn họ lập văn phòng ở những cảng và thành thị người Hoa tụ cư, văn phòng này sẽ theo yêu cầu người Hoa đương địa và thực tế tình huống thiết lập đội ngũ bảo an cường đại.
Thế lực Hoa thương phát triển mạnh làm các nước chư hầu nửa mừng nửa lo, mừng là Hoa thương giúp bọn họ tạo ra tài phú chưa từng có, lo là công ty Nam Dương đứng sau kia quá mạnh. Chỉ cần ngày nào con quái vật khổng lồ này còn tồn tại, các nước chư hầu khó ngủ ngon.
Hiện giờ Đại Minh muốn mượn đường diệt phản tặc, còn yêu cầu bọn họ giúp lương thảo, càng khiến các lộ chư hầu bất an, bọn họ chỉ sợ quân đội Đại Minh ở lỳ không đi.
Nhưng bọn họ không dám từ chối thẳng thực, vì thế sau khi cân nhắc thiệt hơn, các lộ chư hầu không hẹn mà cùng dùng sự im lặng thể hiện thái độ tiêu cực.
Trịnh Tùng hiểu rõ tâm tư của những người đó, chỉ có thể nói một tiếng "ngu xuẩn", dù Đại Minh không mang đủ quân lương thực thì có thể thông qua mạng lưới Hoa thương mua lương thực, căn bản không cần các lộ chư hầu, chẳng qua là đòn thăm dò thôi.
Nếu các ngươi đã không thức thời, ta cũng chẳng cần nói giúp các ngươi, vì thế thêm giàu thêm mỡ phản ánh tâm lý kháng cự của các nước, còn bản thân dù dốc cả gia sản cũng không để quan binh thiên triều mang bụng đói đánh trận.
Hắn tốn công như thế là hi vọng Đại Minh ý thức được, An Nam là nước duy nhất có thể tin tưởng được ở Trung Nam.
Ngô Bách Bằng từ đầu tới cuối sắc mặt bình tĩnh, nghe hết mới nói:
- Vấn đề lương thảo cần phải được giải quyết, nếu không hai ta đều phải đi gặp diêm vương.
Chương 863: Phiên ly (3)Xong chuyện lặt vặt, Ngô Bách Bằng hỏi sang chuyện quân sự, đây mới là đề tài Trịnh Tùng cảm thấy hứng thú, kể tỉ mỉ tình hình địch ta hai bên, đồng thời đưa ý kiến của mình, vỗ ngực nói:
- Đương nhiên đánh thế nào do đốc sư và tổng đốc đại nhân định đoạt, tiểu nhân nguyện ý đi trước làm tiểu tốt, gặp núi mở đường, gặp sông bắc cầu.
Ngô Bách Bằng rất hài lòng với thái độ của hắn, không ngừng gật đầu.
Trịnh Tùng nhắm chuẩn thời cơ, lấy một phong thư trong lòng ra, nói:
- Tổng đốc đại nhân, ngài và đốc sư thật vất vả, đây chút tâm ý không đủ tỏ lòng thành kính, mong ngài thu lấy.
Ngô Bách Bằng đưa đẩy vài câu rồi quay mặt đi, Trịnh Tùng đặt phong thư lên bàn rồi cáo lui.
Hắn đi rồi Ngô Bách Bằng lấy thứ bên trong phong thư ra, đó là hai tấm ngân phiếu của Hối Liên, tờ 10 vạn và một tờ 5 vạn, khỏi phải nói cũng biết cái nào tặng ai...
Cùng lúc Ngô Bách Bằng tiếp kiến Trịnh Tùng thì ở hậu đường Thẩm Mặc bày tiệc chiêu đãi đại biểu Hoa thương các nước.
Vì kiếm sống phải xa rời quê hương, lại bị tổ quốc coi là phản đồ, đó là nỗi đau vĩnh viễn trong lòng Hoa kiều.
Nhưng hiện giờ Thẩm Mặc thứ phụ nội các, không ngờ lại thiết yến chiêu đãi, đây là một sự thừa nhận mà các Hoa kiều nằm mơ cũng không dám nghĩ tới.
Vì thế sau khi nhận được lời mời của Thẩm Mặc thông qua Cty Nam Dương vào tháng trước, qua thời gian im lặng ngắn ngủi, các Hoa kiều đều hăng hái báo danh...
Phàm là người có chút thân phận, đều hi vọng được gặp Thẩm lão một lần, gì chưa nói sau khi trở về giá trị bản thân tăng vọt, ít nhất trước khi những thổ ti, phiên vương định làm bừa phải cẩn nhắc chẳng may bọn họ cáo trạng tới thiền triều thì sẽ ra sao?
Các Hoa kiều biểu hiện nhiệt tình tới mức làm Trịnh Nhược Tằng dở khóc dở cười, tổng cộng có 5 vạn người báo danh, nếu mời hết Thẩm lão phá sản là cái chắc.
Vì thế sau khi xin chỉ thị của Thẩm Mặc, ông ta tuyên bộ lại, chỉ có ba mươi người được tới làm khách, chiếu tỉ lệ Hoa kiều các nơi phân phối.
Tuyệt đại đa số biết mình không đủ tư cách, dù là phú thương hào cường cũng không dám nằm mơ nữa.
Nhưng những tên gia hỏa xưng bá một phương coi có được hạn ngạch này thành sự chứng minh cho thực lực của mình. Vì thế đại lão các nơi sử dụng hết chiêu số đấu đá với nhau.
Cuộc long tranh hổ đấu này khiến các nương Nam Dương từ vương công đại thần tới lê dân bách tính rất hứng thú, sự quan tâm bất ngờ làm các đại lão cưỡi hổ khó xướng, thề có đánh nhau vỡ đầu cũng phải kiếm một suất tham dự yến tiệc này.
Cục diện hơi chút mất khống chế, cứ tiếp diễn sẽ ảnh hưởng tới đoàn kết của Hoa Kiều, vì thế Trịnh Nhược Tằng đành xin Thẩm Mặc tăng thêm nhân số gấp ba, đồng thời rút thăm quyết định, thế mới dần dẹp được cuộc tranh đấu này.
Thẩm Mặc rất coi trọng yến tiệc này còn đích thân hỏi tới thực đơn của bữa tiệc, đồng thời đề xuất yêu cầu, thức ăn yến hội sử dụng đều phải tới từ quốc nội.
Khi được Trịnh Nhược Tằng giới thiệu, những tân khách mới được biết tất cả thực ăn bao gồm hoa qua tươi đều tới từ Đại Minh, mọi người đều không hiểu vì sao Thẩm lão lại làm việc tốn kém đến thế, chẳng lẽ đơn thuần chỉ vì muốn phô trương sao?
Thấy ánh mắt khó hiểu của mọi người, Thảm Mặc mỉm cười nói:
- Trong lòng các vị có cảm tưởng gì, cứ nói thoải mái.
Ở đây toàn là người thông minh, biết khi nào nên thu mình, khi nào lên biểu hiện. Giờ Thẩm lão đã hỏi, tất nhiên phải hăng hái trả lời, dù có trả lời sai cũng chẳng sao, ít nhất còn có thể để Thẩm lão nhớ mặt.
- Ở nơi sứ ngươi, ăn được thức ăn quê hương, làm tiểu nhân không kìm được nước mắt, nổi lòng nhớ quê...
Đó là phái đa cảm.
- Nhìn những thứ hoa quả tươi như mới này, từ khi hái xuống tới nay, tối đa cũng chỉ chưa tới một ngày, có thể thấy trung nam cách Đại Minh không phải ở chân trời góc biển như người ta nghĩ.
Đó là phái lý trí.
Thế là tất cả nhiệt tình trả lời với đủ loại lý do, Thẩm Mặc chỉ cười không đáp, hiển nhiên là không hài lòng với đáp án.
Lúc này ở gian ngoài, một nam tử trên 40 tuổi đứng dậy, chắp tay với Thẩm Mặc:
- Đốc sư đại nhân, tiểu nhân hiểu tâm ý ngài rồi.
- Ồ, bao nhiêu người chưa nói trúng, vì sao ngươi dám khẳng định như thế?
Thẩm Mặc mỉm cười hỏi.
- Kỳ thực tâm ý của ngài đã khắc lên bộ đồ ăn rồi.
Người kia tự tin nói.
Mọi người nghe vậy đều cầm lấy chiếc đĩa trước mặt lên xem, không khỏi đều thốt lên:
- Thân thổ bất nhị.
- Đúng.
Thẩm Mặc ngồi thẳng người:
- Ngươi có biết hàm nghĩa của nó không?
Người kia kích động đáp:
- Tiểu nhân là giáo đồ của Phật, đã thấy bốn chữ này trên kinh A Di Đà, tiểu nhân cho rằng ngài dùng nó ở trường hợp này hẳn là có ý nói, chúng ta là người Hoa Hạ, thì phải ăn đồ Hoa Hạ sản xuất, suy ra, Hoa kiều tuy xa tổ quốc, nhưng không được quên, mình sinh là người Đại Minh, chết là ma Đại Minh.
- Nói hay lắm.
Trong tiếng reo hò của mọi người, Thẩm Mặc đích thân nâng chén mời người kia:
- Xin hỏi cao tính đại danh viên ngoại? Là nhân sĩ ở đâu, hiện đang ở chỗ nào?
- Bẩm đại nhân, tiểu nhân là họ Lý, tiện danh Ngụ Tây, là người An Bình Phúc Kiến, hiện ở Lữ Tống.
Thẩm Mặc lại hỏi hắn kinh doanh gì, ra biển khi nào, làm mọi người nhìn hắn vừa hâm mộ vừa ghen tị. Người đó đáp:
- Tiểu nhân 12 tuổi đã theo người ta tới Quảng Đông kinh doanh, về sau tới Áo Môn, học ngoại ngữ, giao dịch với người Tây. Năm Gia tĩnh thứ 44, Cty Nam Dương tuyển mộ người tới Lữ Tống, mới đầu không ai dám mạo hiểm, nhưng tiểu nhân làm ăn với người Tây, biết tầm quan trọng của Lữ Tống, liền báo danh đầu tiên. Thêm vào tiểu nhân biết ngoại ngữ, được ủy hiệm làm đổng sự sở giao dịch Lữ Tống...
Hắn nói rất hời hợt, nhưng làm mọi người phải nhìn với con mắt khác.
Thẩm Mặc lập tức mời hắn ngồi vào bàn tiệc chính, rồi mượn chủ đề Lý Ngụ Tây nói, đem bốn chữ "Thân thổ bất nhị" tặng cho mỗi vị ở đây, trừ muốn mọi người nhớ kỹ tư tưởng yêu nước ra, thì có được chữ cả Thẩm các lão, là sự đảm bảo.
Tất nhiên bọn họ không thể để Lý Ngụ Tây độc chiếm vinh quang, qua vài tuần rượu liền có người nói:
- Vương sư lần này tới, một là đại chấn quốc uy, hai là chống lưng cho kiều dân chúng tôi. Phàm có chỗ nào cần tới, đại nhân cứ sai bảo, nếu chúng tôi chỉ bỏ chín phần sức lực, thì không bằng chó lợn.
Có người lại nói:
- Nghe bảo triều đình lệnh các nước giúp quân lương, các phiên vương kia lại không có hành động gì, đúng là cực kỳ ngu xuẩn.
- Đúng, cầu người không bằng cầu mình, người Hoa tới Nam Dương đã mấy chục năm, khai hoang trồng ruộng, triều đình cần lương thảo, sao lại bỏ gần tìm xa, chúng tôi sẵn lòng gánh hết.
Thế là người quyên năm vạn thạch, người góp ba vạn thạch, thoáng cái đã hơn 100 vạn thạch, đủ đại quân ăn ở An Nam hai năm.
Tình cảm này làm Thẩm Mặc cảm động không thôi, vì thế cẩm chén rượu đứng dậy cao giọng nói:
- Nói thẳng ra, các vị bị đãi ngộ không công bằng của triều đình, triều đình cho các vị là phản dân nghịch thần, không phải là người Hoa Hạ nữa. Cho dù tới nay triều đình quyết định trả lời công bằng cho mọi người, vẫn có người nói các vị là hạng vong mạng chỉ biết có lợi. Ta không phản bác, vì ta biết lời nói là vô nghĩa, ngươi muốn nói lý, muốn làm người ta phục là không thể.
Rồi giơ cao danh sách quyên góp, nói:
- Nhưng đây là cống hiện to lớn, sẽ khiến tất cả phải ngậm miệng. Hoàng thượng sẽ thấy, thiên hạ sẽ thấy, các vị mặc dù sống ở hải ngoại, nhưng vẫn là con dân trung thành của Đại Minh.
Những lời của Thẩm Mặc làm Hoa kiều ở đây sụt sùi xúc động, bọn họ nhớ lại trước thời có Cty Nam Dương chống lưng, những phản dân thiên triều bọn họ mối lần bị chính quyền đương địa bóc lột tái phú kiếm được bằng máu và nước mắt, vì thế các Hoa kiều liền quý trọng tất cả những gì đang có trước mặt, cho nên hội Hoa kiều mới yêu quý mới nhiệt tình với Cty Nam Dương như vậy.
Bọn họ vét túi hỗ trợ đại quân triều đình, một là hi vọng quân đội lập nên thiên uy Đại Minh, hai là hi vọng sau này triều đình ban thưởng cho họ chút chiếu cố, ít ra là thừa nhận bọn họ...
Có hai điều này các Hoa kiều mới có thể đứng thẳng lưng ở Nam Dương, không phải nhìn sắc mặt chính quyền được địa làm việc nữa.
Chương 864: Hội Minh (1)- Các vị yên tâm, ngày tháng đó không quay lại nữa.
Thẩm Mặc giọng vang vang:
- Hôm nay ta đại biểu triều đình phát hộ chiếu Đại Minh cho mọi người.
- Hộ chiếu?
Mọi người chưa nghe qua cái từ mới mẻ này.
Lúc này có người bê từng khay đồng tới, bên trên là "quyển sách" to bằng bàn tay bằng đỏ thẫm, trông hết sức trang trọng.
Thẩm Mặc cẩm một quyển lên, mọi người nhìn thấy bốn chữ vàng "hộ chiếu Đại Minh", phía dưới là hàng chữ nhỏ " Đại Minh lễ bộ, hộ bộ, binh bộ liên danh ký phát" Dù còn chưa hiểu thứ này làm gì, nhưng tim mọi người đã đập thình thịch.
Liền nghe Thẩm Mặc nói:
- Hộ là bảo hộ, chiếu là chiếu cố, hợp lại là bảo hộ chiếu cố... Đây là điệp văn ba bộ Đại Minh phát ra, yêu cầu các nước bảo vệ chiếu cố cho con dân Đại Minh ở quốc gia sở tại.
Thẩm Mặc sai người lần lượt phát ra, các Hoa kiều mở ra xem, bên trong là tên tuổi, quê quán, tuổi tác, giới tính, do hộ bộ Đại Minh đảm bảo, trang hai là thời gian xuất cảnh, lý do.. v.. v.. v.. Bọn họ lúc này mới hiểu thì ra trước kia muốn bọn họ cung cấp tư liệu tỉ mỉ bản thân không phải là điều tra mà là chứng minh thân phận bọn họ.
Toàn bộ lệ nóng hoen mi, bởi vì trang cuối còn có hàng chữ làm bọn họ khắc cốt ghi lòng:" Nhớ kỹ, đây là con dân Đại Minh, bất kể ở đâu, khi gặp phải bất công đều có thể cầu cứu nha môn quân chính Đại Minh gần nhất, tổ quốc vĩnh viễn là hậu thuẫn mạnh mẽ nhất của các ngươi.
Chẳng biết người nào hô đầu tiên, tất cả mọi người cùng kích động hô vang:
- Đại Minh vạn tuế, tổ quốc vạn tuế.
Nếu như trước đó các Hoa kiều hiến quân lương chỉ xuất phát từ góc độ lợi ích, giờ nhìn thấy tấm hộ chiếu cùng với lời hứa trang trọng kia, một tình cảm máu huyết nối liền tổ quốc lan khắp cơ thể, làm những con người phong sương tim cứng như sắt này phải nghẹn ngào xúc động, như đứa trẻ rời nhà bao năm được vùi đầu vào lòng mẹ...
Lòng Hoa kiều từ đó vĩnh viễn thuộc về Đại Minh.
Yến hội tới tận khuya mới kết thúc, những người thường ngày bình tĩnh lý trí đều uống say khướt, không một ai ngoại lệ, Thẩm Mặc sai người dìu bọn họ vào phòng khách nghỉ ngơi, tin rằng mỗi người đêm nay đều sẽ có giấc mộng đẹp.
Trong không khí kích động đó, Thẩm Mặc tất nhiên cũng uống không ít, ngay cả Ngô Bách Bằng về sau mới gia nhập cũng lờ đờ say, người ngoẹo ra trên ghế, giơ ngón cái lên với Thẩm Mặc:
- Dùng một cuốn sách nhỏ thu hết lòng người Hoa kiều Nam Dương, hạ quan tin bọn họ còn yêu nước hơn cả người trong nước, cao, đại nhân thật cao tay.
Thẩm Mặc dùng khăn ướt lau mặt, uống canh tỉnh rượu nói:
- Chẳng qua là sửa sai cho đúng mà thôi, trước kia triều đình quản lý hộ khẩu nghiêm khắc, bách tính rời quê trăm dặm cần có giấy của quan phủ, còn ra biển thì cấm chỉ. Nhưng sao nào? Nhân tâm như nước, dân động như khói. Lưu dân phương bắc như cỏ, lê dân Mân Việt càng kéo nhau vượt biển tới Nam Dương sinh sống. Quan phủ không nghĩ cách để người dân an cư lạc nghiệp, có ngày về quê, luông nghĩ cách hãm hại người khổ cực phải xa quê, đó là coi bách tính như kẻ thù, bách tính đương nhiên đối đãi lại đúng như thế.
- Đúng thế, bách tính đâu phải rau trong vườn, họ có chân tay có tư tưởng, quê hương không sống được, bọn họ phải đi, có ngăn cũng chẳn ngăn nổi.
Ngô Bách Bằng ở Quảng Đông nhiều năm, cảm thụ rất sâu:
- Có câu ngăn không bằng thông, đã có mấy chục vạn Hoa kiều định cư ở Nam Dương rồi, bọn họ nắm giữ một nửa đất đai và tài phủ ở Nam Dương, chúng ta vì sao ngăn bọn họ ngoài cánh cửa tổ quốc.
- Đúng thế, phải thay đổi quan niệm.
Thẩm Mặc gật đầu:
- Trước kia triều đình luôn cho rằng, bách tính ra nước ngoài là thất thoát nhân khẩu, dao động căn cơ thống trị, nhưng thực tế, bách tính rời khỏi Hoa Hạ vẫn là con cháu Viêm Hoàng, chúng ta vì sao không nhìn ở góc độ khác, nhìn nhận "phàm người Hoa tới đâu, chỗ đó đều là Hoa Hạ?"
Ngô Bách Bằng vỗ tay tán thưởng:
- Chúng ta muốn Nam Dương vĩnh viễn là phiên quốc của Đại Minh, chỉ dựa vào vũ lực và thủ đoạn là không đủ, còn phải dựa vào những Hoa kiều này ủng hộ, như thế chúng ta mới cắm rễ lâu dài được ở Nam Dương.
- Nói hay lắm.
Thẩm Mặc vỗ mông lại:
- Ta không nhìn nhầm, kinh lược Nam Dương đầu tiên sẽ thuộc về huynh. Cho nên huynh phải làm rõ, quân hệ giữa chúng ta và Nam Dương là gì, chúng ta muốn đạt được mục đích gì ở Nam Dương, kẻ thù thực sự của chúng ta là ai?
Ngô Bách Bằng gật đầu:
- Hạ quan cố khắc phục khó khăn để làm vậy.
Binh quý ở chỗ thần tốc, đại quân mau chóng xuất phát, ba vạn quân đội Đại Minh, cùng ba vạn quân nhà Mạc đi trước dẫn đường, thêm vào bốn vạn dân phu, rầm rộ bắc phạt.
Lúc này tin quân Minh đổ bộ lên Hiên cảng giúp nam triều bắc phạt đã truyền khắp bán đảo Nam Trung, trong biên cảnh An Nam phong vân biến đổi không còn như ban đầu nhà Mạc thắng lợi trong tầm mắt, văn võ nhà Lê kéo nhau ra hàng nữa. Đại quân chưa xuất phát, đã có không ít công khanh đầu hàng trước kia ngầm phái người tới, biểu thị sẵn sàng quay về, giúp thiên binh thảo phạt bắc triều.
Thậm chí các quốc gia như Miễn Điện cũng bày tỏ nguyện ý xuất binh tương trợ, mau chóng tiêu diệt thế lực phản động bắc triều.
Nhà Mạc thấy tình thế ngày càng bất lợi, tất nhiên lo lắng trùng trùng, nhưng thống nhất ngay trước mắt, không muốn bỏ cục diện tốt đẹp, cuối cùng qua đấu tranh kịch liệt quyết định, chúng ta có hơn chục vạn đại quân, nhân số vẫn chiếm ưu thế, sao có thể không chiến mà hàng.
Vì thế chuẩn bị tiến hành kháng cự, Khiêm vương Mạc Kính Điển lệnh bình dân bốn trấn xây ba tầng hào lũy ngoài thành Đại La, thành lũy cao hơn thành Thăng Long mấy trượng, hào cắm chông tre kéo dài mấy chục dặm, đồng thời phái đại tướng Nguyễn Quyện thống lĩnh tứ trấn, hội chiến với quân Lê.
Trịnh Tùng chỉ huy quân nhà Lê vờ thua, dẫn quân nhà Mạc vào chỗ phục binh của Đại Minh, quân Mạc bị chém hơn nghìn, bị bắt hơn 600, thảm bại rút lui.
Cuối tháng Chạp năm Long Khánh thứ năm, liên quân qua chuẩn bị chu đáo, phát động tổng tấn công nhà Mạc.
Nam bắc triều đã giằng có mấy chục năm, đều có cơ hội dồn nhau vào chỗ chết, hiểu đối phương thậm chí còn hơn hiểu bản thân, không biết lập kế làm sao diệt đối phương biết bao lần, nhưng thực lực có hạn, nên kế hoạch tốt chỉ có thể dừng ở trên giấ.
Giờ có quân Minh hỗ trợ, nam triều mau chóng hổi sinh, mau chóng thu được đất mất, chuyển thủ thành công, chấp hành kế hoạch phủ bụi bao năm...
Liên quân bắc phạt tiến tới đâu thắng tới đó, bảy ngày sau liên quân công chiếm Kinh Bắc, đồn trú phủ Thuận An, sau di sư sang Du Sơn.
Trong thời gian đó, quân Minh thể hiện sức chiến đấu mạnh mẽ, vũ khí lợi hại, phối hợp ăn ý, bách chiến bách thắng...
Liên quân thế như trẻ tre, tình hình tiến cuộc chiến tiến triển thần tốc, tới cuối tháng Giêng nhà Mạc đã đánh mất quá nửa bản đồ.
Tháng hai năm Long Khánh thứ sáu, Mạc Kính Điển điều động toàn bộ binh lực.. Đương nhiên quân phòng thủ phương bắc không dám rút vệ nếu không bị quân Quảng Tây nam hạ giáp kích.
Tổng cộng tứ trấn tứ vệ ngũ phủ hơn mười vạn binh mã, nghênh địch ở bình nguyên Hồng Hà, doanh trại nổi liền liên tiếp, ngày lấy trống báo hiệu, đêm dùng lửa liên lạc, lấy nhàn đánh mỏi, chuẩn bị quyết chiến.
Ba ngày sau liên quân tới, dùng ba mươi khẩu đại pháo oanh kích liên tục, voi nhà Mạc kinh hoàng quay đầu bỏ chạy, phá vỡ trận tuyến, nhà Mạc hoảng sợ rút lui, trái bỏ mặc phải, trước bất chấp sau, đội ngũ rối loạn, liên quân thừa thắng truy sát... Mạc Mậu Hiệp và Mạc Kính Điển dẫn tàn binh trốn về Thăng Long.
Liên quân chia ra tấn công thành Thăng Long, Mạc Mậu Hiệp thấy quân nhà Lê ép tới, rút khỏi kinh thành, lệnh Mạc Kính Điển, Nguyễn Quyện ở lại bảo vệ Thăng Long.
Quân nhà Lê thấy chiến thắng sắp tới nơi sĩ khí tăng vọt, quân Mạc đại đa số là người Thăng Long, vì bảo hộ người nhà, phải ra sức chiến, đấu hai bên tử thương thảm liệt.
Quân Minh dùng pháo oanh kích tường thành, ba ngày sau bắn sập một đoạn dài mười trượng, Mạc Kính Điển không may vùi trong đống tường thành đổ, mất thống soái, tướng lĩnh bỏ thạy chạy, Nguyễn Quyện bị bắt, liên quân công chiếm Thăng Long.
Chương 865: Hội Minh (2)Hoàng đế nhà Mạc Mạc Mậu Hiệp chỉ là đứa trẻ, thấy binh bại như núi đổ sợ hãi khóc lóc không thôi, thái hậu hỏi Ứng vương Mạc Đôn nên phải làm sao, Mạc Đôn nói chỉ còn cách lên phương bắc trới Trấn Nam Quan.
Trịnh Tùng xua quân đuổi tới cách Trấn Nam Quan mấy chục dặm thì không dám đuổi nữa, nếu không sẽ thành vật săn mất, đành ủ rũ về thành Thăng Long chuẩn bị tụ họp với đại quân.
Chiều ngày hôm sau về tới thành Thăng Long, Trịnh Tùng nghe nói Du Đại Du muốn mời mình ăn cơm, tắm rửa xong Trịnh Tùng bỏ chiến bào, mặc thường phục dẫn mấy chục vệ sĩ tới quân doanh Đại Minh phó yến.
Thị vệ trưởng của Du Đại Du nói đại soái đợi bên trong, Trịnh Tung không nghi gì tới thằng đại trướng, vệ sĩ của hắn tất nhiên có người đưa tới chỗ khác uống rượu.
Vào trong chẳng thấy tiệc đâu, cũng chẳng thấy Du Đại Du, chỉ thấy Tùng quân công Nguyễn Tùng em vợ Thiên cổ đế nghiêm nghị đứng đó.
- Sao ngươi lại ở đây?
Trịnh Tùng cảnh giác hỏi, vừa nói vừa lùi khỏi nơi quái quỷ này.
Nhưng đằng sau xuất hiện mẫy võ sĩ cầm đao, mặc trang phục thị vệ đại nội nhà Lê...
Sử chép, Trịnh Tùng sau khi thay Trịnh Cối tự lập làm thái úy tả thừa tướng, sau khi lên thượng quốc công, quyền binh ngày càng lớn, ngày càng tỏ ra bất thần, thỉnh thoàng nói có ý thay triều đổi đại.
An Nam vương Lê Duy Bang lo lắm, mật mưu cùng đại thần diệt trừ, vì thế sau khi bắc phạt kết thúc, dụ vào quân doanh thiên triều, tuyên cáo mấy chục tội lớn, vỗ về quân tốt, triều cục từ đó ổn định...
Lại nói về lần Thẩm Mặc diện kiến Lê Duy Bang, mang theo thái độ còn nước còn tát, hôm nay không nói, sau này không còn cơ hội nữa, sau khi gặp Thẩm Mặc, chưa nói được vài câu Lê Duy Bang khóc lóc nói mình bị quyền thần khinh hiếp, nguy trong sớm tối, vừa rồi trước mặt quần thần Trịnh Tùng nói, nếu như mang một chén rượu độc phát tác chậm tới trước mặt, đại vương dám cự tuyệt không?
Phải nói Lê Duy Bang cũng chẳng phải thứ tử tế, Trịnh Tùng tuy nói thế thật, nhưng ý là không thể cự tuyệt đại quân thiên triều....
Có điều hiện quả không tệ, Thẩm Mặc đùng đùng nổi giận:
- Hạng loạn thần tặc tử này không thể giữ được.
Lê Duy Bang liền xin Đại Minh giúp đoạt lại quyền bính, khóc lóc nói:
- Chỉ cần thiên triều ra mặt giúp tiểu vương, tiểu vương nguyện dâng quốc thổ, khôi phục làm quận huyện.
Thẩm Mặc cảm thấy hoang đường, năm xưa chính Lê Lợi tổ tiên của Lê Duy Bang cầm quân tạo phản, ép Đại Minh lui binh, lập nên nhà Lê, giờ hậu nhân Lê Lợi lại muốn hiến quốc thổ cho Đại Minh khôi phục quận huyện, đoán chừng Lê Lợi phải tức giận đội mồ sống lại.
Có điều Thẩm Mặc sớm có ý ly gián quần thân nhà Lê, vì thế trả lời:
- Đại vương có tâm tư này, tin rằng bất kể là bách tính An Nam hay hoàng đế bệ hạ đều cảm thấy vui mừng. Nhưng chuyện này hạ quan không có quyền tự quyết...
Lê Duy Bang sắp tuyệt vọng thì y đổi lời:
- Thế này vậy, đợi sau này hạ quan ban sư về triều, đại vương theo quân hạ quan cùng tới kinh, đích thân kiến nghị với hoàng đế bệ hạ.
- Vâng, vâng, xin nghe đại nhân an bài.
Lê Duy Bang vội hỏi:
- Vậy xin hỏi đại nhân, chúng ta làm sao trừ tên tặc tử kia.
- Hiện giờ nếu động thủ khó tránh ảnh hưởng tới sĩ khí, bất lợi đại cục bắc phạt.
Lê Duy Bang lo lắng hỏi:
- Nhưng một khi hắn đánh hạ Thăng Long, công lao càng lớn, há chẳng phải càng khó đụng vào hắn sao?
- Người thiên hạ không nhìn tình tiết, chỉ nhìn kết quả, nam triều thiếu chút nữa bị bắc triều diệt quốc, không ai để ý hắn đã phải nỗ lực thế nào. Giống thế, thiên hạ chỉ thấy thiên binh tới, nam triều mới thu phục được đất đã mất, Trịnh Tùng chỉ có thể tính là cáo mượn oai hùm thôi...
Thẩm Mặc trầm tư một lúc rồi nói:
- Tới khi ấy bắc phạt thắng lợi, cũng là lúc hắn thả lỏng nhất, ta bảo Du Đại Du thiết yến trong quân doanh, đại vương phái tâm phúc tuyên chỉ, Trịnh Tùng nếu nghe thì bỏ qua, nếu dám kháng chỉ thì bắt lấy, sau đó đem tội của hắn công bố ra toàn quân.
Lê Duy Bang bao năm qua tính hết mưu kế, nhưng chưa bao giờ nghĩ tới cách thô bạo như vậy, bất giác sững người, không biết tiếp lời ra sao.
Thẩm Mặc giải thích:
- Họ Trịnh gây dựng thế lực bao năm, đại vương nếu muốn từng bước đoạt quyền là không được, vì nếu có chút dị động gì, ắt sẽ cá chết lưới rách ngay, cục diện khó thu thập. Không bằng thừa lúc hắn không phòng bị bắt lấy, sau đó thong thả xử lý là được.
- Nếu quân đội không nghe ước thúc thì sao?
- Hạ quan nghe nói Triết Tĩnh công có hai vị công tử, vậy vì sao quyển lực lại rơi lên người Trịnh Kiểm là con rể?
Triết Tĩnh công là Nguyễn Cam, là vị kiến lập nhà hậu Lê, đưa Lê Trang Tông lên ngôi.
- Chuyện này à ?
Lê Duy Bang nói nhỏ:
- Khi ấy Trịnh Kiểm theo bên Triết Tĩnh công nhiều năm, quyền lực rất lớn, mà hai nhi tử của Triết Tĩnh công lại quá trẻ, đấu không nổi ông ta.
- Hai vị công tử của Triết Tĩnh công còn không?
Thẩm Mặc hỏi:
- Thứ tử Nguyễn Hoàng vẫn còn sống.
- Quan hệ với họ Trịnh ra sao?
- Đương nhiên không tốt, nhưng họ Trịnh thế lớn, nên phải cẩn thận ứng phó, nghe nói họ Trịnh ám sát ông ta nhiều lần, nhưng ông ta đều tránh được.
- Vậy để ông ta tới tuyên chỉ đi.
Thẩm Mặc trầm giọng nói.
Vì thế khi Nguyễn Tùng tuyên bố vương lệnh với Trịnh Tùng, Nguyễn Hoàng cũng xuất hiện trong quân doanh, tuyên bố hai đạo thánh chỉ, một trọng thưởng quan binh và người nhà ở hậu phương. Tiếp đó là đạo thứ hai, tuyên bố mười tội nhà họ Trịnh, trong đó có tội "độc sát Triết Tĩnh công", cùng với "mưu sát trưởng tử của Triết Tĩnh công".
Quan binh nhà Lê còn chưa tỉnh lại từ vui mừng thắng lợi thì nghe tin dữ, khó tin họ Trịnh lại hết đời như thế, cốt cán họ Trịnh không thể bó tay chịu trói, bắt lấy Nguyễn Hoàng, yêu cầu thả Trịnh Tùng. Mặc dù ý chỉ nói "chỉ họ tội họ Trịnh, không nói người khác", nhưng đại bộ phận quan binh thói quen nghe lời họ Trịnh, nên không ai phản đối.
Quân Minh lúc này cảnh báo, ngang nhiên kháng lệnh là binh biến, nếu không lập tức giao kẻ cầm đầu, sẽ phụng lệnh An Nam vương tiêu diệt chúng.
Quân đội nhà Lê giờ mới ý thức được, đại vương khai đao với họ Trịnh là được quân đội thiên triều ủng hộ.
Khi đánh thành Thăng Long, quân Lê đã hao tổn hết tinh lực, không còn ý tái chiến nữa, liền giao người nhà họ Trịnh, phục tùng An Nam vương.
Trên đường áp giải Trịnh Tùng về Thanh Hóa, mấy chục chiếc thuyền từ Hồng Hà ra biển nam hạ, ai ngờ nửa đường gặp bão, thuyền chìm người chết, không một ai sống sót.
Nghe tin này Lê Duy Bang khóc lớn nói với đại thần:
- Cô vốn định gặp Trịnh công rồi trách măng một phen, sau đó miễn tội, sau này trị quốc sao thiếu Trịnh công được...
Chúng thần biết là giả dối, nhưng hiện giờ Lê Duy Bang được Đại Minh chống lưng, ai dám nói gì.
Lúc này phía bắc truyền tin tức Mạc Mậu Hiệp và Mạc Đôn chạy tới biên cảnh, đầu hàng quân Minh, thống soái quân Minh Ân Chính Mậu tiếp nhận, đồng thời yêu cầu họ giúp tiêu diệt Vi Ngân Báo.
Vi Ngân Báo hai mặt thụ địch, lại mất tiếp tế, cuối cùng một tháng sau bị thủ hạ giết chết, nộp đầu xing hàng.
Phản loạn Vi Ngân Báo kéo dài hơn mươi năm cuối cùng đã bị dập tắt.
Nhưng thực sự làm bán đạo Trung Nam chấn động là quân Minh mất hai tháng đánh tan chính quyền nhà Mạc sắp thống nhất An Nam, các chư hầu tới An Nam khao quân, xin thiên triều tha thứ tội thất lễ trước kia.
Thẩm Mặc rất khách khí, phái sứ giả tới nói nhà Lê là quốc vương An Nam được thiên triều sắc phong, quân đội thiên triều có nghĩa vụ giúp đỡ khi bị xâm hại. Nhưng trước khi quốc vương thỉnh cầu, quyết không can thiệp vào nội chính, vì vậy mau các vị quốc vương tin tưởng, quân đội vương triều dùng để duy trì ổn định bản đáo, là hậu thuẫn có lợi nhất cho các vị...
Sứ giả còn đưa ra lời mời Thẩm đốc sư tới các phiên vương đến Thanh Hóa tụ hội, một là trình bày quốc sách mới nhất của Đại Minh, hai là mong thông qua đại hội này hỏa giải mâu thuẫn giữa các quốc gia, kiến lập trập tự mới cho bán đảo Trung Nam v.. v.. v...