Quỷ Bí Chi Chủ (Bản Dịch Full)

Chương 1 - Chương 1: Đạo Thống Truyền Thừa Hệ Thống.

Chương 1: Đạo Thống Truyền Thừa Hệ Thống.

Đau!

Đau quá!

Đầu đau quá!

Hình ảnh trong giấc mơ đầy những tiếng thì thầm kỳ quái vỡ tan thành những mảnh nhỏ. Chu Minh Thuỵ đang say giấc chỉ thấy đầu đau đớn hệt như bị người ta lấy gậy đánh cho một cái thật mạnh, không, phải là bị một thứ sắc nhọn đâm thẳng vào huyệt Thái Dương rồi sau đó khuấy liên tục.

Ôi... Trong cơn mơ màng, Chu Minh Thuỵ muốn xoay người, muốn giơ tay ôm chặt lấy đầu, muốn ngồi dậy nhưng hắn không thể cử động chân tay được, dường như không thể điều khiển được thân thể nữa.

Xem ra là mình chưa tỉnh, vẫn còn đang mơ... Nói không chừng sẽ còn xảy ra hiện tượng cho là mình đã tỉnh, nhưng thực chất là còn đang ngủ say... Chu Minh Thuỵ không hề lạ lẫm gì với chuyện này, hắn cố gắng tập trung ý chí muốn thoát khỏi cái gông cùm của bóng tối và sự huyễn hoặc này.

Nhưng trong lúc nửa tỉnh nửa mơ này, ý chí luôn mơ hồ như sương khói, khó mà tập trung được. Dù hắn có cố thế nào thì tư duy vẫn cứ tan rã, tạp niệm xuất hiện.

Đang yên đang lành, nửa đêm nửa hôm, sao đột nhiên bị đau đầu? Còn đau đớn tới mức này? ! Chẳng lẽ xuất huyết não? !

Moá, chả lẽ ta sẽ chết sớm ư?

Mau tỉnh! Mau tỉnh lại nào!

Ồ, hình như không còn đau như nãy nữa? Nhưng đầu vẫn như bị một con dao nhỏ cắt từng miếng từng miếng ra một...

Xem ra không thể ngủ tiếp, vậy thì mai đi làm thế nào được? Còn đi làm cái gì nữa? Bị đau đầu thật như này tất nhiên là phải xin nghỉ rồi! Khỏi sợ tay quản lý lải nhải!

Nghĩ như vậy cảm thấy không tệ, khà khà, thế là được nhàn rỗi một hôm!

Đầu lại đau nhói khiến Chu Minh Thuỵ tích được chút sức lực. Cuối cùng, hắn dốc sức động lưng mở choàng mắt, hoàn toàn thoát khỏi trạng thái nửa tỉnh nửa mơ.

Tầm mắt ban đầu nhoà đi, sau đó bị phủ kín bởi một lớp đỏ rực. Nơi tầm mắt với tới, Chu Minh Thuỵ thấy trước mặt mình là một bàn học bằng gỗ thô sơ. Chính giữa bàn học có bày một quyển bút ký đang mở sẵn. Giấy của cuốn bút ký này thô ráp và ố vàng, bên trên là một câu được viết bởi thứ chữ kỳ quái, nét mực đen sậm, ướt và bắt mắt.

Ở bên trái cuốn bút ký là một chồng sách được sắp xếp chỉnh tề, có tầm bảy, tám cuốn gì đó. Bức tường bên phải chúng thì được gắn bởi ống dẫn màu xám trắng nối tới một chiếc đèn treo tường.

Chiếc đèn này mang phong cách phương Tây cổ điển, to bằng nửa đầu người trưởng thành. Bên trong là thuỷ tinh trong suốt, phần lồng bên ngoài được làm từ kim loại màu đen.

Bên dưới chiếc đèn đã tắt đó là một lọ mực màu đen được bao phủ bởi ánh sáng màu đỏ nhạt, vẻ gồ ghề bên ngoài dưới lớp ánh sáng tạo nên thứ hoa văn trông giống thiên sứ.

Một chiếc bút máy màu sậm với phần thân bóng mượt được đặt ở trước lọ mực, bên phải bút ký. Ngòi bút loé lên thứ ánh sáng nhạt. Nắp bút thì nằm ngay cạnh một chiếc súng lục ổ xoay.

Súng? Súng lục? ? Chu Minh Thuỵ ngây ngẩn. Những thứ hắn thấy trước mặt này xa lạ như thế, hoàn toàn khác xa phòng của hắn!

Tronng khi kinh ngạc và ngỡ ngàng, hắn phát hiện rằng bàn học, bút ký, lọ mực và súng lục kia đều được phủ lên bởi một tầng "lụa mỏng" màu đỏ rực, chính là ánh sáng chiếu vào từ bên ngoài cửa sổ.

Theo bản năng hắn ngẩng đầu lên, dời tầm mắt lên cao.

Giữa không trung, bên trên lớp "vải nhung sân khấu thiên nga", một mặt trăng tròn màu đỏ rực như lửa treo cao, lặng lẽ toả ra ánh sáng.

Đây... Chu Minh Thuỵ bỗng thấy sợ hãi, rồi hắn đứng bật dậy. Nhưng đôi chân còn chưa kịp đứng thẳng thì đầu hắn lại đau nhói ghê gớm khiến hắn như mất đi sức lực trong phút chốc, trọng tâm toàn thân tức thì rơi xuống, mông đập mạnh lên trên chiếc ghế dựa bằng gỗ.

Bịch!

Đau đớn không thể tạo nên ảnh hưởng gì, Chu Minh Thuỵ giơ tay đè lên bàn rồi lại đứng lên, bối rối quay người nhìn nơi mình đang đứng.

Đây là một căn phòng không lớn, hai bên trái phải đều có cửa ra vào. Gần sát bức tường đối diện là một chiếc giường tầng làm từ gỗ. Giữa giường và cánh cửa phía bên trái là một chiếc tủ quầy, bên trên là tủ có cánh mở hai bên, bên dưới thì là ngăn kéo.

Bên cạnh tủ quầy kia có một ống dẫn cao bằng một người, cũng màu xám trắng được lắp trên tường, nhưng nó nối với một thứ thiết bị kỳ lạ có bánh răng và ổ trục hiện ra bên ngoài.

Góc tường phía bên phải bàn học có chất một đống thứ trông giống than, cùng với các vật dụng nhà bếp như nồi đun nước, chảo sắt...

Qua cửa bên phải là một chiếc gương to đã rạn nứt hai vết, phần kệ để gương được làm từ gỗ với hoa văn khá đơn giản.

Chu Minh Thuỵ đảo mắt qua gương, loáng thoáng thấy mình của bây giờ: Tóc đen, mắt nâu, mặc quần áo lót sợi đay, vóc dáng gầy gò, ngũ quan bình thường, đường nét góc cạnh...

Đây là... Chu Minh Thuỵ tức thì giật mình, hít vào một hơi khí lạnh, lòng bỗng có một suy đoán lộn xộn mà bất lực.

Súng lục ổ xoay, bố trí kiểu phương Tây cổ điển, cùng với mặt trăng đỏ rực khác hẳn với Trái Đất, không có thứ gì là không chứng tỏ rõ một chuyện!

Chẳng lẽ mình... Mình xuyên việt rồi? Chu Minh Thuỵ dần há hốc mồm.

Hắn đọc văn học mạng từ bé, cũng thường hay ảo tưởng về bản thân, nhưng tới khi gặp được thật thì lại khó mà chấp nhận được.

Đây có lẽ chính là cái gọi là Diệp công thích rồng* ư? Qua mấy chục giây sau, Chu Minh Thuỵ thầm tự giễu mình một câu. Nếu không phải đau đầu vẫn còn, làm cho tư duy trở nên căng thẳng và rõ ràng, Chu Minh Thuỵ sẽ cho rằng mình đang mơ.

Bình tĩnh... Bình tĩnh... Bình tĩnh nào... Chu Minh Thuỵ hít sâu vài cái, cố gắng làm cho bản thân đừng hoảng loạn nữa.

Đúng lúc này, khi thể xác và tinh thần hắn được hoà hoãn lại, một đám trí nhớ đột nhiên nhảy vọt ra, chầm chậm hiện lên trong đầu hắn.

Klein Moretti, một sinh viên vừa tốt nghiệp chuyên ngành lịch sử đại học Hoy, là người của thành phố Tingen quận Akhova thuộc vương quốc Ruen ở lục địa Bắc.

Cha là thượng sĩ lục quân hoàng gia, đã hy sinh trong đợt tấn công thực dân lục địa Nam. Số tiền trợ cấp từ cái chết của ông làm cho Klein có cơ hội vào học ở trường văn pháp tư nhân, làm nền tảng cho hắn thi vào đại học... Mẹ là tín đồ của nữ thần Đêm Tối, mất khi Klein vừa thi đỗ vào đại học Hoy...

Hắn có một anh trai và một em gái, sống ở căn hộ hai phòng ngủ của khu nhà trọ này...

Nhà hắn không giàu, thậm chí phải nói là không đủ, hiện tại toàn bộ chi tiêu đều do người anh trai hiện đang làm thư ký cho một công ty xuất nhập khẩu lo cho...

Là một sinh viên đã tốt nghiệp hệ lịch sử, Klein thông thạo ngôn ngữ Fusark cổ xưa của các nước lục địa Bắc, cùng với ngôn ngữ Hermes có liên quan tới việc thờ cúng, cầu nguyện thường xuyên xuất hiện trong các lăng mộ cổ đại...

Ngôn ngữ Hermes? Nghĩ tới đây, Chu Minh Thuỵ giơ tay đè lên huyệt Thái Dương đang đau như xoắn lại, quăng mắt tới cuốn bút ký đã mở sẵn trên bàn. Hắn cảm thấy dòng chữ viết trên trang giấy ố vàng kia từ kỳ quái thành xa lạ, từ xa lạ thành quen thuộc, rồi từ quen thuộc trở nên đọc hiểu được.

Đây là dòng chữ viết bằng tiếng Hermes!

Nét bút sâu và đen ấy viết rằng: "Tất cả mọi người sẽ chết, kể cả ta."

A! Chu Minh Thuỵ đột nhiên hoảng sợ, thân thể bỗng ngửa ra sau theo bản năng hòng kéo giãn khoảng cách với dòng chữ này.

Hắn rất yếu nên suýt thì ngã rầm, bèn vội giơ tay vịn lấy bàn. Hắn cảm thấy không khí xung quanh như trở nên nóng nảy theo, dường như có tiếng thì thầm liên tục vang lên bên tai, hệt như hồi bé nghe người lớn kể chuyện kinh dị.

Chu Minh Thuỵ lắc đầu, tất cả đều là ảo giác. Hắn đứng vững người, dời mắt khỏi cuốn bút ký kia, há mồm thở hổn hển.

Lúc này hắn nhìn sang khẩu súng ổ xoay đang loé lên ánh sáng đồng thau, lòng bỗng có nghi vấn.

"Với gia cảnh của mình, Klein lấy đâu ra tiền và cách mua súng?" Chu Minh Thuỵ nhíu mày lại.

Trong lúc trầm tư, hắn thấy một nửa dấu tay màu đỏ ở góc của bàn học, màu còn đậm hơn cả màu của ánh trăng, dày hơn cả lớp "lụa mỏng" kia.

Đó là một dấu tay máu!

"Máu?" Chu Minh Thuỵ theo bản năng giơ bàn tay phải vừa đè lên bàn lên. Hắn cúi đầu nhìn, chỉ thấy lòng bàn tay và ngón tay hắn dính đầy máu.

Cùng lúc đó, cơn đau vẫn kéo tới từ trong đầu hắn, nhưng đã yếu bớt đi, chỉ là cứ đau mãi không dứt.

"Chẳng lẽ đụng rách đầu rồi?" Chu Minh Thuỵ đoán vậy. Hắn quay người lại, đi tới trước chiếc gương bị rạn.

Sau vài bước, một bóng người có vóc dáng tầm trung, tóc đen, mắt nâu, trông rất trí thức đập vào mắt hắn.

Đây là ta ở hiện tại, Klein Moretti?

Chu Minh Thuỵ ngớ ra, sau đó vì nửa đêm nhìn không rõ nên hắn lại bước lên tiếp, cho tới khi chỉ còn chút xíu nữa là đụng vào gương.

Dưới ánh trăng đỏ rực như lớp lụa mỏng, hắn nghiêng đầu nhìn thái dương của mình.

Một hình ảnh ngược hiện lên rất chi tiết. Thái dương của hắn bị một vết thương trông rất dữ tợn chiếm cứ, phần rìa là dấu vết của việc bị bỏng, xung quanh đầy vết máu. Mà bên trong, phần óc màu xám trắng đang mấp máy.

* Diệp công thích rồng: Do tích Diệp Công rất thích rồng, đồ vật trong nhà đều khắc, vẽ hình rồng. Rồng thật biết được, đến thò đầu vào cửa sổ. Diệp Công nhìn thấy sợ hãi vắt giò lên cổ bỏ chạy. Ví với trên danh nghĩa thì yêu thích nhưng thực tế lại không như vậy.

Chương 2: Tình trạng

Bịch bịch bịch!

Nhìn hình ảnh trong gương, Chu Minh Thuỵ sợ tới mức lùi ra sau mấy bước liên tục, dường như kẻ ở trong gương không phải mình mà là một con zombie.

Kẻ nào bị thương nghiêm trọng như vậy mà có thể còn sống được? !

Hắn như không tin mà lại nghiêng đầu kiểm tra bên kia. Cho dù khoảng cách xa hơn và ánh sáng tù mù, hắn vẫn có thể thấy rõ miệng vết thương do đạn xuyên qua và vết máu đỏ rực đang tồn tại.

"Đây..."

Chu Minh Thuỵ hít một hơi thật sâu, cố gắng khiến cho mình bình tĩnh lại.

Hắn giơ tay ấn lên ngực trái, cảm nhận trái tim đang đập rất mạnh, rất nhanh, hừng hực sức sống. Lại sờ làn da trần, bên dưới lạnh lẽo là ấm áp đang chảy xuôi.

Hắn ngồi xuống một cái để nghiệm chứng đầu gối còn có thể gập lại, thế mới đứng lên, không còn hoảng loạn nữa.

"Chuyện gì vậy nhỉ?" Hắn nhíu mày, thì thào, còn định kiểm tra lại miệng vết thương lại cho hẳn hoi.

Hắn đi được hai bước thì đột nhiên dừng lại, bởi vì ánh trăng màu đỏ bên ngoài kia không đủ sáng để có thể "kiểm tra hẳn hoi" được.

Một mảnh vỡ ký ức nhỏ bắn ra, Chu Minh Thuỵ quay đầu nhìn về phía chiếc đèn được bao quanh bởi một lớp lồng sắt trên tường gần sát bàn học, nơi có ống dẫn khí màu xám trắng.

Đây là một loại đèn khí gas đang được ưa chuộng, lửa ổn định, phát ra ánh sáng khá tốt.

Với tình hình gia đình của Klein Moretti thì đừng nói là đèn khí gas, cho dù là đèn dầu hoả cũng là vật xa xỉ, sử dụng nến mới phù hợp với thân phận và địa vị của gia đình họ. Nhưng bốn năm trước, khi hắn thức đêm học hành phấn đấu cho cuộc thi vào đại học Hoy, anh trai hắn là Benson cho rằng đây là chuyện rất quan trọng liên quan tới tương lai của gia đình, nên cho dù có phải vay tiền cũng muốn tạo điều kiện học tập tốt nhất cho hắn.

Đương nhiên, một Benson được học hành, lại đã đi làm nhiều năm chắc chắn không phải kẻ lỗ mãng, thiếu năng lực và không cân nhắc hậu quả. Anh dùng lý do "lắp đặt ống dẫn khí gas rất có ích trong việc nâng cao cấp bậc của nhà trọ, hữu ích với việc cho thuê sau này" để dụ dỗ ông chủ nhà trọ chi tiền cải tạo hệ thống ống dẫn, còn bản thân anh thì tranh thủ chức vụ thư ký ở công ty xuất nhập khẩu kia mà mua được đèn khí gas kiểu mới với giá gần giá gốc. Cuối cùng là anh chỉ dùng tới tiền tiết kiệm chứ không hề phải đi vay ai.

Mảnh ký ức vụt tắt, Chu Minh Thuỵ quay lại chỗ bàn học, mở ống dẫn rồi vặn chốt mở đèn.

Tạch tạch tạch, tiếng ma sát đốt lửa vang lên, nhưng ánh sáng không bùng lên như Chu Minh Thuỵ tưởng.

Tạch tạch tạch, hắn lại vặn vài cái nữa, nhưng chiếc đèn này vẫn tối om.

"Ừm..." Chu Minh Thuỵ thu tay lại, đè huyệt thái dương bên trái, nặn óc tìm kiếm nguyên nhân từ các mảnh vỡ ký ức.

Vài giây sau, hắn quay người đi tới trước thứ thiết bị nối với ống dẫn khí gas màu xám trắng được gắn vào tường ở bên cạnh cửa.

Đây là một máy tính phí gas!

Nhìn ổ trục và bánh răng lộ ra ngoài, Chu Minh Thuỵ móc một đồng xu ra từ trong túi quần.

Đồng xu này màu ố vàng, loé lên màu đồng kim loại. Mặt trước có khác hình cái đầu của một người đàn ông đeo vương miện, mặt sau thì có lúa mạch bao quanh một số "1".

Chu Minh Thuỵ biết đây là đơn vị tiền tệ cơ bản của vương quốc Ruen, gọi là đồng penny. Một penny có giá trị tương đương với ba, bốn đồng Nhân dân tệ ở nơi trước đây của hắn. Có ba loại đồng penny là đồng 5 penny, đồng nửa penny, và đồng một phần tư penny, nhưng vẫn chưa đủ chính xác. Trong cuộc sống hàng ngày, thi thoảng người ta vẫn phải gom cho đủ để mua được đồ.

Làm cho đồng penny, được phát hành khi vua George đệ Tam lên ngôi, lăn vài vòng giữa các ngón tay, Chu Minh Thuỵ mới nhét nó vào trong "cái miệng" dài và nhỏ nằm dọc máy tính phí gas.

Leng keng!

Khi đồng penny rơi xuống đáy của máy tính phí, tiếng bánh răng chuyển động răng rắc tức thì vang lên, tấu lên một giai điệu máy móc ngắn, nhỏ mà êm tai.

Chu Minh Thuỵ nhìn chăm chú vài giây, rồi quay trở lại trước bàn học, giơ tay vặn chốt mở đèn.

Tạch tạch tạch. Phụp!

Một ngọn lửa bốc lên, nhanh chóng hoá lớn. Ánh sáng đầu tiên là toả khắp bên trong lồng đèn, sau đó xuyên qua lớp thuỷ tinh trong suốt mà phủ kín căn phòng với màu sắc ấm áp.

Bóng tối lui đi, màu đỏ rực lùi ra ngoài cửa sổ. Chu Minh Thuỵ bỗng thấy yên tâm hơn hẳn, bèn nhanh chóng đi tới trước gương.

Lúc này hắn nghiêm túc xem xét vị trí huyệt thái dương, không bỏ qua bất cứ chi tiết nào.

Sau khi xem xét mấy lần, hắn phát hiện ngoài vệt máu ban đầu ra, miệng vết thương trông dữ tợn kia không còn chảy chất lỏng ra nữa, dường như đã được cầm máu và băng bó lại. Mà phần não đang mấp máy cùng với phần da thịt ở miệng vết thương đang khép lại với tốc độ mắt thường có thể thấy được rõ, có lẽ là chừng ba, bốn mươi phút nữa, hoặc có lẽ là hai đến ba giờ nữa, nơi đó chỉ còn lại dấu vết mờ.

"Tác dụng chữa trị của việc xuyên việt ư?" Chu Minh Thụy nhếch khoé miệng bên phải, thì thào.

Sau đó hắn thở dài một hơi. Mặc kệ là vì sao, chí ít hiện giờ hắn vẫn còn sống!

Ổn định lại tinh thần, hắn kéo ngăn kéo lấy một mẩu xà phòng ra, rồi với lấy một chiếc khăn tắm trong cái mớ khăn có vẻ đã cũ ở cạnh tủ quầy, sau đó mở cửa và đi tới phòng tắm công cộng ở tầng hai.

Chậc, phải xử lý vết máu trên đầu đã, kẻo cứ mang cái "hiện trường vụ án" này đi lại khắp nơi, mình bị doạ không sao, chứ cô em gái Melissa phải dậy sớm ngày mai mà thấy thì lại khó giải quyết!

Hành lang ngoài cửa tối om, chỉ có ánh trăng đỏ rực vẩy vào từ ngoài cửa sổ là tạm phác thảo được hình dáng của những vật lồi ra, khiến chúng hệt như đôi mắt quái vật đang lặng lẽ nhìn chằm chằm người sống từ trong bóng đêm thâm trầm.

Chu Minh Thụy bước thật nhẹ, cảm thấy kinh hồn táng đảm mà đi tới phòng tắm.

Bước vào trong phòng tắm, ánh trăng soi tỏ mọi thứ. Chu Minh Thuỵ đứng trước bồn rửa mặt, vặn vòi nước.

Rào rào rào, tiếng nước vang lên bên tai, hắn bỗng nhớ tới chủ nhà Frankie.

Bởi vì tiền nước nằm trong cả tiền thuê nên vị chủ nhà vừa thấp bé lại vừa gầy gò chuyên đội mũ dạ, mặc áo ghile bên trong và khoác áo vest bên ngoài này luôn tích cực tới tuần tra mấy cái phòng tắm, rình nghe tiếng nước chảy bên trong.

Nếu tiếng nước chảy to, ông bạn Frankie kia sẽ không thèm quan tâm tới phong độ của một vị thân sĩ mà vung cây gậy batoong gõ mạnh lên cửa phòng tắm, miệng thì la hét "A cái phường trộm cắp đáng chết!", "Lãng phí là hành vi đáng xấu hổ!", "Tao nhớ mày rồi đó!", "Để tao gặp phải lần nữa thì hãy mang theo đống hành lý dơ bẩn của mày mà cút đi đi!", "Tin tao đi, đây là nhà trọ có lời nhất toàn bộ cái thành phố Tingen này, mày có tìm nữa cũng không tìm được chủ nhà nào hào phóng hơn tao đâu!"

Chu Minh Thuỵ thu hồi suy nghĩ, nhúng ướt khăn rồi lau sạch vết máu trên mặt, lần này tới lần khác.

Tới khi soi bằng chiếc gương tồi tàn trong phòng tắm, xác nhận là chỉ còn miệng vết thương trông khá dữ tợn cùng với khuôn mặt tái nhợt, Chu Minh Thuỵ mới thấy thoải mái đôi chút. Sau đó hắn cởi áo lót sợi đay ra, lấy xà phòng chấm lên vết máu trên áo rồi vò sạch.

Cùng lúc đó hắn nhướng mày, nghĩ rằng có lẽ còn có rắc rối khác: Vết thương này bắn ra nhiều máu, ngoài trên người mình ra thì hẳn là vẫn còn dấu vết ở trong phòng!

Vài phút sau, Chu Minh Thuỵ vò sạch áo lót, bèn cầm khăn bước nhanh về phòng. Hắn lau sạch vết máu hình bàn tay trên bàn trước, sau đó nương theo ánh sáng của đèn khí gas tìm kiếm các dấu vết khác.

Thế là hắn lập tức tìm thấy không ít máu rơi trên sàn nhà và bắn vào dưới gầm bàn học. Còn ở bức tường bên tay trái thì có một đầu đạn màu vàng óng ánh.

"... Dùng súng nã một phát vào huyệt thái dương?" Manh mối trước sau tức thì trở nên mạch lạc, Chu Minh Thuỵ đã biết rõ hơn về cái chết của Klein.

Hắn không vội nghiệm chứng mà chăm chú lau sạch vết máu, xử lý "hiện trường" trước rồi mới mang đầu đạn về bàn học, rồi vặn phần ổ xoay của súng, đổ số đạn ở trong ra.

Lộc cộc, tổng cộng năm viên đạn, một vỏ đạn, cũng loé lên ánh sáng đồng thau.

"Quả nhiên..." Chu Minh Thuỵ nhìn vỏ đạn rỗng kia, vừa lần lượt nhét các viên đạn vào trong ổ xoay, vừa khẽ gật đầu.

Hắn liếc mắt tới câu "Tất cả mọi người sẽ chết, kể cả ta" ở trên trang sách của cuốn bút ký đang mở, lòng xuất hiện rất nhiều nghi vấn.

Súng này lấy từ nơi nào?

Tự sát? Hay nguỵ trang thành tự sát?

Một sinh viên nhà bình dân tốt nghiệp chuyên ngành lịch sử thì có thể gặp được chuyện gì?

Tự sát bằng cách nào mới để lại ít vết máu như vậy? Là vì ta xuyên tới đúng lúc nên nhận được phúc lợi chữa trị kịp thời?

Chu Minh Thụy trầm ngâm một lát, rồi thay một chiếc áo lót sợi đay khác. Hắn ngồi lên ghế, suy nghĩ tới chuyện còn quan trọng hơn.

Trọng điểm hiện tại cần quan tâm không phải là những gì Klein đã gặp được, mà là biết rõ tại sao mình lại xuyên việt, liệu có thể xuyên trở lại thế giới cũ không? !

Cha mẹ, người thân, bạn bè, thế giới Internet muôn màu muôn vẻ cùng với đủ món ăn ngon... Những điều ấy khiến hắn bức thiết muốn quay trở về!

Tạch, tạch, tạch... Tay phải Chu Minh Thụy vô ý thích vặn ổ xoay của súng ra, rồi lại lắp nó lại, cứ lặp đi lặp lại.

"Hừm, khoảng thời gian này đâu có khác gì lúc trước mấy đâu, chỉ là hơi xui tí thôi, sao bỗng dưng lại xuyên việt được? Xui xẻo... Đúng rồi, tối hôm qua lúc ăn cơm mình có làm một nghi thức đổi vận!"

Một tia chớp vụt lên trong đầu Chu Minh Thuỵ, chiếu sáng phần ký ức bị sương mù che phủ.

Làm một chính trị gia online, nhà lịch sử học online, nhà kinh tế học online, nhà sinh vật học online cùng nhà dân tộc học online đủ tư cách, hắn luôn tự nhận mình là kẻ "cái gì cũng biết đôi chút". Đương nhiên bạn bè thường nhạo hắn là "cái gì cũng chỉ biết chút xíu".

Mà phương thuật thì là một trong số đó.

Năm ngoái hắn về nhà, phát hiện một cuốn sách khổ dọc buộc chỉ tên là "Tóm lược phương thuật bí truyền thời Tần Hán" ở trong một hiệu sách cũ. Thấy cuốn này có vẻ thú vị, lại giúp mình có thể chém gió chém bão trên mạng nên hắn mua về. Tiếc là, hứng thú tới nhanh, đi cũng nhanh. Loại sách viết dạng khổ dọc này khiến người ta không hứng đọc, nên hắn chỉ giở xem phần mở đầu là vứt xó.

Tới mấy tháng gần đây hắn gặp vận xui liên tục, nào là mất điện thoại, rồi khách hàng bỏ trốn, hoặc là làm sai. Những chuyện xấu liên tục kéo tới khiến hắn mới ngẫu nhiên nhớ tới phần mở đầu của "Tóm lược phương thuật" kia có nghi thức đổi vận, mà yêu cầu rất đơn giản, không cần phải có phần căn bản gì:

Chỉ cần chia món ăn đặc sắc của khu vực đang sống làm bốn phần đặt tới bốn góc của căn phòng, có thể để trên bàn, hoặc ngăn tủ. Sau đó đứng trung tâm của phòng, đi bốn bước theo chiều ngược kim đồng hồ tạo nên một hình vuông. Bước đầu tiên thì thành kính lẩm nhẩm "Phúc Sinh Huyền Hoàng Tiên Tôn", bước thứ hai thì nhẩm "Phúc Sinh Huyền Hoàng Thiên Quân", bước thứ ba là "Phúc Sinh Huyền Hoàng Thượng Đế", bước cuối cùng thì nhẩm "Phúc Sinh Huyền Hoàng Thiên Tôn". Sau khi bước xong thì nhắm mắt lại, chờ đợi năm phút là nghi thức được coi như thành công.

Cứ nghĩ là dù sao cũng chả mất gì, nên hắn lục cuốn sách đó ra, dựa theo đó mà làm y hệt trước bữa tối, cơ mà, cơ mà lúc ấy chẳng xảy ra chuyện gì cả.

Ai ngờ tới nửa đêm hắn lại tự dưng xuyên việt!

Xuyên việt rồi!

"Chắc chắn là do cái nghi thức đổi vận kia rồi... Hừm, ngày mai phải thử lại một lần. Nếu quả thật là vì nó, ta có hy vọng xuyên trở lại rồi!" Chu Minh Thụy dừng động tác vặn ổ xoay của súng, ngồi thẳng người dậy.

Bất kể thế nào hắn cũng phải thử một lần!

Phải liều một phen mới được!

Chương 3: Melissa

Xác định kế hoạch, Chu Minh Thụy lập tức cảm thấy kiên định. Sợ hãi, bối rối và bất an đã bị dẹp vào một xó.

Cho tới lúc này, hắn mới có tâm tư xem xét kỹ những mảnh vỡ ký ức mà Klein để lại.

Chu Minh Thuỵ đứng dậy theo thói quen, khoá van ống dẫn lại. Nhìn đèn treo tường từ từ tối đi rồi tắt phụp, hắn mới ngồi xuống, vừa vô ý thức vuốt ve ổ xoay làm từ đồng thau của khẩu súng vừa giơ tay đè lên thái dương, lẳng lặng "hồi tưởng" trong bóng tối bị nhuộm màu ửng đỏ hệt như một khán giả đang tập trung nhất trong rạp chiếu phim.

Có lẽ là bị ảnh hưởng từ viên đạn nên ký ức của Klein như mảnh thuỷ tinh vỡ vụn, không chỉ mất tính kết nối mà nhiều ký ức còn bị thiếu. Ví dụ như khẩu súng ổ xoay được chế tác tinh xảo này tới từ đâu? Là tự sát hay bị giết? Câu "Tất cả mọi người sẽ chết, kể cả ta" trên trang bút ký kia rốt cuộc có ý gì? Hai ngày trước khi xảy ra chuyện liệu có tham dự chuyện gì kỳ quái không?

Không chỉ những ký ức cụ thể này đã vỡ thành mảnh nhỏ, bị khuyết thiếu, mà cho dù có biết nhiều tri thức như vậy thì với trạng thái hiện tại, Chu Minh Thuỵ tin rằng nếu Klein quay về đại học, sợ rằng sẽ không thể tốt nghiệp được. Cho dù thực tế là hắn mới tốt nghiệp được vài ngày, vả lại bản thân cũng không hề lơ là.

“Hai ngày sau phải tham gia phỏng vấn vào hệ lịch sử của đại học Tingen... Các trường đại học ở vương quốc Ruen này không có truyền thống giữ sinh viên đã tốt nghiệp ở lại làm giảng viên... Giáo sư sẽ cho một thư đề cử tới đại học Tingen và một lá khác cho đại học Backlund...”

...

Trong khi Chu Minh Thuỵ lặng lẽ "quan sát", mặt trăng đỏ bên ngoài cửa sổ dần di chuyển về phía tây, rồi lặn xuống. Cho tới khi ánh sáng xuất hiện từ phía đông, một màu vàng nhiễm sáng đường chân trời.

Lúc này, có tiếng động vang lên từ căn phòng bên cạnh. Rồi tiếng bước chân nhanh chóng tới gần cửa.

“Melissa dậy rồi... Con bé đúng là luôn luôn đúng giờ.” Chu Minh Thuỵ mỉm cười. Bị ảnh hưởng từ ký ức của Klein nên hắn cảm thấy Melissa là em gái ruột của mình.

Nhưng mà mình làm gì có em gái... Hắn tự giễu mình một câu.

Melissa không giống Benson và Klein, con bé không hoàn thành chương trình vỡ lòng ở trường Chủ Nhật của giáo hội nữ thần Đêm Tối. Lúc con bé đến tuổi đi học, vương quốc Ruen ban hành "Phương pháp giáo dục tiểu học", thành lập uỷ ban giáo dục cấp thấp, chuyên cung cấp ngân sách, tăng vốn đầu tư.

Nhưng ba năm đã qua, với tiền đề là hợp nhất không ít trường học của giáo hội, phần lớn trường công lập sơ cấp đã được thành lập, giữ vững nguyên tắc trung lập về tôn giáo, không dính líu tới sự phân tranh của ba giáo hội của chúa tể Bão Táp, nữ thần Đêm Tối và thần Hơi Nước và Máy Móc.

So với trường học Chủ Nhật chỉ mất một penny cho một tuần, học phí ba penny cho một tuần của trường học công lập sơ cấp có vẻ đắt. Nhưng ở trường Chủ Nhật thì một tuần chỉ học vào một ngày Chủ nhật duy nhất, còn trường công lập thì học sinh sẽ đi học sáu ngày trong tuần. Tính ra thì học phí thấp tới mức gần như là miễn phí.

Melissa khác với đám con gái khác, từ khi còn nhỏ con bé đã thích bánh răng, dây cót, ổ trục linh tinh. Con bé lập chí trở thành một kỹ sư máy hơi nước.

Bản thân đã trải qua vất vả do học không đủ, lại hiểu được tầm quan trọng của giáo dục, Benson ủng hộ giấc mơ của cô em gái hệt như việc anh ủng hộ Klein học đại học. Dù sao trường kỹ thuật Tingen chỉ được coi là giáo dục trung cấp, không phải cần phải tới trường học văn pháp hoặc trường công để tích luỹ nữa.

Tháng Bảy năm ngoái, lúc đó Melissa mười lăm tuổi, con bé đã thi đỗ kỳ thi đầu vào, trở thành một thành viên khoa Máy Hơi Nước và Cơ Khí của trường kỹ thuật Tingen. Học phí mỗi tuần cũng tăng lên tới chín penny.

Mà cùng lúc đó, công ty xuất nhập khẩu nơi Benson làm việc bị ảnh hưởng bởi thời cuộc ở phía lục địa Nam nên cho dù là lợi nhuận hay lượng công việc đều sụt giảm nghiêm trọng, không thể không cắt giảm đi một phần ba biên chế. Vì giữ việc, vì duy trì sinh kế, Benson đành phải nhận những công việc nặng nề hơn, phải thường xuyên tăng ca hoặc đi công tác ở những nơi có điều kiện tồi tàn. Giống như mấy ngày nay vậy.

Không phải là Klein không muốn đỡ đần cho anh trai mình, nhưng vốn thuộc tầng lớp bình dân nên khi thi vào từ một trường ngữ pháp bình thường lên đại học, hắn cảm thấy rất rõ sự thiếu sót của bản thân. Ví dụ như tiếng Fusark cổ, thứ ngôn ngữ cội nguồn của toàn bộ các quốc gia ở lục địa Bắc, với con cháu nhà quý tộc và đám học sinh nhà có tiền thì đó là những gì phải học từ bé, còn hắn phải tới khi lên đại học mới được tiếp xúc.

Những chuyện tương tự còn rất nhiều. Klein gần như bỏ hết sức lực, thường xuyên thức từ đêm tới sáng mới tạm coi là đuổi kịp kẻ khác, lấy thành tích trung bình mà tốt nghiệp.

Những ký ức liên qua tới anh trai và em gái toát lên trong đầu Chu Minh Thụy. Mãi đến khi tay nắm cửa chuyển động, cửa được mở ra, vang lên một tiếng kẹt, hắn mới tỉnh táo lại, nhớ ra rằng mình đang cầm một chiếc súng ổ xoay trong tay.

Đây chính là vật phẩm bị bán quản chế!

Sẽ khiến trẻ con sợ!

Còn cả miệng vết thương trên đầu mình nữa!

Thấy Melissa sắp đi ra, Chu Minh Thụy vừa tay đè huyệt thái dương, vừa cuống quít kéo ngăn bàn rồi quăng khẩu súng vào trong, vang lên một tiếng cộp.

“Gì thế?” Nghe được tiếng động, Melissa quay sang nhìn, ánh mắt nghi hoặc.

Con bé đang ở độ tuổi tươi trẻ nhất của cuộc đời, cho dù không được ăn ngon khiến khuôn mặt hơi gầy gò và yếu ớt, nhưng làn da vẫn sáng mịn toát ra hơi thở của thiếu nữ.

Thấy cô em gái đang nhìn với ánh mắt dò xét, Chu Minh Thụy vờ trấn tĩnh, cầm lấy thứ ở gần tay mình nhất rồi thong dong đóng ngăn kéo lại để che đi sự tồn tại của khẩu súng kia, tay khác thì ấn lên huyệt thái dương. Cảm giác từ đầu ngón tay cho hắn biết miệng vết thương đã khép lại!

Hắn lấy một chiếu đồng hồ bỏ túi mà trắng bạc với hoa văn cành lá từ trong ngăn kéo, ấn nhẹ một cái phần chóp là phần nắp sẽ mở ra.

Chiếc đồng hồ này là kỷ vật đáng giá nhất trong số những gì mà người cha thượng sĩ lục quân hoàng gia để lại cho ba anh em, nhưng dù sao cũng là vật đã qua sử dụng nên mấy năm nay thường hay trục trặc. Cho dù đã tìm thợ đồng hồ sửa nhưng nó vẫn thế, điều này khiến Benson vốn thích mang nó theo để nâng thân phận mình lên liên tục bị xấu hổ, nên mới vứt nó ở nhà.

Không thể không nói, Melissa quả thực có thiên phú về phương diện máy móc. Sau khi học được lý thuyết xong, con bé bắt đầu mượn dùng các công cụ của trường học về nghịch chiếc đồng hồ bỏ túi này, gần đây còn tuyên bố là đã sửa được nó!

Chu Minh Thụy nhìn nắp đồng hồ bật lên, nhìn kim giây tạm ngừng, theo bản năng hắn xoay phần chóp định lên cót cho đồng hồ.

Nhưng hắn vặn vài vòng mà chẳng thấy tiếng dây cót kêu lên, kim giây vẫn ở nguyên chỗ cũ.

“Hình như lại hỏng rồi.” Hắn nhìn sang phía em gái.

Melissa nhìn hắn với vẻ mặt vô cảm, bước tới gần rồi cầm lấy đồng hồ.

Con bé đứng im tại chỗ, đầu tiên là rút phần chóp của đồng hồ lên, rồi vặn vài vòng, thế là tiếng kim giây chuyển động tạch tạch vang lên.

Bình thường thì rút lên đâu phải để điều chỉnh thời gian... Chu Minh Thụy lập tức đờ mặt ra.

Cùng lúc đó, tiếng chuông truyền tới từ nhà thờ xa xa, liên tiếp sáu hồi, xa xăm và kỳ ảo.

Melissa vểnh tai nghe, sau đó lại kéo phần chóp lên một đoạn rồi tiếp tục vặn điều chỉnh thời gian.

“Được rồi.” Con bé nói một câu cụt lủn và không cảm xúc, sau đó ấn phần chóp của chiếc đồng hồ xuống và trả lại cho Chu Minh Thuỵ.

Chu Minh Thụy cười lại với con bé một nụ cười xấu hổ mà không mất lễ phép.

Melissa nhìn ông anh trai của mình một cái thật kỹ, rồi quay người đi tới chỗ tủ quầy, lấy bàn chải và khăn mặt, sau đó mở cửa đi tới phòng tắm chung.

“Vẻ mặt vừa rồi của con bé sao cứ như kiểu ghét bỏ mà không thể làm gì được nhỉ. Ánh mắt kia là thương hại ông anh đầu óc có vấn đề?” Chu Minh Thụy lắc đầu, khẽ cười, sau đó đóng nắp đồng hồ lại, rồi lại ấn cho nó mở ra, vang lên những tiếng cạch cạch.

Cứ lặp đi lặp lại hành động đó, tư duy của hắn bắt đầu chuyển tới một vấn đề.

Trong tình huống không có ống giảm thanh, Klein tự sát, tạm thời coi là tự sát đi, động tĩnh sẽ không hề nhỏ, mà Melissa chỉ ở cách một bức tường lại không hề phát hiện.

Là con bé ngủ quá say? Hay là bản thân chuyện Klein tự sát hoàn toàn kỳ dị?

Cạch, mở ra, cạch, đóng lại... Melissa rửa mặt xong quay lại thì thấy ông anh mình đang không ngừng làm cái động tác không có chủ đích là đóng mở nắp đồng hồ bỏ túi.

Ánh mắt con bé lại nhiễm sự bất đắc dĩ, con bé cất tiếng nói ngọt ngào: “Klein, anh lấy hết số bánh mỳ còn lại ra đi. Hôm nay nhớ đi mua bánh mới, cả thịt và đậu Hà Lan nữa. Anh sắp tham gia phỏng vấn rồi, em sẽ hầm thịt dê đậu Hà Lan cho.”

Khi nói, con bé kéo bếp lò từ trong góc ra, đốt số than còn lại, đun một bình nước ấm.

Trước khi nước sắp sôi, con bé mở ngăn kéo ở dưới cùng của tủ bát, lấy ra một lon đựng lá trà hàng xấu nhất với động tác như mang bảo bối ra, đổ chừng mười lá vào trong bình nước, coi đó làm nước trà chân chính.

Rót nước trà ra hai chén lớn, Melissa và Chu Minh Thụy uống nước trà, chia sẻ hai bánh mì lúa mạch đen với nhau.

Không lẫn vụn gỗ, không quá nhiều trấu cám, nhưng vẫn không thể ăn được... Ngay lúc này cơ thể Chu Minh Thụy khá suy yếu, bụng đói khát, đành dựa vào nước trà mà vừa oán vừa cố nốc miếng bánh mì kia.

Vài phút sau, Melissa ăn xong. Con bé bó phần tóc rủ xuống ngực lại, nhìn Chu Minh Thụy và nói: “Nhớ mua bánh mì mới, chỉ tám pound thôi. Trời nóng mua nhiều về thì hỏng mất. Còn cả thịt dê và đậu Hà Lan nữa. Nhớ ấy!”

Quả nhiên là thương ông anh mọt sách, có khi còn hơn... Chu Minh Thụy mỉm cười, gật đầu: “Ok.”

Về một pound của vương quốc Ruen này, dựa theo trí nhớ của Klein, Chu Minh Thụy đối chiếu với trí nhớ của mình thì cho rằng nó gần bằng một cân mà hắn biết, cũng chính là 0,5 kg.

Melissa không nói gì thêm, đứng dậy thu dọn, gói gém chiếc bánh mì còn lại kia làm bữa trưa, đội chiếc mũ lụa cũ mà mẹ để lại, cầm túi xách có đựng sách vở bút biếc mà con bé tự may chuẩn bị ra ngoài.

Hôm nay không phải Chủ nhật, con bé phải đi học cả ngày.

Đi bộ từ nhà trọ này tới trường kỹ thuật Tingen mất chừng mười phút đồng hồ. Có xe ngựa công cộng, một penny cho một km, đi trong thành phố thì mất tối đa 4 penny, ngoại ô là 6 penny. Vì tiết kiệm nên Melissa luôn dậy sớm tự mình đi bộ.

Vừa mở cửa ra, con bé dừng lại, quay người nói: “Klein, anh đừng mua nhiều thịt dê với đậu Hà Lan. Có lẽ phải tới Chủ nhật Benson mới về được. Ừm, nhớ là chỉ cần tám pound bánh mì thôi đấy.”

“Ok, ok.” Chu Minh Thụy trả lời đầy bất đắc dĩ. Cùng lúc đó, hắn thầm lẩm nhẩm từ "Chủ Nhật" mấy lần trong lòng.

Ở lục địa Bắc, một năm cũng chia làm mười hai tháng, mỗi năm có 365 ngày, hoặc 366 ngày. Một tuần cũng chia làm bảy ngày.

Ở Trái Đất thì đây chính là thành quả của thiên văn học, làm cho Chu Minh Thụy hoài nghi rằng nơi này là thế giới song song với Trái Đất. Việc phân chia thời gian ở nơi này là do tôn giáo. Bởi vì lục địa Bắc có bảy vị thần linh chính thống: Mặt Trời Vĩnh Hằng, chúa tể Bão Táp, thần Tri Thức và Trí Tuệ, thần Đêm Tối, mẫu thần Đất Đai, thần Chiến Tranh và thần Hơi Nước và Máy Móc.

Nhìn cô em gái đóng cửa đi học, Chu Minh Thụy chợt thở dài, rồi tập trung tinh thần vào nghi thức đổi vận.

Xin lỗi, anh thực sự muốn về nhà...

Chương 4: Bói toán

Chu Minh Thụy lại ngồi trở lại ghế dựa. Mãi cho tới tiếng chuông vang lên bảy tiếng liên tục từ nhà thờ đằng xa, hắn mới chậm rãi đứng dậy, đi tới trước tủ rồi lấy quần áo ra.

Áo gile màu đen cùng với áo vest cùng màu, chiếc quần hơi chật phần mắt cá chân cùng chiếc mũ phớt trên đầu tạo nên hơi thở của một người đàn ông trí thức nhàn nhạt, làm cho Chu Minh Thụy khi nhìn bản thân trong gương liền cảm thấy như đang xem một vở kịch nước Anh kể về chuyện ở thời Victoria.

“Mình đi mua đồ ăn chứ có phải đi phỏng vấn đâu, chỉ là chuẩn bị nguyên liệu cho nghi thức đổi vận thôi mà...” Hắn bỗng khẽ than, lắc đầu bật cười.

Klein ghi nhớ vụ phỏng vấn đến mức hoá thành bản năng của thân thể, nên khi bản thân mà không chú ý thì sẽ mặc bộ quần áo đẹp đẽ nhất và duy nhất này theo thói quen.

Chu Minh Thụy thở phù một tiếng, sau đó cởi áo vest, áo gile, thay bằng một chiếc áo khoác cũ màu nâu nhạt, cũng đổi chiếc mũ nỉ viền tròn cùng màu.

Sau khi mặc xong, hắn bước tới bên chiếc giường kia, nâng đệm lên, duỗi tay với tới một chỗ vỡ ở dưới đáy, sờ soạng một lúc rồi tìm được tường kép.

Khi hắn rụt tay lại, tay hắn đã cầm một cuộn tiền giấy, có khoảng bảy, tám tờ gì đó, mang màu sắc xanh sẫm.

Đây là số tiền tiết kiệm của Benson hiện tại, thậm chí là gồm cả phí sinh hoạt cho ba ngày. Trong đó chỉ có hai tờ năm Saule, còn lại đều là tờ một Saule.

Trong hệ thống tiền tệ của vương quốc Ruen, Saule nằm ở tầng thứ hai, bắt nguồn từ ngân tệ thời cổ. Một Saule tương đương với mười hai đồng penny, có cùng mệnh giá với năm lượng.

Cao nhất trong hệ thống tiền tệ là Kim bảng, cũng là một loại tiền giấy. Vốn dĩ vàng có thể dùng làm vật đảm bảo, cũng là để móc nối trực tiếp. Một Kim bảng tương đương với hai mươi Saule. Kim bảng có ba mệnh giá là một, năm và mười.

Chu Minh Thụy giở tờ tiền ra, ngửi thấy mùi mực in đặc thù rất nhạt.

Đây là mùi của tiền.

Có lẽ là do ảnh hưởng của ký ức của Klein, hoặc có lẽ là khát vọng tiền bạc chưa bao giờ thay đổi của bản thân, nên trong khoảnh khắc này Chu Minh Thụy cảm thấy mình yêu những tờ tiền này một cách sâu sắc.

Hãy nhìn đi, hoa văn của chúng mới đẹp đẽ làm sao, làm cho vị George đệ Tam để hai chòm râu dài, trông khá nghiêm túc cổ hủ cũng trở nên đáng yêu đến thế...

Nhìn đi, hình in chìm dưới ánh mặt trời cũng trở nên quyến rũ như thế, phần nhãn được thiết kế để chống làm giả đầy tỉ mỉ kia khiến nó hoàn toàn khác hẳn với những thứ giả mạo khác!

Sau mấy chục giây thưởng thức, Chu Minh Thuỵ rút hai tờ tiền một Saule, cuộn phần còn lại lại rồi nhét vào tường kép ở trong đệm.

Chu Minh Thụy vỗ vỗ mảnh vải ở gần chỗ rách, gấp hai tờ tiền giấy thật ngay ngắn rồi bỏ vào trong túi áo bên trái của chiếc áo khoác màu nâu nhạt, cất riêng với mấy đồng penny trong túi quần.

Xong xuôi, hắn cất chìa khoá vào túi bên phải, cầm một túi giấy màu nâu sậm rồi bước nhanh tới phía cửa.

Cộp, cộp, cộp... Tiếng bước chân từ nhanh thành chậm, cuối cùng ngừng lại.

Chu Minh Thụy đứng bên cửa, lông mày đã nhíu lại không biết từ lúc nào.

Sự kiện Klein tự sát còn rất nhiều nghi hoặc, cứ đi ra ngoài như này liệu có gặp được "điều ngoài ý muốn" gì không?

Chu Minh Thụy lặng im suy nghĩ một lát, rồi quay lại bàn học, kéo ngăn kéo lấy khẩu súng ổ xoay sáng bóng màu đồng thau kia ra. Đây là vũ khí phòng thân duy nhất mà hắn có thể nghĩ tới, đồng thời cũng là thứ đủ mạnh!

Tuy hắn chưa luyện bắn súng bao giờ, nhưng chỉ cần giơ khẩu súng này ra thôi chắc cũng đủ để doạ kẻ khác rồi!

Vuốt phần ổ xoay kim loại lạnh lẽo, Chu Minh Thụy nhét khẩu súng vào chiếc túi nơi để tiền giấy, lòng bàn tay thì nắm chặt tờ tiền, còn ngón tay lại đè lên khẩu súng, che giấu một cách hoàn mỹ.

Cảm giác an toàn bỗng nảy sinh, khiến hắn, một kẻ "cái gì cũng biết đôi chút" chợt lo lắng: "Liệu có nhỡ tay bóp cò không?"

Những ý tưởng ùn ùn kéo tới, Chu Minh Thụy nhanh chóng tìm được biện pháp. Hắn rút khẩu súng ra, mở phần ổ xoay rồi xoay phần ổ đạn trống sau khi người kia "tự sát" tới vị trí chờ bắn, rồi đóng lại.

Như vậy thì dù có cướp cò thì cũng "bắn không ra"!

Lại đút súng vào trong túi, Chu Minh Thụy cứ đút tay trái vào túi tiền, không hề rút ra.

Hắn dùng tay phải đè mũ phớt, đẩy cửa vang ra tiếng kẹt, rồi đi ra ngoài.

Hành lang vào ban ngày mà vẫn u ám, ánh sáng có thể chiếu vào từ chiếc cửa sổ ở cuối hành lang là có hạn. Chu Minh Thụy bước nhanh xuống cầu thang, rời khỏi nhà trọ, thế mới cảm nhận được sự sáng sủa và ấm áp.

Lúc này tuy đã gần tháng Bảy, đã vào giữa hè, nhưng Tingen nằm ở phía bắc của vương quốc Ruen nên có đặc điểm khí hậu khá độc đáo, đó là nhiệt độ cao nhất của một năm cũng chưa tới mức 30 độ C của Trái Đất. Sáng sớm lại càng mát mẻ. Mà nhiều chỗ trên đường phố đầy nước bẩn tràn ra, vứt đầy rác rưởi.

Trong trí nhớ của Klein, nơi ở của những tầng lớp có thu nhập thấp này, cho dù có cống thoát nước thì cảnh tương tự là không hề hiếm thấy. Bởi vì nhiều người, bởi vì sinh hoạt.

“Đến nào đến nào, cá tươi thơm ngon đây!”

“Canh hàu vừa nóng lại vừa tươi, uống một bát buổi sáng là tỉnh táo cả ngày!”

“Cá mới lấy từ cảng đây, một con chỉ năm penny!”

“Bánh chà bông, canh lươn với bia nào!”

“Ốc biển, ốc biển, ốc biển đê!”

“Rau củ mới lấy từ nông trại ngoài thành đây, vừa tươi vừa rẻ!”

...

Tiếng rao bán rau củ, hoa quả và đồ ăn lưu động ồn ào khắp con phố, mời gọi những vị khách đang vội vã đi đường. Nơi này, thi thoảng lại có người dừng lại, cẩn thận mua hàng, có kẻ lại không kiên nhẫn vung tay vì hôm nay còn chưa có thông tin gì về công việc.

Chu Minh Thụy ngửi mùi tanh tưởi và mùi thơm đan xen trong không khí, tay trái cầm chặt báng súng, nắm chặt tiền giấy, tay phải thì đè thấp chiếc mũ nỉ viền tròn, thoáng xoay người rồi cúi đầu đi qua con phố lộn xộn và ồn ào này.

Nơi nhiều người ắt có trộm cắp. Hơn nữa khu phố này còn có không ít người dân nghèo làm công việc tạm thời đang sắp mất việc và lũ trẻ con đói khát bị người ta sai sử.

Một mạch bước đi, tới khi mật độ người xung quanh bình thường trở lại, Chu Minh Thụy mới ưỡn thẳng ngực, ngẩng đầu nhìn về phía đầu đường.

Nơi đó có một nhạc sĩ đàn phong cầm đang trình diễn. Giai điệu lúc thì du dương, lúc thì sôi động.

Bên cạnh anh ta là không ít những đứa trẻ mặc quần áo lam lũ, sắc mặt vàng vọt vì không được ăn uống đầy đủ. Bọn chúng nghe âm nhạc, dựa theo nhịp điệu mà uốn éo cơ thể theo bản năng, tự mình sáng tạo ra điệu nhảy. Vẻ mặt bọn chúng đầy khoái hoạt, tựa như mình là một hoàng tử bé hay một thiên sứ nhỏ.

Một người phụ nữ với vẻ mặt chết lặng đi qua, làn váy cô bẩn, da thịt sạm đi. Đôi mắt cô dại ra, chỉ khi nhìn tới lũ trẻ con kia thì đôi mắt ấy mới loé lên ánh sáng, dường như cô thấy được mình của ba mươi năm về trước.

Chu Minh Thụy đi qua cô ta, rẽ vào một con phố khác, đứng trước tiệm bánh mì Slin.

Chủ tiệm bánh này là một bà cụ đã hơn bảy mươi tuổi, tên là Wendy Slin. Tóc bà đã bạc trắng hết cả, khuôn mặt luôn nở một nụ cười ôn hoà. Từ khi Klein có ký ức, bà đã bán bánh mì và bánh ngọt ở nơi này.

Ừm, bánh Tingen và bánh gato chanh mà bà nướng ăn rất ngon... Chu Minh Thụy nuốt ực một ngụm nước miếng, mỉm cười nói: “Bà Slin, cho 8 pound bánh mì mạch đen.”

“Ồ, Klein nhỏ bé, Benson đâu rồi? Vẫn chưa về à?” Wendy cười tủm tỉm, hỏi.

“Mấy ngày nữa.” Chu Minh Thụy trả lời hàm hồ.

Wendy vừa lấy bánh mì mạch đen vừa cảm thán: “Thằng bé đúng là chăm chỉ, sẽ lấy được cô vợ tốt.”

Nói tới đây, bà nhếch khoé miệng tạo ra nụ cười có vẻ bướng bỉnh, nói: “Giờ thì tốt rồi. Cháu đã tốt nghiệp, hệ lịch sự của đại học Hoy chúng ta cơ mà. Ừm, cháu sẽ kiếm được tiền nhanh thôi, và đừng có ở lại cái nhà trọ bây giờ nữa, chí ít phải kiếm chỗ nào có được phòng tắm cho riêng mình ấy.”

“Bà Slin, hôm nay trông bà hệt như một quý cô trẻ tuổi và hoạt bát vậy.” Chu Minh Thụy chỉ có thể gượng cười đáp lại.

Nếu Klein có thể phỏng vấn thuận lợi trở thành giảng viên của đại học Tingen, như vậy quả thực là kinh tế của cả gia đình sẽ leo lên bậc trung bình!

Trong những mảnh vỡ ký ức, hắn thậm chí còn ảo tưởng tới việc thuê một toà nhà của riêng mình ở khu ngoại ô. Tầng hai thì có năm căn phòng, hai phòng rửa mặt, một ban công lớn. Tầng dưới thì có hai phòng, một nhà ăn, một phòng khách, một nhà bếp và một phòng tắm, kèm theo một tầng hầm nữa.

Đây không phải là hy vọng xa vời. Kể cả giảng viên thực tập ở đại học Tingen thì lương một tuần cũng đã được hai kim bảng, khi thành giảng viên chính thức thì sẽ là 3 kim bảng 10 Saule. Nên biết rằng Benson đi làm đã nhiều năm, lương một tuần mới được 1 bảng 10 Saule. Còn công nhân bình thường ở trong nhà máy thì thậm chí còn không đến 1 bảng hoặc hơn 1 bảng một chút. Mà một toà nhà riêng như vậy thì tiền thuê phải từ 19 Saule tới 1 bảng 18 Saule.

“Đây là sự khác biệt giữa thu nhập ba, bốn nghìn một tháng và mười bốn, mười lăm nghìn một tháng...” Chu Minh Thụy thầm nói một câu.

Nhưng điều kiện tiên quyết cho tất cả đó là có thể thông qua phỏng vấn vào đại học Tingen hoặc đại học Backlund.

Về phần con đường khác, người không có gia thế không thể được đề cử trở thành nhân viên chính phủ, mà học lịch sử thì phạm vi tìm việc lại càng hẹp bởi các vị quý tộc, ngân hàng hoặc trùm công nghiệp không có nhiều nhu cầu tìm cố vấn riêng.

Nghĩ đến việc những tri thức mà Klein nắm được cũng trở thành "mảnh vỡ", không được hoàn chỉnh, Chu Minh Thụy cảm thấy rất xấu hổ và chột dạ trước sự chờ mong của bà Slin.

“Không, bà lúc nào mà chẳng trẻ như vậy.” Wendy trả lời hóm hỉnh.

Lúc nói chuyện, bà cho mười sáu chiếc bánh mì mạch đen đã được ước lượng sẵn vào trong chiếc túi giấy lớn màu nâu sậm mà Chu Minh Thụy mang tới, chìa tay phải ra: “Chín penny.”

Mỗi một chiếc bánh mì mạch đen nặng khoảng nửa pound, mà sai lệch là điều không thể né tránh.

“Chín penny, không phải hai ngày trước là 11 penny sao?” Chu Minh Thụy hỏi theo bản năng.

Mà tháng trước thì phải mất 15 penny.

“Cháu phải cảm ơn việc Dự luật Ngũ cốc đã bị huỷ bỏ, cảm ơn đám người biểu tình ấy.” Wendy giang hai tay, cười nói.

Chu Minh Thụy gật đầu, cái hiểu cái không. Trí nhớ của hắn về chuyện này không được hoàn chỉnh, chỉ nhớ rõ điều cốt lõi của Dự luật Ngũ cốc là bảo vệ giá nông sản của quốc gia, khi giá cả tăng lên tới một mức nhất định thì không nhập lương thực của các nước ở phía nam như Finebot, Masik hay Renborg.

Vì sao người ta phải biểu tình phản đối dự luật này?

Chu Minh Thuỵ không nói gì thêm. Vì sợ rút cả khẩu súng lục ổ xoay ra, hắn chỉ có thể cẩn thận móc tiền giấy, lấy một tờ rồi đưa cho bà Slin.

Nhận được ba đồng penny tiền thừa, hắn nhét vào túi quần rồi ôm túi giấy đựng bánh đi tới chợ "Rau diếp và thịt" ở cách nơi này một con phố để mua thịt dê hầm đậu Hà Lan mà cô em gái đã dặn.

Nơi giao nhau giữa phố Chữ Thập Sắt và phố Hoa Thuỷ Tiên là một quảng trường thị chính. Rất nhiều lều trại được dựng lên ở nơi đây, có những tên hề ăn mặc kỳ quái buồn cười đang phát tờ rơi ở xung quanh.

“Tối ngày mai, biểu diễn xiếc?" Chu Minh Thụy liếc tờ rơi trong tay người khác, thì thào đọc nội dung sơ lược.

Melissa sẽ thích lắm đây. Không biết giá vé vào cửa như nào? Nghĩ thế, Chu Minh Thuỵ đi tới bên đó.

Hắn đang định hỏi một tên hề mặc bộ đồ đỏ vàng đan xen, bỗng một giọng nữ khàn khàn vang lên bên cạnh: “Muốn xem bói không?”

Chu Minh Thụy quay đầu lại nhìn theo bản năng thì thấy một người phụ nữ mặc váy dài màu đen, đội một chiếc mũ nhọn đang đứng cạnh một cái lều thấp bé. Mặt cô ta bôi những vệt màu đỏ và vàng, đôi mắt màu lam sậm sâu sắc.

“Không.” Chu Minh Thụy lắc đầu trả lời. Hắn làm gì có tiền mà đi xem bói.

Người phụ nữ này cười nói: “Tôi bói bài Tarot chuẩn lắm.”

“Tarot...” Chu Minh Thụy sửng sốt. Từ này nghe phát âm thì giống với bài Tarot ở Trái Đất vậy nhỉ!

Ở Trái Đất, bài Tarot chính là một loại tú lơ khơ của thầy bói, chính là những lá bài có hình vẽ tượng trưng riêng.

Chờ chút... Hắn bỗng nhớ tới sự tồn tại của bói bài Tarot ở thế giới này.

Nó không bắt nguồn từ bảy vị thần chính thống, cũng không lưu truyền từ thời xa xưa, mà là do quan chấp chính nước cộng hoà Entis là Russel Gustav phát minh ra từ hơn một trăm bảy mươi năm trước.

Vị Russel này phát minh ra máy hơi nước, cải tiến thuyền buồm, lật đổ sự thống trị của vương quốc Entis, cũng được giáo hội "Thần Công Tượng" thừa nhận, trở thành vị quan chấp chính đầu tiên của nước cộng hoà mới.

Sau đó ông nam chinh bắc chiến, đưa các nước như Renborg vào vòng bảo hộ, làm cho các cường quốc bắc lục địa như vương quốc Ruen, Finebot, Fusark phải cúi đầu thần phục. Sau đó ông đổi nước cộng hoà thành đế quốc, và tự xưng là "Caesar Đại đế".

Đúng là trong thời kỳ Russel thống trị, giáo hội thần Công Tượng nhận được phần lời dặn dò từ Thần công khai đầu tiên trong Kỷ thứ năm, đổi danh xưng thần Công Tượng thành thần Hơi Nước và Máy Móc.

Russel còn phát minh ra bói bài Tarot, cũng thiết lập cấu trúc quân bài và cách chơi. Nơi này còn có vài loại hình mà Chu Minh Thụy quen thuộc, ví dụ như thăng cấp, đấu địa chủ, Texas, Quint...

Mặt khác, ông còn phái đội tàu tìm được con đường an toàn thông với Nam lục địa trong bão táp và dòng nước hỗn loạn, mở ra thời đại thực dân.

Đáng tiếc là khi ông ta về già thì bị phản bội, cho tới năm 1198 ở Kỷ thứ năm thì bị giáo hội Mặt Trời Vĩnh Hằng, gia tộc Sauron, kẻ đã lập nên vương quốc Entis, liên hợp với các quý tộc khác ám sát, chết ở cung Bạch Phong.

Nhớ tới những kiến thức thông thường này, Chu Minh Thụy bỗng thấy tê răng.

Chẳng lẽ vị này là tiền bối xuyên việt ư?

Nghĩ tới đây, Chu Minh Thụy muốn xem những lá bài Tarot ở nơi này trông như thế nào, bèn gật đầu nói với người phụ nữ đầu đội mũ nhọn, mặt bôi vệt sáng kia: “Nếu mà, ừm, giá cả hợp lý thì tôi sẽ thử xem sao.”

Cô ta lập tức cười nói: “Hôm nay anh là người đầu tiên tới bói nên được miễn phí.”

Chương 5: Nghi thức

Miễn phí? Thứ gì mà miễn phí mới là thứ đắt nhất! Chu Minh Thụy ngầm nói, nghĩ rằng chút nữa mà có phục vụ thêm gì thì phải kiên định từ chối.

Có giỏi thì cô bói ra là tôi xuyên qua đi!

Nghĩ tới đây, Chu Minh Thụy đi theo người phụ nữ mặt bôi vệt sáng kia bước vào trong chiếc lều thấp bé.

Lều này khá tối, chỉ có chút ít ánh sáng rót vào, mơ hồ soi sáng một cái bàn đầy những lá bài.

Người phụ nữ đội mũ nhọn lại không hề bị ảnh hưởng bởi sự u tối đó, vòng qua chiếc bàn, làn váy dài đen kia như bồng bềnh trên nước. Cô ta ngồi vào phía đối điện, rồi đốt ngọn nến lên.

Ánh sáng mờ mờ lay lắt, khiến lều vải này lúc sáng lúc tối, trông khá thần bí.

Chu Minh Thụy bình tĩnh ngồi xuống, đảo mắt qua những quân bài Tarot trên bàn, phát hiện ra đều là những lá bài chính mà mình biết, như là "Pháp Sư", "Hoàng Đế", "Người Treo Ngược", hoặc "Chỉ Huy"...

Chẳng lẽ đồng chí Russel thật là tiền bối của mình... Không biết có phải là đồng hương của đế quốc ăn tham của ta không... Chu Minh Thụy giật giật khoé miệng, lòng hốt hoảng.

Hắn còn chưa kịp nhìn hết tất cả các lá bài được lật ra trên bàn thì người phụ nữ tự gọi mình là "bói toán rất linh nghiệm" đã gom hết tất cả các lá bài Tarot lại, xếp chồng và đặt ra trước mặt hắn.

“Anh hãy xào bài và chia bài đi.” Vị thầy bói rạp xiếc này nói với giọng khàn khàn.

“Tôi xào bài hở?” Chu Minh Thụy hỏi theo bản năng.

Vệt đỏ vệt vàng trên mặt vị thầy bói này mấp máy, cô ta cười khẽ, nói: “Đương nhiên, chỉ có bản thân người muốn xem bói mới bói ra được vận mệnh của mình, tôi chỉ là kẻ giải đọc mà thôi.”

Chu Minh Thụy tức thì cảnh giác, hỏi tiếp: “Có thu phí giải đọc không?”

Là một nhà dân tộc học online, mấy cái chiêu trò tương tự này tôi gặp nhiều lắm rồi!

Thầy bói sửng sốt, rồi lúc sau mới rầu rĩ đáp: “Miễn phí.”

Chu Minh Thụy yên tâm, lại nhét khẩu súng lục ổ xoay vào trong túi tiền, sau đó thản nhiên giơ hai tay mà thuần thục xáo bài, chia bài.

“Xong rồi.” Hắn đặt những bài Tarot đã xào xong vào chính giữa bàn.

Thầy bói nắm chặt hai tay, nhìn những lá bài ấy một lúc, trông có vẻ rất nghiêm túc. Bỗng nhiên cô ta nói: “Xin lỗi, quên hỏi anh định bói cái gì?”

Năm đó khi theo đuổi mối tình đầu, Chu Minh Thụy có nghiên cứu qua về bài Tarot nên hắn đáp không chút do dự: “Quá khứ, hiện tại và tương lai.”

Đây là một cách thức bói toán bài Tarot, lấy ra ba quân bài, theo thứ tự tượng trưng cho quá khứ, hiện tại và tương lai.

Thầy bói đầu tiên là gật đầu, sau đó nhếch khoé miệng tạo ra một nụ cười mỉm: “Vậy anh hãy xào bài lại lần nữa, biết được mình muốn hỏi về cái gì thì mới có thể bốc được những quân bài tượng trưng chân chính được.”

Cô vừa đùa tôi đó à? ?? Có cần phải nhỏ mọn vậy không? Không phải là tôi cứ nhấn mạnh vào việc miễn phí ấy chứ? Phần cơ trên khuôn mặt Chu Minh Thuỵ giật giật, hắn hít vào một hơi thật sâu, lại cầm lấy bộ bài Tarot rồi xào bài, rút bài.

“Lần này chắc là không còn vấn đề gì rồi chứ?” Hắn đặt những quân bài đã được chia xong lên trên bàn.

“Không còn rồi.” Thầy bói duỗi ngón tay ra, cầm lấy lá bài trên đỉnh rồi đặt ở bên tay trái Chu Minh Thuỵ, giọng lại càng khàn hơn: “Lá này tượng trưng cho quá khứ. Lá này tượng trưng cho hiện tại.”

Thầy bói đặt lá bài thứ hai vào ngay trước mặt Chu Minh Thuỵ.

Sau đó cô ta đặt lá bài thứ ba vào bên tay phải Chu Minh Thụy:

“Lá này tượng trưng cho tương lai. Được rồi, anh muốn xem lá bài nào trước?” Làm xong tất cả, thầy bói ngẩng đầu lên, dùng đôi mắt màu lam xám nhìn chăm chú vào Chu Minh Thụy.

“Xem hiện tại trước đi.” Chu Minh Thuỵ khẽ suy nghĩ rồi nói.

Thầy bói chậm rãi gật đầu, lật lá bài ở chính giữa lên.

Lá bài này mang số 0, vẽ một thanh niên mặc quần áo đẹp đẽ, đeo đồ trang sức sáng rực, vai đeo một chiếc gậy, phần đầu của gậy là một bọc hành lý, phía sau là một con chó nhỏ.

“Kẻ Khờ.” Thầy bói khẽ đọc tên lá bài này, dùng đôi mắt lam xám bình tĩnh nhìn Chu Minh Thuỵ.

Kẻ Khờ? Lá bài Tarot số 0? Bắt đầu? Bắt đầu của tất cả những khả năng? Chu Minh Thụy vốn không được coi là một kẻ yêu thích Tarot sơ cấp, chỉ có thể dựa theo ấn tượng mà nghĩ như vậy.

Ngay khi thầy bói chuẩn bị nói thì màn vải của lều bị xốc lên đột ngột. Ánh nắng chói loá bỗng trào vào, khiến Chu Minh Thuỵ vốn quay lưng lại với cửa cũng phải nheo mắt lại.

“Sao cô lại giả làm tôi thế! Bói toán cho người khác là việc của tôi cơ mà!” Một giọng nữ gầm lên đầy phẫn nộ: “Mau về đi! Cô phải nhớ rằng cô chỉ là một kẻ thuần thú mà thôi!”

Thuần thú? Chu Minh Thụy thích ứng với ánh sáng, thấy người ở cửa cũng mặc váy dài đen, đầu đội mũ nhọn và mặt bôi vệt đỏ vàng, chỉ là người này cao hơn, vóc dáng gầy hơn thôi.

Người phụ nữ ngồi trước mặt hắn vội vàng đứng lên, ấm ức nói:

“Xin đừng để ý, chỉ là tôi thích cái này nên không thể không nói. Đôi khi tôi bói toán và giải đọc rất chuẩn đấy, thật đấy...”

Cô ta vừa nói vừa nhấc váy vòng qua bàn, nhanh chóng rời khỏi lều.

“Này anh, có cần tôi giải đọc giúp anh không?” Vị thầy bói thật sự nhìn Chu Minh Thuỵ, mỉm cười hỏi.

Chu Minh Thuỵ giật giật khoé miệng, hỏi đầy thành khẩn:

“Có miễn phí không?”

“... Không.” Vị thầy bói thật đáp.

“Vậy thì thôi.” Chu Minh Thuỵ đút tay vào túi tiền, đè khẩu súng với tiền giấy lại, quay người ra khỏi lều.

Đúng thật là, thế mà tìm một kẻ thuần thú bói Tarot cho mình! Người thuần thú không muốn làm thầy bói thì chẳng phải là tên hề sao?

Chu Minh Thụy nhanh chóng quẳng chuyện này ra sau đầu, hắn tiêu 7 đồng penny mua 1 pound thịt dê không được ngon cho lắm ở chợ "Rau diếp và thịt", lại mua đậu Hà Lan, cải bắp, cà rốt và khoai tây nữa. Thêm bánh mì ban nãy, hắn đã tiêu hết 25 đồng penny, cũng chính là 2 Saule 1 penny.

“Đúng là cứ có tiền là phải tiêu, thương Benson quá...”

Chu Minh Thuỵ không chỉ tiêu hai tờ tiền giấy mà còn tiêu thêm một đồng penny trong túi quần lúc trước. Hắn thuận miệng cảm thán một câu, không nghĩ gì thêm nữa mà vội vã về nhà.

Có món chính là có thể tiến hành nghi thức đổi vận rồi!

...

Chờ khi khách thuê tầng hai đều đi hết, Chu Minh Thuỵ không vội vàng tiến hành nghi thức mà phiên dịch những từ trong "Phúc Sinh Huyền Hoàng Tiên Tôn" thành tiếng Fusark cổ và tiếng Ruen, dự định là nếu thần chú ban đầu mà không hiệu quả thì thử ngôn ngữ bản địa xem sao!

Dù sao cũng phải nghĩ tới sự khác biệt của hai thế giới và vấn đề nhập gia tuỳ tục chứ!

Về chuyện phiên dịch sang tiếng Hermes vốn dùng cho việc cầu nguyện và thờ cúng thời cổ, vì không đủ vốn từ vựng nên Chu Minh Thuỵ không thể làm được.

Làm xong tất cả, hắn mới lấy bốn chiếc bánh mì mạch đen ra khỏi túi giấy, đặt một chiếc lên góc vốn để bếp lò than đá, một chiếc khác thì trong phần kệ của chiếc gương, chiếc bánh mì thứ ba thì đặt lên nóc tủ quầy, nơi hai bức tường giao nhau, chiếc bánh cuối cùng thì đặt lên cái đống đồ vật lẫn lộn bên phải bàn học.

Chu Minh Thụy hít sâu một hơi, rồi bước tới chính giữa căn phòng. Hắn làm cho bản thân bình tĩnh, sau đó mới nghiêm túc cất bước, đi theo hình vuông ngược chiều kim đồng hồ.

Bước ra bước đầu tiên, hắn thì thầm:

“Phúc Sinh Huyền Hoàng Tiên Tôn.”

Bước thứ hai, hắn thành khẩn nhẩm:

“Phúc Sinh Huyền Hoàng Thiên Quân.”

Bước thứ ba, hắn nín hơi nói nhỏ:

“Phúc Sinh Huyền Hoàng Thượng Đế.”

Tới bước thứ tư, hắn thở ra một hơi, chăm chú mặc niệm:

“Phúc Sinh Huyền Hoàng Thiên Tôn.”

Sau khi đi tới vị trí ban đầu, Chu Minh Thuỵ nhắm mắt lại chờ kết quả, lòng hắn vừa mong đợi, vừa bất an, vừa sợ hãi.

Có về được không?

Sẽ có hiệu quả chứ?

Sẽ không xuất hiện bất cứ điều gì ngoài ý muốn chứ?

Bóng tối trước mặt bị nhuộm với màu đỏ rực tới từ ánh sáng bên ngoài, những dòng suy nghĩ cứ tuôn trào trong đầu Chu Minh Thuỵ, khó mà lắng lại được.

Đúng lúc này, hắn bỗng cảm thấy không khí xung quanh như ngừng chảy, trở nên sền sệt và kỳ quái.

Ngay sau đó, bên tai hắn vang lên tiếng thì thầm lúc thì nhỏ bé, lúc thì chói tai, khi thì hư ảo, khi thì mê người, lúc thì nóng nảy, lúc thì điên cuồng.

Chu Minh Thụy rõ ràng là không hiểu những tiếng thì thầm nỉ non ấy đang nói cái gì, nhưng hắn vẫn không nhịn được mà vểnh tai lắng nghe, từ đó phân biệt.

Đầu của hắn lại đau dữ dội, như là bị một chiếc khoan đang khoan sâu vào.

Chu Minh Thụy chỉ cảm thấy đầu mình như sắp nổ tung, mọi suy nghĩ đều bị nhiễm màu sắc của mê huyễn.

Hắn biết là không đúng nên cố gắng mở mắt ra, nhưng dù có cố thế nào hắn vẫn không thể làm được động tác đơn giản này.

Toàn thân căng thẳng, dường như có thể đứt ra bất cứ lúc nào. Bỗng dưng một ý nghĩ tự giễu nảy lên trong đầu Chu Minh Thuỵ: “Không tự tìm đường chết thì sẽ không chết...”

Khi hắn không thể chịu được nữa, sợi dây trong đầu như sắp bị kéo đứt thì vô số tiếng thì thầm ấy bỗng lùi đi, xung quanh trở nên vô cùng yên tĩnh, bầu không khí như lơ lửng.

Không chỉ bầu không khí, Chu Minh Thuỵ cảm thấy cả thân thể mình cũng đang lơ lửng.

Hắn lại thử mở mắt ra, lúc này lại có thể mở mắt một cách vô cùng thoải mái.

Một màn sương mù màu xám ngập tràn khắp nơi đập vào mắt hắn, mông lung, mơ hồ, không có giới hạn.

“Đây là thế nào?”

Chu Minh Thuỵ ngạc nhiên nhìn xung quanh, rồi khi hắn cúi đầu xuống thì phát hiện mình đang lơ lửng ở bên rìa màn sương mù mênh mông vô ngần kia.

Sương mù xám này như dòng nước đang chảy. Điểm xuyết cho dòng nước ấy là vô số những "ngôi sao" đỏ rực, có to có nhỏ. Có cái giấu kín ở sâu trong màn sương xám, có cái lại nổi lên ngay bề ngoài.

Nhìn cảnh tượng như trong tranh vẽ này, Chu Minh Thuỵ nửa mê hoặc nửa thăm dò mà giơ tay phải ra hòng chạm vào một "ngôi sao" đỏ rực đang lơ lửng bên ngoài sương xám nhằm tìm cách rời khỏi nơi này.

Khi ngón tay hắn vừa chạm vào bề mặt ngôi sao này, vằn nước bỗng nhiên trào ra từ trên người hắn, kích thích cho "đỏ rực" bùng lên hệt như pháo hoa đầy mộng ảo.

Chu Minh Thuỵ hoảng sợ, bối rối thu tay phải lại, nào ngờ lại bất cẩn đụng vào một ngôi sao đỏ rực khác.

Vì vậy "ngôi sao" này cũng toả ra ánh sáng.

Thế là Chu Minh Thuỵ cảm thấy đầu óc trống rỗng, tinh thần tan rã.

...

Trong một biệt thự xa hoa nằm ở khu Hoàng Hậu ở thủ đô Backlund của vương quốc Ruen, Audrey Hall ngồi trước bàn trang điểm, tay vuốt ve một chiếc gương đồng có hoa văn cổ xưa, bề mặt đã bị nứt.

“Ma kính, ma kính, mau thức tỉnh... Ta lấy danh nghĩa gia tộc Hall lệnh cho mi thức tỉnh.”

...

Cô ta đổi đủ mọi cách nói, nhưng chiếc gương kia vẫn không hề phản ứng chút nào.

Mười mấy phút đồng hồ sau, cô quyết định từ bỏ, ấm ức lầm bầm:

“Đúng là cha lừa mình mà, lần nào cũng kể cho mình rằng chiếc gương này là món bảo vật quý báu của Hắc hoàng đế của đế quốc Solomon cổ đại, là vật phi phàm...”

Cô còn chưa nói xong, chiếc gương đồng trên bàn bỗng phóng ra thứ ánh sáng đỏ rực, lập tức bao trùm lấy cô ta.

...

Trên biển Sunia, một con thuyền buồm với ba cột buồm, trông rõ là lạc hậu so với thời đại, đang đi xuyên qua cơn bão.

Arges Wilson đứng trên boong tàu, thân thể nhấp nhô theo chiếc thuyền tròng trành, thoải mái duy trì được sự cân bằng.

Anh ta mặc một áo choàng dài có thêu hình tia chớp, một tay thì giơ một bình thuỷ tinh có hình dáng kỳ quái. Trong bình là bọt khí lúc thì quay cuồng, lúc thì tụ lại thành tuyết, khi thì có gió thổi qua cạo ra dấu vết.

“Còn thiếu máu của cá mập quỷ nữa...” Arges thì thào.

Đúng lúc này, bình thuỷ tinh và lòng bàn tay anh bỗng trào ra màu đỏ rực, chỉ giây lát đã che phủ mọi thứ xung quanh.

...

Trên một mảng sương mù xám trắng, Audrey Hall khôi phục tầm nhìn, vừa khiếp sợ vừa mê mang quan sát xung quanh. Cô thấy bóng một người đàn ông mơ hồ ở phía đối diện cũng hành động tương tự mình.

Sau đó, hai người bọn họ gần như đồng thời phát hiện còn có một người thần bí được sương mù xám trắng bao phủ quanh thân đứng cách đó không xa.

"Người thần bí" Chu Minh Thuỵ cũng ngạc nhiên không thôi.

“Thưa ngài, đây là nơi nào?”

“Ngài muốn làm gì?”

Audrey và Arges đầu tiên là ngẩn ra, cùng im lặng, và không hẹn mà lại cùng mở miệng.

Chương 6: Người phi phàm

Cũng là tiếng Ruen, cũng là cảm giác căng thẳng và nặng nề.

Đây là nơi nào? Tôi định làm gì? Tôi cũng muốn biết mà... Chu Minh Thuỵ bình tĩnh lại, lòng thầm lặp lại câu hỏi của hai người kia.

Mà điều khiến hắn ấn tượng sâu sắc nhất không phải những câu nói do các từ đơn ghép thành, hay ý của các câu đó, mà là biểu hiện đầy bối rối, cảnh giác, sợ hãi và kính sợ của đôi nam nữ kia.

Bỗng dưng kéo hai người vào trong thế giới sương xám này, cho dù chính hắn là "kẻ gây ra hoạ", hắn cũng rất kinh ngạc và khiếp sợ, huống chi là hai người ở phía bị động kia! Với bọn họ, chuyện này có lẽ là đã vượt qua những gì có thể tưởng tượng rồi nhỉ?

Trong giây lát này, Chu Minh Thuỵ nghĩ tới hai lựa chọn, một là vờ như mình cũng là kẻ bị hại hòng che giấu thân phận thật, để đổi lấy sự tin tưởng nhất định, rồi yên lặng xem xét chờ đục nước béo cò. Hai là duy trì hình tượng thần bí khó lường trong mắt đôi nam nữ kia, chủ động dẫn dắt sự phát triển của câu chuyện để nhận được những thông tin có giá trị.

Không có thời gian để cân nhắc cho kỹ, Chu Minh Thuỵ bắt lấy ý tưởng vụt loé trong đầu, nhanh chóng quyết định dùng biện pháp thứ hai, đó là lợi dụng trạng thái tâm lý hiện tại của đối phương để nắm lấy ưu thế lớn nhất!

Bên trên màn sương mù xám im lặng vài giây, Chu Minh Thuỵ khẽ cười một tiếng, dùng ngữ khí bình thản, giọng nói thấp mà không trầm như đang đáp lại lời chào hỏi mang tính lễ phép của khách tới thăm:

“Một thử nghiệm.”

Một thử nghiệm? Một thử nghiệm? ? Audrey Hall nhìn người đàn ông thần bí bị sương mù màu trắng xám bao phủ, chỉ cảm thấy chuyện này hoang đường, buồn cười, kinh hãi và kỳ quái.

Cô vốn còn đang ngồi trước bàn trang điểm ở trong phòng ngủ, vừa quay đầu cái là "tới" một nơi ngập tràn sương xám này!

Đây là chuyện khó có thể tưởng tượng tới cỡ nào!

Audrey hít vào một hơi, mỉm cười đầy lễ phép và không thể chê vào đâu được, bất an hỏi:

“Thưa ngài, thử nghiệm đã kết thúc chưa? Chúng tôi có thể đi về được chưa?”

Arges Wilson cũng muốn hỏi như vậy, nhưng anh ta vốn trải qua nhiều chuyện nên vững vàng hơn nên cố kìm nén sự vọng động lại, chỉ im lặng đứng nhìn.

Chu Minh Thuỵ nhìn về người hỏi, có thể mang máng thấy được bóng dáng của đối phương. Đó là một cô thiếu nữ có vóc dáng cao gầy và mái tóc vàng óng ả, nhưng không thể nhìn rõ được dung mạo như nào.

Hắn không vội vàng trả lời câu hỏi của thiếu nữ kia, mà quay đầu nhìn người đàn ông ở phía bên kia. Đối phương có tóc màu xanh đậm, rối loạn như tảo biển, dáng người trung bình, không coi là cao lớn.

Thời khắc này Chu Minh Thuỵ đột nhiên hiểu rằng đợi khi mình càng mạnh hơn, hoặc có lẽ là có hiểu biết sâu sắc hơn về thế giới sương xám này, có lẽ hắn có thể nhìn thấu qua sự mông lung đó mà thấy rõ diện mạo của thiếu nữ và người đàn ông này.

Trong chuyện lần này, bọn họ là khách, còn ta là chủ!

Tâm tình thay đổi khiến Chu Minh Thuỵ lập tức nhận ra mấy chi tiết mà ban nãy hắn không để ý.

Thiếu nữ có giọng nói ngọt ngào và người đàn ông chín chắn nội liễm kia đều khá hư ảo, nhuộm màu hơi đỏ, tựa như là hình chiếu của hai "ngôi sao" đỏ sậm trên sương mù xám.

Mà hình chiếu kia thì là mối liên hệ giữa mình và ngôi sao đỏ sậm, dù vô hình vô ảnh nhưng bản thân hắn có thể nắm rõ được mối liên hệ ấy.

Cắt đứt liên hệ này, hình chiếu sẽ biến mất, bọn họ có thể trở về... Chu Minh Thuỵ khẽ gật đầu nhẹ như không thể nhận ra, sau đó hắn nhìn thiếu nữ tóc vàng, khẽ cười nói:

“Đương nhiên, nếu cô chính thức đề xuất, hiện tại ta có thể để cô trở về.”

Không nghe thấy ác ý, Audrey thở phào nhẹ nhõm. Cô tin rằng một vị tiên sinh có thể làm ra chuyện thần kỳ như vậy chắc chắn sẽ tuân thủ nghiêm ngặt.

Tinh thần bình phục đôi chút, cô ta không vội vã đòi đi về, mà dùng đôi mắt xanh thẳm nhìn trái nhìn phải, loé ra tia sáng khác thường.

Cô ta bất an, chờ mong và nóng lòng hỏi:

“Đây thật là một cuộc thử nghiệm kỳ diệu... Ừm, tôi vẫn mong gặp được những chuyện tương tự. Ý tôi là tôi thích sự thần bí, thích những kỳ tích siêu nhiên. Không, trọng điểm của tôi là, ý của tôi là, thưa ngài, tôi nên làm gì để có thể trở thành người phi phàm?”

Cô ta càng nói càng hưng phấn, thậm chí là kích động tới mức nói năng lộn xộn, kiểu như giấc mơ từ hồi bé khi nghe bậc cha anh kể những câu chuyện kỳ lạ mà nay đã thấy được ánh sáng hy vọng.

Cơ mà chỉ nói có mấy câu, cô ta đã quăng sự sợ hãi và kinh hoàng ra sau đầu.

Hỏi hay lắm! Tôi cũng rất muốn biết đáp án... Chu Minh Thuỵ tự cười nhạo mình một câu.

Hắn bắt đầu suy ngẫm việc nên trả lời thế nào để duy trì được hình tượng thần bí khó lường.

Cùng lúc đó, hắn cảm thấy cứ đứng nói chuyện thế này có vẻ "thấp kém". Cảnh tượng như thế này không phải là nên có một toà thần điện, một chiếc bàn dài cùng với những chiếc ghế dựa có điêu khắc hoa văn cổ xưa và trông rất là thần bí hay sao? Mà chính mình thì ngồi ở trên ghế của chủ nhân, lẳng lặng nhìn vào những vị khách?

Chu Minh Thuỵ vừa nghĩ vậy, sương mù xám bỗng nhiên quay cuồng, khiến Audrey và Arges sợ tới mức nhảy dựng.

Trong giây lát, bọn họ thấy xung quanh có thêm những cây cột đá cao, thấy bên trên những cột đá ấy là một mái vòm rộng lớn bao phủ. Toàn bộ toà kiến trúc này to lớn, đồ sộ, nguy nga hệt như cung điện của người khổng lồ trong truyền thuyết.

Bên dưới mái vòm, nơi sương mù đang vây quanh, một chiếc bàn dài làm từ đồng đen xuất hiện, mỗi bên là mười chiếc ghế với phần tựa khá cao, hai đầu của bàn cũng có ghế ngồi. Mặt sau của ghế toả ra ánh sáng lóng lánh, màu đỏ sậm tụ lại phác thảo ra những chòm sao kỳ quái không tương ứng với thực tại.

Audrey và Arges vừa hay ngồi đối diện nhau, ở vị trí gần với ghế chủ nhân nhất.

Thiếu nữ nhìn bên trái, lại liếc bên phải một cái, nhịn không được mà thì thầm: “Thật là quá thần kỳ...”

Quả thật là thần kỳ... Chu Minh Thuỵ giơ tay phải ra, khẽ vuốt ve góc của chiếc bàn đồng thau dài này, ngoài mặt thì tỉnh rụi.

Arges cũng quan sát khắp nơi một lần. Sau vài giây im lặng, anh ta đột nhiên trả lời câu hỏi của Audrey thay cho Chu Minh Thuỵ:

“Cô là người Ruen à? Nếu muốn trở thành người phi phàm thì hãy gia nhập giáo hội nữ thần Đêm Tối, giáo hội chúa Tể Bão Táp hoặc giáo hội thần Hơi Nước và Máy Móc. Tuy rằng tuyệt đại đa số người cả đời đều không chạm được tới phi phàm nên mới nghi ngờ các giáo hội, thậm chí là trong các giáo hội lớn thậm chí có không ít nhân viên thần chức cũng có suy nghĩ tương tự, nhưng tôi có thể nói cho cô biết rõ rằng ở trong toà trọng tài, sở tài phán và các cơ quan xử phạt luôn có người phi phàm, vẫn luôn đối kháng với những nguy hiểm sinh ra từ trong bóng tối. Chỉ là so với lúc ban đầu hoặc trước thời đại Sắt Đen thì số lượng bọn họ ít hơn rất nhiều.”

Chu Minh Thuỵ chăm chú lắng nghe, mà tay chân thì cố gắng bày tỏ cái tư thế không thèm để ý tới câu chuyện mấy cô bé cậu bé đang kể.

Dựa theo tri thức thường thức về lịch sử mà Klein để lại, hắn biết rõ "thời đại Sắt Đen" là chỉ kỷ nguyên hiện tại, cũng chính là kỷ thứ năm, bắt đầu từ năm 1349.

Audrey yên lặng lắng nghe, rồi khẽ thở ra một hơi:

“Thưa anh, điều anh nói tôi cũng biết, thậm chí còn biết nhiều hơn, ví dụ như Kẻ Gác Đêm, ví dụ như Kẻ Trừng Phạt, hoặc là Trái Tim Máy Móc, nhưng mà tôi không muốn mất tự do.”

Arges khẽ cười, hàm hồ nói:

“Nào có chuyện không muốn trả giá mà trở thành người phi phàm được? Nếu không muốn gia nhập giáo hội để nhận thử thách, vậy cô có thể đi tìm hoàng tộc, tìm những vị quý tộc mà gia tộc đã có lịch sử trên ngàn năm, hoặc là, dựa vào may mắn tìm được tổ chức tà ác đang ẩn núp.”

Audrey phồng quai hàm lên theo bản năng, sau đó bối rối nhìn trái nhìn phải. Chờ tới khi xác định "Người thần bí" và kẻ đối diện không chú ý tới động tác nhỏ của mình, cô ta mới hỏi:

“Không còn cách khác sao?”

Arges im lặng. Mười mấy giây sau, anh quay sang nhìn Chu Minh Thuỵ, vị "người thần bí" đang im lặng bàng quan. Thấy đối phương không đưa ý kiến gì, anh ta mới quay sang nhìn Audrey, châm chước rồi nói:

“Thật ra tôi có hai bản phương pháp điều chế ma dược danh sách 9.”

Danh sách 9? Chu Minh Thuỵ thầm nghĩ.

“Thật sao? Là hai bản nào vậy?” Audrey rất rõ phương pháp điều chế ma dược danh sách 9 đại diện cho cái gì.

Arges hơi dựa ra sau, trả lời với ngữ khí không nhanh không chậm:

“Cô cũng biết đó, con người muốn trở thành người phi phàm thật sự thì chỉ có thể dựa vào ma dược. Mà cái tên ma dược đến từ ‘Phiến đá khinh nhờn’. Trải qua tiếng của người khổng lồ, của tinh linh, tiếng Hermes cổ, tiếng Fusark cổ, tiếng Hermes đương đại đã không ngừng thay đổi phù hợp với đặc thù của thời đại. Cái tên không phải là trọng điểm, trọng điểm là nó không đại diện cho ‘biểu tượng trung tâm’ của bản ma dược này.

Một bản hương pháp điều chế danh sách 9 mà tôi cầm này tên là ‘Thuỷ Thủ’, khiến cô có được lực cân bằng xuất sắc, cho dù có ở trên một con thuyền trong cơn bão thì cũng có thể thoải mái đi lại như trên đất bằng. Cô còn có thể nhận được sức mạnh trác tuyệt, cùng với lớp vảy huyền ảo giấu dưới làn da sẽ khiến cô khó bị bắt hệt như cá, lại linh hoạt dưới nước như hải tộc. Cho dù không đeo trang thiết bị nào, cô cũng có thể thoải mái lặn dưới nước ít nhất mười phút.”

“Nghe có vẻ rất tuyệt... ‘Hải Quyến Giả’ của Chúa tể Bão Táp?” Audrey nửa chờ mong nửa chứng thực mà hỏi.

“Ở thời cổ, quả thực nó có tên là ‘Hải Quyến Giả’.” Arges không tạm dừng mà nói tiếp: “Bản phương pháp điều chế danh sách 9 thứ hai là ‘Khán Giả’. Nó được gọi là gì ở thời cổ thì tôi không biết. Bản ma dược này có thể khiến cho cô có được tinh thần xuất chúng và sức quan sát sâu sắc. Tôi tin là cô đã từng xem nhạc kịch rồi nên có thể hiểu được ý của từ ‘Khán Giả’. Giống như những vị khán giả nhìn các ‘diễn viên’ trong xã hội thế tục, từ vẻ mặt, cử chỉ và câu cửa miệng của bọn họ mà khám phá ra ý tưởng thật mà bọn họ không muốn cho người ta biết.”

Nói tới đây, Arges nhấn mạnh thêm một câu:

“Cô bắt buộc phải nhớ thật kỹ, bất kể là một bữa tiệc xa hoa lãng phí hay là đường phố ồn ào náo nhiệt, khán giả luôn luôn là khán giả.”

Audrey nghe mà mắt toả sáng, phải một lúc sau mới nói:

“Tại sao? Được rồi, đây là vấn đề sau. Tôi... Tôi nghĩ rằng tôi thích cái cảm giác này, ‘Khán Giả’, tôi phải làm thế nào mới có được bản phương pháp điều chế ‘Khán Giả’ đây? Lấy gì để trao đổi với anh?”

Arges như chuẩn bị sẵn mà trầm giọng đáp:

“Máu cá mập quỷ, ít nhất 100ml.”

Audrey đầu tiên là hưng phấn gật đầu, sau đó lo nghĩ, hỏi:

“Nếu tôi lấy được rồi, ý tôi là nếu ấy, tôi giao cho anh như nào? Lại làm thế nào để cam đoan là anh lấy được máu cá mập quỷ xong sẽ đưa phương pháp điều chế ma dược cho tôi, và cam đoan rằng bản phương pháp điều chế này là thật?”

Arges tỏ ra bình thường:

“Tôi sẽ đưa cho cô một địa chỉ. Chờ khi tôi nhận được máu cá mập quỷ thì sẽ trở về gửi phương pháp điều chế cho cô, hoặc là nói cho cô biết ở chỗ này luôn. Còn về cam đoan, tôi nghĩ rằng dưới sự chứng kiến của vị quý ngài thần bí này, cô và tôi đã quá yên tâm rồi.”

Lúc nói những câu này, anh ta đưa mắt nhìn sang Chu Minh Thuỵ đang ngồi yên trên ghế chủ nhân:

“Thưa ngài, ngài có thể kéo chúng tôi vào đây, hẳn là có được sức mạnh to lớn mà chúng tôi không thể tưởng tượng được. Với sự chứng kiến của ngài, bất kể là tôi hay cô ta đều không dám vi phạm.”

“Đúng đúng!” Audrey mắt sáng ngời, kích động đồng ý.

Theo cô ta thấy thì con người thần bí với năng lực mà không ai có thể tưởng tượng được này quả thật đủ "quyền uy" để làm chứng. Cô và kẻ đối diện nào có gan dám lừa người này!

Audrey quay người lại, thành khẩn nhìn Chu Minh Thuỵ:

“Mong ngài hãy làm chứng cho giao dịch của chúng tôi.”

Lúc này, cô ta mới phát hiện mình đã quên đi một vấn đề, thật không lễ phép chút nào, nên vội vàng hỏi tiếp:

“Thưa ngài, chúng tôi nên gọi ngài là gì?”

Arges khẽ gật đầu, cũng trang trọng hỏi:

“Thưa ngài, chúng tôi nên gọi ngài như nào?”

Chu Minh Thuỵ nghe được mà sửng sốt, hắn khẽ gõ ngón tay đang đặt lên trên chiếc bàn dài, đầu bỗng nhớ tới nội dung cuộc bói toán lúc trước. Hắn dựa ra sau một chút, thu tay phải lại, đan mười ngón tay chống lấy cằm, mỉm cười nhìn hai người kia:

“Các người có thể gọi ta là...”

Nói tới đây, hắn dừng lại một chút, sau đó mở miệng nói với ngữ khí nhẹ nhàng và bình thản:

“Kẻ Khờ.”

Chương 7: Danh hiệu

“Các người có thể gọi ta là... Kẻ Khờ.”

Đáp án ngắn gọn ấy nhanh chóng biến mất trong màn sương mù ngập tràn trong thần điện rộng lớn. Nhưng ở trong lòng Audrey và Arges, câu nói ấy cứ vang vọng mãi, khơi lên từng vòng gợn sóng một.

Thật không ngờ lại nghe thấy một cái tên thể hiện được sự thần bí, hùng mạnh và kỳ dị một cách rất hoàn mỹ như thế này.

Sau vài giây yên lặng, Audrey đứng lên, khẽ nhấc tà váy, khom gối lại rồi cúi người thi lễ với Chu Minh Thuỵ:

“Thưa ngài Kẻ Khờ đáng kính, xin cho phép tôi mạo muội khẩn cầu, ngài có thể làm chứng cho giao dịch của chúng tôi được không?”

“Chuyện nhỏ.” Suy nghĩ nhanh chóng loé lên trong đầu, Chu Minh Thuỵ đáp lại bằng phương thức phù hợp với thân phận của mình.

“Đây là vinh hạnh của chúng tôi, ngài Kẻ Khờ.” Arges cũng đứng lên, đặt tay phải lên ngực, khom lưng hành lễ.

Chu Minh Thuỵ khẽ áp tay xuống, mỉm cười nói:

“Các người tiếp tục đi.”

Arges gật đầu, lại ngồi xuống. Anh ta nhìn Audrey, nói:

“Nếu cô có thể lấy được máu cá mập quỷ thì hãy cho người đưa tới quán bar ‘Dũng Sĩ Và Biển’ ở phố Bồ Nông ở khu Hoa Hồng Trắng cảng Pritz. Nói với chủ quán William James là đồ mà ‘Thuyền trưởng’ muốn. Chờ khi tôi xác nhận xong, cô đưa tôi địa chỉ rồi tôi sẽ gửi bản phương pháp điều chế ma dược sang. Hay là để tôi nói luôn cho cô ở nơi này?”

Audrey suy nghĩ một lúc, rồi tươi cười nói:

“Tôi thích cách nào bí mật hơn, ở nơi này đi, tuy rằng khá là thách thức cái trí nhớ này của tôi.”

Nếu ngài Kẻ Khờ đã đồng ý làm chứng cho giao dịch, như vậy nghĩa là sẽ còn lần "Tụ hội" tương tự nữa.

Nghĩ tới điều đó, cô ta đột nhiên nghiêng đầu nhìn về phía Chu Minh Thuỵ, hăng hái đề nghị: “Thưa ngài Kẻ Khờ, ngài có bận lòng làm thêm vài lần ‘thử nghiệm’ như này nữa không?”

Arges bình tĩnh nghe mà cũng hứng thú, vội phụ hoạ:

“Ngài Kẻ Khờ ạ, ngài không thấy loại ‘Tụ hội’ này rất thú vị sao? Tuy rằng sức mạnh của ngài vượt qua những gì chúng tôi tưởng tượng, nhưng trên thế giới này luôn có những lĩnh vực mà ngài không biết hoặc không am hiểu. Quý cô ngồi đối diện này rõ ràng là một vị tiểu thư có xuất thân cao quý, mà tôi thì cũng có những kinh nghiệm, kiến thức, con đường và tài nguyên của riêng mình. Có lẽ ở một vài thời điểm nào đó trong tương lai, tôi và cô ấy có thể giúp ngài làm những việc bé nhỏ không đáng kể mà ngài không tiện tự mình ra tay."

Theo anh ta thấy, nếu anh ta bị kéo vào nơi này mà không thể phản kháng hay phòng bị được, như vậy nghĩa là quyền chủ động nằm ở trong tay Kẻ Khờ, không phải là muốn từ chối tham gia lần "Tụ hội" sau là có thể không tham gia nữa. Cho nên không bằng tích cực kiếm thêm ích lợi từ cuộc tụ hội lần này nhằm bù đắp cho sự bị động và bất lợi này.

Ba phe bên chiếc bàn dài này không có chung gia thế, với tài nguyên khác biệt, con đường tin tức khác nhau, hiểu biết những lĩnh vực thần bí khác nhau, nếu như có thể trao đổi và hợp tác có hạn với nhau thì không chừng có thể nảy sinh ra được hiệu quả tuyệt vời khó mà đo lường được!

Ví dụ như việc trao đổi ban nãy, so với việc bản thân muốn giết một người, hoàn toàn có thể mời một "thành viên của tụ hội" không có chút liên quan gì tới mình cả mặt ngoài và bản chất tới hỗ trợ, sẽ dẫn câu chuyện đi một hướng khác vô cùng hoàn mỹ.

Tiểu thư xuất thân cao quý... Biểu hiện của tôi, khẩu âm của tôi rõ như vậy sao? Audrey hé miệng, giật mình một cái. Nhưng cô ta nhanh chóng lấy lại tinh thần, gật đầu không chút do dự:

“Thưa ngài Kẻ Khờ, tôi cảm thấy đây là một đề nghị rất hay. Chỉ cần "tụ hội" biến thành định kỳ, nếu có chuyện nào mà ngài không tiện ra mặt, hoàn toàn có thể chuyển cho chúng tôi. Đương nhiên là phải nằm trong phạm vi năng lực của chúng tôi rồi.”

Từ lúc bắt đầu, Chu Minh Thuỵ vẫn luôn cân nhắc lợi hơn thiệt. Càng nhiều "tụ hội" thì quả thật có thể khiến hắn nhận được càng nhiều tri thức về sự huyền bí phi thường và thần bí học, trợ giúp cho việc xuyên việt trở lại Trái Đất. Ví dụ như lần "tụ hội" sau có lẽ sẽ xuất hiện phương pháp điều chế ma dược "Khán Giả", đồng thời cũng có thể tiếp nhận thêm nhiều tin tức cho cuộc sống hiện tại, đạt được những trợ giúp nhất định.

Nhưng càng nhiều "tụ hội" thì càng dễ lộ ra sự hư và thực của bản thân!

Quả nhiên là dù ở bất cứ thế giới nào, chả bao giờ có chuyện gì là chỉ có lợi ích cả... Chu Minh Thuỵ lại đưa tay phải ra, dùng đầu ngón tay gõ nhẹ lên phần mép của chiếc bàn dài.

Nghĩ tới việc triệu tập hay giải toán "tụ hội" đều nằm trong tầm kiểm soát của bản thân, cho dù có lộ ra vấn đề gì thì đều ở trong phạm vi có thể khống chế, lợi ích rõ ràng lớn hơn tai hại, Chu Minh Thuỵ nhanh chóng quyết định.

Hắn dừng động tác gõ tay, nghênh đón bốn ánh mắt chờ mong và thắc thỏm, cười nói:

“Ta là kẻ thích trao đổi đồng giá, sẽ không để các ngươi hỗ trợ vô điều kiện. Vào ba giờ chiều các ngày thứ Hai, cố gắng ở một mình. Chờ ta thử nghiêm vài lần, biết rõ một vài chuyện thì có lẽ các ngươi có thể xin nghỉ trước, không cần lo sẽ gặp phải ‘tụ hội’ vào lúc hoặc ở nơi không thích hợp.”

Đây coi như là đồng ý với lời đề nghị của Arges và Audrey.

Audrey mới vừa tròn mười bảy tuổi, vẫn còn được cha mẹ bảo bọc nên hãy còn trẻ con, nghe được câu trả lời đó của ngài Kẻ Khờ là cô ta nhịn không được mà nắm chặt tay lại, khẽ vẫy trước ngực hai cái.

“Vậy thì chúng ta có nên đặt biệt hiệu gì cho mình không nhỉ? Dù sao cũng không thể dùng tên thật để trao đổi rồi.” Không chờ Arges mở miệng, cô nàng đã nói đầy hào hứng, mắt ngời sáng.

Mặc dù tình hình thật về mình chưa chắc giấu được ngài Kẻ Khờ, nhưng cái tên phía đối diện có vẻ nguy hiểm, không thể để anh ta biết được mình là ai!

"Ý hay." Chu Minh Thuỵ trả lời ngắn gọn và ung dung.

Lúc này Audrey bắt đầu cân não, vừa suy nghĩ vừa nói:

“Ngài là Kẻ Khờ, đến từ bộ bài Tarot. Như vậy thì làm một ‘tụ hội’ định kỳ và lâu dài, danh hiệu của chúng ta phải cố gắng đồng đều. Hừm, vậy thì tôi cũng chọn từ bài Tarot đi.”

Giọng nói của cô nàng dần trở nên khoái trá:

“Quyết định rồi! Danh hiệu của tôi chính là ‘Chính Nghĩa’!”

Đây là một trong hai mươi lá bài chính của bộ bài Tarot.

“Vậy còn anh thì sao?” Audrey cười nhìn "đồng bọn" ở phía đối diện.

Arges khẽ nhíu mày lại, rồi lại giãn mày ra:

“Người Treo Ngược.”

Đây cũng là một lá bài chính khác.

“Ok, như vậy chúng ta coi như là những thành viên sáng lập ra hội Tarot rồi!” Audrey vui mừng thốt lên, sau đó sợ hãi nhìn Chu Minh Thuỵ đang bị sương mù xám bao phủ: “Không thành vấn đề nhỉ, ngài Kẻ Khờ?”

Chu Minh Thuỵ buồn cười, lắc đầu:

“Chuyện nhỏ nhặt này các ngươi tự quyết là được.”

“Cảm ơn!” Audrey rất là hưng phấn, sau đó cô nàng quay sang nhìn Arges:

“Này Người Treo Ngược, có thể lặp lại địa chỉ một lần nữa không? Tôi sợ mình nhớ chưa kỹ.”

“Không thành vấn đề.” Arges khá là hài lòng với Audrey, nhắc lại địa chỉ một lần nữa.

Sau khi lẩm bẩm ba lượt, Audrey lại hào hứng nói:

“Nghe nói bài Tarot chính là trò chơi do Russel đại đế phát minh ra, kỳ thật không hề có tác dụng bói toán?”

“Không! Nhiều khi bói toán bắt nguồn từ chính bản thân mình. Mỗi người đều có linh tính của mình, đều có thể giao cảm tới Linh giới, giao cảm với những tin tức liên quan tới bản thân ở tầng bậc cao hơn. Chỉ là người thường không thể nhận ra điều ấy, càng đừng nói là hiểu được ‘lời nhắc nhở’. Khi bọn họ sử dụng công cụ bói toán, những tin tức này sẽ được bày ra nhờ các công cụ đó, ví dụ đơn giản nhất là mơ và đọc giấc mơ.”

Arges liếc Chu Minh Thuỵ một cái, thấy hắn không tỏ vẻ gì bèn phủ định câu nói của Audrey:

“Trên thực tế bài Tarot là một loại công cụ như vậy. Nó được sử dụng nhiều như biểu tượng, là nguyên tố hợp lý hơn, giúp chúng ta có thể dễ dàng hiểu được ‘lời nhắc nhở’ một cách chính xác hơn.”

Chu Minh Thuỵ trông thì như không để ý, nhưng thực ra đang rất tập trung nghe. Chỉ là hiện tượng tinh thần trống rỗng bắt đầu trở nên càng nghiêm trọng, đầu vừa rứt vừa đau.

“Đã hiểu.” Audrey gật đầu đồng ý, sau đó lại nhấn mạnh: “Ý của tôi không phải như này. Tôi không nghi ngờ bài Tarot, mà là tôi nghe nói trên thực tế Russel đại đế có chế tạo ra một bộ bài khác, bí mật, tượng trưng cho thứ sức mạnh chưa biết, có tất cả là hai mươi lá bài. Sau khi hoàn thành, ông ấy mới dựa trên nó mà phát minh ra hai mươi hai lá bài chính Tarot để chơi. Nói như vậy có đúng không?”

Cô ta nhìn Chu Minh Thuỵ, dường như muốn nhận được đáp án từ chỗ Kẻ Khờ thần bí.

Chu Minh Thuỵ chỉ mỉm cười chứ không nói gì, quăng mắt về phía "Người Treo Ngược" ra chiều đang khảo sát nhà ngươi đó.

Arges thẳng lưng lên theo bản năng, trầm giọng xuống nói:

“Đúng! Nghe nói Russel đại đế từng nhìn vào Phiến đá Khinh nhờn, nên bộ bài kia chính là cất giấu điều huyền bí về hai mươi hai con đường của thần.”

“Hai mươi hai con đường của thần...” Audrey lặp lại với ngữ khí đầy khao khát.

Lúc này cơn đau đầu của Chu Minh Thuỵ nặng thêm, hắn cảm thấy mối liên hệ vô hình giữa mình, ngôi sao đỏ sậm và sương mù xám trắng này bắt đầu lung lay.

“Được rồi, buổi tụ hội hôm nay đến đây thôi.” Hắn lập tức nói.

“Tuân theo ý chí của ngài.” Arges cúi đầu hành lễ.

“Tuân theo ý chí của ngài.” Audrey bắt chước "Người Treo Ngược". Cô nàng còn rất nhiều vấn đề rất nhiều ý tưởng, hoàn toàn không muốn chấm dứt chút nào.

Chu Minh Thuỵ vừa cắt đứt liên hệ vừa cười nói:

“Hãy chờ lần tụ hội sau thôi.”

"Ngôi sao" lại toả sáng. Ánh sáng màu đỏ sậm rụt lại như nước, Audrey và Arges vừa nghe thấy lời ngài "Kẻ Khờ" nói thì bóng dáng đã càng mơ hồ, càng hư ảo hơn.

Chưa đến một giây, "hình chiếu" vỡ vụn, sương mù xám yên tĩnh trở lại.

Chu Minh Thuỵ thì cảm thấy bản thân đang trở nên nặng nề hơn, bốn phía mơ hồ. Đầu tiên là tầm mắt tối sầm lại, sau đó là ánh mặt trời sáng rực.

Hắn còn đang đứng ở trung tâm của căn phòng ở nhà trọ.

“Giống như nằm mơ... Rốt cuộc cái thế giới sương mù xám đó là thứ quái quỷ gì... Là ai, hoặc là thứ sức mạnh nào đã tạo ra sự biến hoá vừa rồi...”

Chu Minh Thuỵ khẽ cảm thán, đầu óc mê mang, lê lết đôi chân nặng nề như rót chì mà đi tới phía bàn học.

Hắn cầm lấy chiếc đồng hồ bỏ túi đặt ở trên mặt bàn, xem thời gian trôi đi bao lâu.

“Thời gian tương đương nhau.” Chu Minh Thuỵ suy đoán đại khái.

Hắn đặt đồng hồ bỏ túi xuống, đầu đau như muốn nứt ra khiến hắn không nhịn được nữa mà phải ngồi xuống ghế, cúi đầu rồi dùng ngón cái và ngón giữa của tay trái mát xa huyệt thái dương hai bên.

Một lúc lâu sau, hắn chợt thở dài, nói bằng tiếng Trung:

“Xem ra trong khoảng thời gian ngắn ta không thể về được rồi...”

Kẻ không biết thì không sợ, thấy được chuyện thần kỳ như vậy, biết tới lĩnh vực phi phàm và thế giới thần bí, Chu Minh Thuỵ không dám lỗ mãng thử dùng tiếng Fusark cổ và tiếng Ruen mà làm "nghi thức đổi vận" nữa!

Quỷ mới biết sẽ không xuất hiện tình huống nào khác, có khi càng kỳ quái hơn, càng khủng khiếp hơn, thậm chí còn làm cho người ta sống không bằng chết!

“Chí ít chờ khi nào có hiểu biết sâu hơn về thần bí học thì mới có thể thử được.” Chu Minh Thuỵ bất đắc dĩ nói.

May là cái gọi là "tụ hội" kia có thể giúp mình.

Sau một lúc lâu im lặng, hắn lẩm bẩm với ngữ khí đầy uể oải, mất mát, đau khổ và phiền muộn:

“Từ giờ trở đi, mình chính là Klein.”

...

Klein cố gắng nghĩ cách và kế hoạch trở về thế giới trước để giải quyết những cảm xúc tiêu cực trong lòng.

Tuần sau có lẽ có thể nghe được bản phương pháp điều chế ma dược "Khán Giả" rồi...

Cuộc "tụ hội" vừa rồi quả thật thần kỳ, kéo người ở những nơi khác nhau trên thế giới vào một nơi, biến khoảng cách ngàn dặm thành gần trong gang tấc để trao đổi chính diện, bù đắp lẫn nhau, chậc, nói ra thì có vẻ quen thuộc...

Klein sửng sốt vài giây, đột nhiên bật cười, vừa day huyệt thái dương vừa tự giễu bản thân:

“Chả phải là lên mấy cái app giao lưu trên internet để nghe ngóng đó sao?”

Chương 8: Thời đại mới

Vù vù!

Gió mạnh cuốn tới, mưa to như trút. Chiếc thuyền có ba cột buồm lên xuống theo từng cơn sóng cao như ngọn núi hệt như một món đồ chơi bị người khổng lồ quẳng đi rồi đón lấy, tiếp được lại quăng đi.

Màu đỏ sậm rút đi khỏi mắt Arges Wilson, anh phát hiện mình đang đứng trên sàn tàu, không khác gì lúc trước.

Ngay sau đó anh ta thấy chiếc bình thuỷ tinh có hình dáng cổ quái trong lòng bàn tay vỡ vụn, sương tuyết tan thành nước hòa vào trong giọt mưa.

Chỉ hai ba giây ngắn ngủi, thứ đồ vật thần kỳ thuộc thời cổ này đã hoàn toàn không để lại dấu vết của việc từng tồn tại.

Một bông tuyết trong suốt hình lục giác hiện ra trên lòng bàn tay Arges, sau đó dần nhạt đi, cuối cùng biến mất, dường như đã ẩn vào trong da thịt.

Arges như tự hỏi điều gì đó mà gật đầu nhẹ tới mức gần như không nhận ra được, rồi im lặng chừng năm phút.

Anh ta quay người lại, đi tới hướng cửa vào khoang thuyền. Khi chuẩn bị bước vào trong, thì gặp được một người đàn ông cũng mặc áo choàng có thêu hình tia chớp đi ra.

Người đàn ông có mái tóc vàng mềm mại này dừng chân lại, nhìn Arges, giơ nắm tay phải ra đặt trước ngực, nói:

“Bão Táp tồn tại cùng anh.”

“Bão Táp tồn tại cùng anh.”

Khuôn mặt với đường nét góc cạnh và tục tằng của Arges chút cảm xúc dư thừa nào, anh ta cũng nắm tay phải lại rồi đánh lên ngực trái.

Sau khi hành lễ với nhau xong, Arges bước vào khoang thuyền, men theo lối đi nhỏ tới buồng thuyền trưởng.

Dọc đường đi anh ta lại chẳng hề gặp thêm bất cứ thuỷ thủ hay thuyền viên nào. Nơi này yên tĩnh hệt như một hầm mộ.

Cửa buồng thuyền trưởng đang mở. Một tấm thảm dày màu nâu sậm mềm xuất hiện trước mặt Arges, hai bên theo thứ tự là giá sách và tủ rượu. Một quyển sách với phần bìa đã ngả vàng với một chai rượu nho màu đỏ rậm loé lên thứ ánh sáng bóng loáng khác thường dưới ánh sáng của ngọn nến.

Trên bàn sách đặt cây nến kia có một lọ mực nước, một cây bút lông vũ, một chiếc kính viễn vọng làm từ kim loại màu đen và một chiếc kính lục phân được chế tạo nên từ đồng thau.

Phía sau bàn, một người đàn ông trung niên với sắc mặt tái nhợt, đội mũ thuyền trưởng xương khô nhìn Arges bước tới, phẫn nộ nghiến răng nói:

“Tao sẽ không khuất phục.”

“Tôi tin là ông làm được.” Arges bình tĩnh nói như thể đang bảo là thời tiết hôm nay không được đẹp cho lắm.

“Mày...” Người đàn ông trung niên giật mình, dường như không ngờ rằng sẽ nhận được một câu trả lời như vậy.

Đúng lúc này, Arges khẽ cong người lại rồi lao vọt tới, nhanh chóng kéo gần khoảng cách giữa hai người chỉ còn lại chiếc bàn học.

Pạch!

Bả vai anh ta căng lên, giơ tay phải ra nắm lấy cổ họng người đàn ông trung niên.

Không cho đối phương cơ hội phản ứng, mu bàn tay Arges hiện lên những mảnh vẩy cá hư ảo. Năm ngón tay nắm chặt lại.

Rắc rắc!

Trong tiếng vang giòn tan, đôi mắt người đàn ông trung niên đầy kinh ngạc, thân thể ông ta bị nhấc lên.

Ông ta vùng lắc đôi chân dữ dội, nhưng rồi nhanh chóng dừng lại. Trong tầm mắt mờ mịt kia, đồng tử bắt đầu giãn ra. Chỗ đũng quần bắt đầu ướt, bốc ra mùi khai.

Arges nhấc người đàn ông trung niên lên, khom người lại, chân thì bước tới bức tường bên cạnh.

Rầm!

Arges lấy người đàn ông làm tấm khiên mà đánh mạnh tới phía trước với cánh tay to và khoẻ như tay quái vật.

Bức tường làm từ gỗ lập tức vỡ tung. Mưa gió cuốn mùi tanh của nước biển vào trong phòng.

Arges xoay người rồi ném người đàn ông trung niên ra khỏi khoang thuyền vào trong những ngọn sóng to như ngọn núi đang nối tiếp nhau mọc lên.

Bầu trời tối om, mưa gió rít gào, sức mạnh tự nhiên to lớn đã vùi dập tất cả.

Arges lấy một chiếc khăn tay màu trắng ra lau thật kỹ tay phải, sau đó cũng ném nó vào trong biển cả.

Anh ta lùi ra sau vài bước, kiên nhẫn chờ đồng bọn đi vào.

“Chuyện gì thế?” Không đến mười giây sau, người đàn ông có mái tóc vàng mềm mại vọt vào trong phòng.

“’Thuyền trưởng’ bỏ chạy rồi." Arger thở phì phò, ảo não nói: “Ông ta lại vẫn giữa được mấy phần lực phi phàm!”

“Chết tiệt!" Người đàn ông tóc vàng khẽ mắng một tiếng. Anh ta đi tới chỗ vỡ nhìn ra phương xa. Nhưng ngoài mưa gió và sóng biển ra thì chẳng nhìn thấy gì khác.

“Thôi, ông ta chỉ là thứ yếu thôi.” Người đàn ông tóc vàng phất tay: “Có thể tìm được chiếc thuyền u linh thuộc thuyền chiến của thời đại Tudor, chúng ta chỉ có công chứ không có tội.”

Cho dù là người thân thiết với biển rộng, nhưng với cái loại thời tiết thế này anh ta cũng không dám lặn vào trong nước.

“Hơn nữa nếu bão táp cứ tiếp tục thì ‘thuyền trưởng’ sẽ không chống đỡ được lâu.” Arges gật đầu, phát hiện bức tường gỗ bị vỡ kia bắt đầu phục hồi phần bị vỡ với tốc độ mà mắt thường có thể thấy được.

Anh ta nhìn thật chăm chú, sau đó theo bản năng nhìn về chỗ cánh buồm và bánh lái. Cho dù là cách lớp vách gỗ khá dầy, anh ta cũng có thể biết rõ tình huống nơi đó như nào.

Không có lái chính, không có phụ lái, không có thuyền viên, không có thuỷ thủ, thậm chí là không có người sống!

Nơi đó không có vật gì cả, bánh lái và cánh buồm đang tự điều chỉnh một cách kỳ dị.

Hình ảnh vị "Kẻ Khờ" mà toàn thân bị bao phủ trong màn sương xám lại hiện ra trong đầu, Arges bỗng thở dài. Anh ta quay đầu nhìn sóng to gió lớn bên ngoài, nói với ngữ khí vừa chờ mong, vừa e sợ, lại như nói mớ:

“Một thời đại mới đã bắt đầu...”

...

Khu Hoàng Hậu ở thủ đô Backlund của vương quốc Ruen.

Audrey Hall véo khuôn mặt mình, dường như không thể tin được những gì mình vừa trải qua.

Chiếc gương đồng cổ xưa trên bàn trang điểm trước mặt cô ta đã vỡ thành từng mảnh.

Dời mắt sang nơi khác, Audrey thấy chỗ mu bàn tay mình có "đỏ sậm" đang loé lên, hệt như "hình xăm" ngôi sao. "Đỏ sậm" dần tối đi, cuối cùng ẩn vào trong da, không còn thấy gì nữa.

Mãi tới lúc này Audrey mới xác định là mình không nằm mơ.

Cô nàng đung đưa mặt, miệng khẽ mỉm cười, nhịn không được mà đứng dậy khom người nhấc làn váy lên.

Sau khi cúi người thi lễ với không khí, Audrey nhẹ nhàng chuyển động cơ thể, nhảy điệu múa "Tinh linh cổ" lưu hành nhất trong cung đình đương thời.

Bóng dáng nhẹ nhàng, nụ cười sáng rực toả khắp khuôn mặt.

Cốc cốc cốc! Đột nhiên cửa phòng ngủ bị người ta gõ.

“Ai vậy?” Audrey dừng nhảy, bày ra một tư thế rất nhã nhặn.

“Thưa cô chủ, có vào được không? Cô nên chuẩn bị rồi.” Hầu gái đứng ngoài hỏi.

Audrey nghiêng đầu nhìn chiếc gương trên bàn trang điểm, nhanh chóng chuyển từ cười tươi thành cười mỉm.

Cô nhìn trái nhìn phải, xác nhận hình tượng hiện giờ của mình không có vấn đề gì thì mới dịu dàng nói:

“Vào đi.”

Nắm cửa bị xoay, hầu gái Annie của cô đẩy cửa bước vào.

“Ô, vỡ rồi...” Annie liếc mắt là thấy kết cục của chiếc gương đồng cũ kia.

Audrey chớp chớp mắt, lập tức từ tốn nói:

“Ây, là, ừm, lúc nãy Susie chạy vào, mà cô biết rồi đó, nó hay quậy phá lắm!”

Susie là một con chó lông vàng với huyết thống không được thuần khiết cho lắm, là quà tặng mà bá tước Hall, cha của Audrey, nhận được khi mua chó săn cáo, nhưng Audrey rất là thích.

“Cô phải dạy dỗ nó một trận mới được.” Annie quen thuộc dọn dẹp mảnh vỡ của gương đồng, sợ cô chủ của mình bị thương.

Xong xuôi, cô ta nhìn Audrey, mỉm cười dò hỏi: “Cô chủ muốn mặc chiếc váy nào?”

Audrey bỏ qua việc suy nghĩ mà nói luôn: “Tôi thích chiếc váy mà phu nhân Ginia đã thiết kế riêng cho tôi lúc sinh nhật mười bảy tuổi.”

“Không được, người ta thắc mắc không biết liệu có phải gia tộc Hall bị khủng hoảng tài chính, mà một cái váy lại mặc ở trường hợp chính thức tới hai lần!” Annie lắc đầu phủ định.

“Nhưng là tôi rất thích nó mà.” Audrey ôn hoà nhưng cường điệu câu nói này.

“Cô có thể mặc ở nhà, ở những trường hợp không chính thức.” Annie tỏ ra không có chỗ thương lượng trong chuyện này.

“Vậy chiếc váy mà ngài Sydes đưa tới hôm kia đi, cái váy có mép cổ tay áo là lá sen ấy.” Audrey khẽ hít vào một hơi, và vẫn giữ vững nụ cười ngọt ngào tao nhã.

“Cô chủ vẫn luôn tinh mắt như vậy.” Annie cười, lùi ra sau một bước rồi hô với người ngoài cửa: “Phòng để quần áo thứ sáu, mà thôi, tự mình đi lấy vậy.”

Đám hầu gái bắt đầu lu bù lên. Một người phụ trách váy dài, một người phụ trách trang sức, một người nữa thì lo liệu phần giầy dép, một người phụ trách mũ lụa, một người nữa thì lo trang điểm cho cô chủ Audrey, một người lo phần kiểu tóc.

Sau khi sắp chuẩn bị xong, bá tước Hall mặc áo gile màu nâu sậm xuất hiện ở cửa.

Ông ta đội một chiếc mũ dạ cùng màu với quần áo, để hai hàng ria mép khá đẹp, đôi mắt xanh thẳm kia ngập tràn ý cười. Nhưng mà cơ bắp lỏng lẻo, phần bụng hơi phệ cùng những nếp nhăn trông khá rõ kia đã vô tình phá đi vẻ anh tuấn của ông ta thời trẻ.

“Viên đá quý sáng nhất Backlund, chúng ta nên xuất phát rồi.” Bá tước Hall đứng ở lối vào, khẽ gõ hai lần lên cánh cửa đã mở sẵn.

“Ba à, đừng có gọi con như vậy.” Audrey được hầu gái dìu đứng dậy, cố ý tỏ ra rầu rĩ.

“Vậy công chúa nhỏ xinh đẹp của ba, nên xuất phát thôi.” Bá tước Hall gập tay trái lại, tỏ ý muốn Audrey khoác tay lên.

Audrey khẽ cười, lắc đầu:

“Đây là vị trí của phu nhân Hall, bá tước phu nhân, mẹ yêu dấu của con mà.”

“Là bên này.” Bá tước Hall mỉm cười đưa tay phải ra: “Đây coi như là niềm kiêu ngạo của một người cha.”

...

Căn cứ hải quân hoàng gia ở đảo Cây Sồi, cảng Pritz.

Khi Audrey khoác tay cha mình đi xuống xe ngựa, cô nàng lập tức khiếp sợ bởi một con quái vật lớn ở trước mặt.

Trong cảng quân đội cách đó không xa, một chiếc chiến hạm nguy nga toàn thân loé ra ánh sáng kim loại đang neo đậu nơi đó. Nó không có buồm, chỉ còn lại đài quan sát và hai ống khói cao, thêm hai chiếc bệ pháo lộ thiên ở đầu và đuôi tàu.

Nó hùng vĩ như thế, khổng lồ như thế, khiến cho những con tàu chiến cánh buồm đậu gần đó hệt như một đám người lùn mới sinh đang vây quanh một người khổng lồ.

“Bão Táp trên cao...”

“Ôi chúa tể của tôi ơi!”

“Tàu chiếc bọc thép!”

...

Những tiếng than đầy sợ hãi nho nhỏ đan xen vào nhau. Audrey cũng có cảm giác tương tự, đó chính là kỳ tích mà con người sáng tạo ra, là kỳ tích hải dương mà trước nay chưa từng có!

Không biết bao lâu sau, quý tộc, đại thần và các nghị sĩ hạ viện mới bình tĩnh trở lại. Lúc này, một chấm đen giữa không trung từ nhỏ hoá lớn, dần chiếm cứ một phần ba bầu trời, chiếm giữ tầm mắt của mọi người, làm cho bầu không khí đột nhiên trang nghiêm hẳn.

Đây là một vật thể to lớn bay lượn giữa không trung với đường cong rất duyên dáng và đẹp đẽ, toàn thân được sơn màu xanh đậm. Khung kim loại chắc chắn và nhẹ nhàng chống đỡ những lớp vải bông có chứa túi khí nhẹ. Bên dưới có treo nòng súng hữu cơ, miệng thả bom, phần che miệng pháo bắn ngang. Tiếng ù ù to lớn do đốt máy hơi nước và âm thanh tạo ra do phần cánh mái chèo ở đuôi đang quay vù vù cấu tạo nên khúc nhạc chấn động lòng người.

Vua và người nhà đi thuyền bay đến đây, mang theo vẻ uy nghiêm nhìn xuống tất cả.

Một chiếc huy hiệu dựng thẳng với phần chuôi là "Thanh kiếm thẩm phán" vương miện hồng ngọc ở hai bên mái che phản xạ ánh mặt trời. Đây là biểu tượng lưu truyền đã lâu của gia tộc Augustus, có thể truy ngược tới tận kỷ trước đó.

Audrey chưa tròn mười tám tuổi nên vẫn chưa tham gia "nghi thức giới thiệu", đó là được hoàng hậu dẫn dắt mà chính thức gia nhập những cuộc xã giao ở Backlund để tuyên bố là đã trưởng thành, nên chỉ có thể đứng im tại chỗ mà nhìn, không thể tới gần.

Chẳng qua cô ta không để ý cho lắm, thậm chí còn thấy thoải mái vì không phải đối mặt với các vị hoàng tử.

"Dấu tích thần kỳ" của việc con người chinh phục được bầu trời vững vàng tiếp đất. Nhóm người đầu tiên theo thang cuốn xuống dưới trước chính là đám thị vệ trẻ tuổi có tư thế oai hùng. Bọn họ mặc lễ phục quân đội màu đỏ, quần dài màu trắng, đeo huân dải trên người, tay cầm súng trường. Bọn họ chia làm hai nhóm sang hai bên, yên lặng chờ đợi vua George đệ Tam, hoàng hậu, hoàng tử và công chúa xuất hiện.

Không phải là Audrey chưa gặp các nhân vật lớn bao giờ nên cô chẳng hề hứng thú lắm, ngược lại cô nàng đảo mắt xung quanh nhìn hai vị kỵ sĩ mặc áo giáp đen hệt như hai bức tượng bên người nhà vua.

Tại thời đại sắt thép, hơi nước và súng pháo này, thế mà vẫn còn có kẻ kiên trì mặc áo giáp toàn thân!

Bộ áo giáp màu đen thâm trầm, sáng bóng thứ ánh sáng kim loại lạnh lẽo như băng khiến người ta có cảm giác nặng nề, uy nghiêm và bị ép phải phục tùng.

Chẳng lẽ là "Kỵ sĩ trừng phạt" của danh sách cấp cao... Audrey nhớ tới mấy câu nói chuyện phiếm của các vị cha chú trong nhà, rõ là muốn tới nhìn cho biết mà lại không dám tới gần.

Khi gia đình nhà vua tới, nghi thức mới bắt đầu. Thủ tướng đương nhiệm, huân tước Argusid Negan đi tới trước mặt mọi người.

Ông ta là thành viên của đảng Bảo thủ, là một trong hai nhân vật duy nhất không dựa vào thân phận quý tộc mà trở thành thủ tướng, nhờ có sự cống hiến nổi bật nên được trao tặng huân tước.

Đương nhiên Audrey biết nhiều hơn, anh trai của Argusid, người ủng hộ chủ yếu của đảng Bảo thủ có tên là Pallas Negan, là vị công tước Negan thế hệ hiện tại!

Argusid chừng năm mươi tuổi, có vóc dáng cao gầy, tóc khá thưa, ánh mắt sắc bén. Ông ta nhìn xung quanh một lượt rồi mới nói:

“Thưa các quý ông, quý bà, tôi tin rằng các vị đã thấy được đây là một con tàu chiến bọc thép, là một tàu chiến có thể đảo điên được thời đại. Nó dài 101 mét, rộng 21 mét, có thiết kế mạn thuyền cao cấp, được bọc lớp thép dày 457 mm, nặng 10.060 tấn. Đằng trước và đằng sau có bốn cửa cho pháo chính 305 mm, ngoài ra còn 6 cửa pháo bắn nhanh, 12 cửa 6 pháo cạnh, 18 cửa súng máy, 4 ống phóng ngư lôi, tốc độ có thể đạt tới 16 nút* ! Nó chính là bá chủ chân chính, sẽ chinh phục đại dương mênh mông!"

Các vị đại thần, quý tộc và nghị sĩ xôn xao, bởi chỉ với lời miêu tả của thủ tướng thôi cũng có thể khiến bọn họ tưởng tượng ra sự khủng khiếp của con tàu chiến bọc thép này là như nào, huống chi vật thật còn đang ở ngay trước mặt!

Argusid nở nụ cười tươi, sau đó lại diễn thuyết vài câu, rồi hành lễ với vua George đệ Tam và nói:

“Thưa bệ hạ, xin bệ hạ hãy đặt tên cho nó đi.”

“Bắt đầu từ cảng Pritz, vậy thì gọi nó là tàu Pritz đi.” Vua George đệ Tam nói với vẻ mặt khá là vui sướng.

“Tàu Pritz!”

“Pritz!”

...

Từ đại thần hải quân, vị tổng tư lệnh hải quân hoàng gia mà cái tên này được truyền ra theo thứ tự, cuối cùng đi tới trên tàu chiến bọc thép, do đám sĩ quan và binh sĩ cùng hoan hô:

“Tàu Pritz!”

Trong bầu không khí chúc mừng, tiếng súng bắn chào vang lên liên tục, vua George đệ Tam bắt đầu hạ lệnh bắn thử.

Ù!

Tiếng còi hơi vang lên, từng cột khói đặc phun ra từ trong ống khói, có thể mang máng nghe được tiếng máy móc chuyển động.

Con quái vật kia khởi hành. Khi nó ra khỏi cảng, dùng hai ổ pháo chính trên tàu bắn vào hòn đảo nhỏ không người ở phía trước, mọi người đều khiếp sợ.

Đùng! Đùng! Đùng!

Mặt đất như bị rung lắc, bụi mù bắn lên trên không. Gió lớn thổi quét ra ngoài làm dấy lên sóng biển cao.

Thủ tướng Argusid hài lòng quay đầu nói với quý tộc, đại thần và các nghị sĩ:

“Từ giờ trở đi, bảy tên hải tặc tự xưng là tướng quân và bốn tên hải tặc lại dám xưng vua kia chỉ có thể run rẩy chờ tận thế giáng xuống mà thôi! Thời đại của chúng đã kết thúc rồi! Cho dù chúng có bao nhiêu lực phi phàm, có tàu u linh hoặc thuyền bị nguyền rủa, nhưng thứ có thể tung hoành khắp các hải dương cũng chỉ có thể là tàu chiến bọc thép!”

Lúc này, thư ký trợ lý của Argusid cố ý hỏi:

“Vậy bọn họ không thể tự chế tạo tàu bọc thép cho mình sao?”

Một bộ phận quý tộc và nghị sĩ ngầm gật đầu, cho rằng không thể loại trừ khả năng này được.

Argusid lập tức cười tươi, thong dong lắc đầu, nói:

“Không thể! Vĩnh viễn cũng không làm được! Muốn chế tạo ra một tàu bọc thép như này thì cần thể kết hợp môi cương loại lớn, cần hai mươi xưởng sắt thép có quy mô lớn, cần viện nghiên cứu đại bác Backlund, sáu mươi nhà khoa học của viện nghiên cứu thuyền Pritz và rất nhiều kỹ sư cao cấp. Cần hai xưởng đóng tàu hoàng gia và gần trăm xưởng linh kiện trực thuộc nó. Cần một đội hải quân, một uỷ ban chế tạo thuyền, một nội các, một vị vua lỗi lạc có con mắt tinh đời và kiên định cùng một quốc gia có sản lượng sắt thép 1.200 vạn tấn một năm! Đám hải tặc kia không bao giờ có thể làm được!”

Nói tới đây, ông ta dừng lại một chút, sau đó giơ hai tay lên, hùng dũng hô to:

“Hỡi các quý ông, quý bà, thời đại của chiến hạm và đại bác đã tới rồi!”

* Nút: là đơn vị đo tốc độ tương đương 1 hải lý/giờ hay 1852 m/h.

Chương 9: Bút ký

Chu Minh Thuỵ, nay đã tự nhận mình là Klein, nghỉ ngơi nửa giờ mới chậm rãi hồi phục lại. Trong lúc đó hắn phát hiện mu bàn tay phải của mình có thêm bốn chấm đen, vừa đủ tạo nên một hình vuông nhỏ.

Bốn chấm đen này từ đậm chuyển nhạt, sau đó nhanh chóng biến mất. Nhưng Klein biết rõ là chúng nó vẫn núp trong cơ thể mình chờ đánh thức.

“Bốn chấm, hình vuông, chẳng lẽ là đối ứng với món chính được chia ra bốn góc? Sau này mình không cần phải chuẩn bị món chính nữa, mà cứ trực tiếp bước và dùng thần chú là được?” Klein suy đoán.

Điều này thoạt trông có vẻ không tệ, nhưng trên người bỗng có một "thứ" có lai lịch kỳ quái, khó mà biết rõ được luôn khiến người ta sợ hãi.

Lại nghĩ tới một phương thuật kỳ lạ trên Trái Đất lại có thể sinh ra được tác dụng ở nơi này, nhớ tới sự xuyên việt đầy kỳ quái trong khi đang ngủ, và cả thế giới sương xám thần bí, mê hoặc, không biết là đại diện cho cái gì, rồi những tiếng thì thầm luôn bồi hồi, vang vọng trong "nghi thức", khiến người ta nghe mà suýt phát điên nữa, Klein bỗng rùng mình một cái trong cái tiết trời nóng bức cuối tháng sáu này.

Hắn từng nghe được một câu nói như thế này: Thứ cảm xúc cổ xưa nhất, lại mạnh mẽ nhất của con người chính là nỗi sợ hãi. Mà nỗi sợ hãi cổ xưa nhất, mạnh mẽ nhất lại là sợ hãi thứ không biết. Hiện giờ hắn hoàn toàn cảm nhận sâu sắc được sợ hãi tới từ những gì mình không biết.

Trước nay chưa từng có, không thể ngăn chặn. Hắn bỗng dâng trào cái cảm xúc đầy mãnh liệt là muốn tiếp xúc với lĩnh vực thần bí, hiểu biết nhiều hơn để loại bỏ cái không biết, chứ không thể chôn đầu xuống đất như đà điểu vờ như chả có chuyện gì xảy ra để mà trốn tránh.

Ánh nắng hừng hực chiếu ngoài cửa sổ, trải một tầng "bụi vàng" lên bàn học. Klein chăm chú nhìn chỗ đó như thể chạm được chút ấm áp và hy vọng.

Hắn khẽ thả lỏng đôi chút, lập tức cảm thấy mỏi mệt ùa tới như thuỷ triều.

Tối hôm qua không ngủ, ban nãy lại tiêu hao khiến mí mắt hắn nặng như đeo ngàn cân, không ngăn được mà rũ xuống.

Klein lắc đầu, giơ tay chống bàn, mặc kệ việc thu dọn bánh mì mạch đen ở bốn góc mà thất thểu đi tới trước giường tầng. Hắn vừa nằm xuống, vừa chạm vào gối thì đã ngủ mê mệt.

Ùng ục! Ùng ục!

Bị cơn đói đánh thức, Klein mở mắt, cảm thấy tinh thần rất sảng khoái.

“Đầu vẫn còn đau.”

Hắn day day thái dương, vùng người ngồi dậy, cảm thấy lúc này mình có thể ăn hết một con trâu.

Hắn vừa vuốt vuốt những nếp uốn trên quần áo, vừa quay trở lại chỗ bàn học, cầm chiếc đồng hồ bỏ túi màu trắng bạc có hoa văn hình dây kia.

Tạch!

Nắp bật ra, kim giây tí tách di chuyển.

“Mười hai giờ rưỡi, mình ngủ hơn ba tiếng đồng hồ...”

Klein nuốt nước miếng, bỏ đồng hồ vào trong túi của chiếc áo sợi đay.

Ở lục địa Bắc, mỗi một ngày cũng chia làm hai mươi tư giờ, mỗi giờ sáu mươi phút, mỗi phút sáu mươi giây. Còn việc độ dài của mỗi giây liệu có bằng với giây ở Trái Đất không thì Klein không biết.

Với hắn mà nói, lúc này ngay cả những từ như thần bí học, nghi thức hay thế giới sương mù xám đều không thể tiến vào trong não, chuyện quan trọng nhất lúc này là ăn, là ăn!

Chỉ khi nào ăn no rồi mới có thể nghĩ cách! Mới làm việc được!

Klein không chút do dự lấy bốn chiếc bánh mì mạch đen về từ bốn góc, phẩy đi tro bụi dính lên trên bánh, định lấy một cái trong số bốn cái bánh kia để làm món chính cho bữa trưa.

Vì quê nhà có tập tục là ăn đồ cúng sau khi thờ cúng xong, mà bốn chiếc bánh mì mạch đen này trông chả có gì đổi khác cả, với lại túi hắn hiện giờ chỉ còn năm đồng penny, nên hắn cảm thấy làm người thì nên tiết kiệm đôi chút.

Đương nhiên là cũng chịu sự ảnh hưởng từ mảnh vỡ ký ức và thói quen sinh hoạt của nguyên chủ.

Bởi vì khí gas quá đắt, mang ra chiếu sáng cũng khiến người ta xót của, nên hắn kéo bếp lò ra, bỏ thêm ít than đá. Hắn chạy tới chạy lui, chờ nước sôi.

Cái loại bánh mì mạch đen này mà ăn không thì nghẹn chắc luôn!

“Chậc, chẳng lẽ phải sống cái cuộc đời sáng bánh mì đen, trưa bánh mì đen, tối mới được ăn thịt sao? Không, nếu không phải Melissa lo cho mình sắp đi phỏng vấn, một tuần mới được ăn thịt hai lần...”

Ăn không ngồi rồi, lại vì đói khát nên chẳng thể nghiêm túc suy ngẫm được, thế là Klein nhìn xung quanh.

Nghĩ tới một pound thịt dê, hắn nhìn tủ bát với ánh mắt như xám ngắt cả đi.

“Không, không được, phải chờ Melissa về cùng ăn.” Klein lắc đầu thật mạnh, phủ định ý tưởng cắt một nửa ra nấu ăn trước.

Là một tên FA chính hiệu phiêu bạt trong một thành phố lớn, hắn tuy coi việc ăn quán là chính, nhưng vẫn rèn luyện được ít tài nấu ăn cơ bản, ngon thì không tới nhưng cũng tàm tạm.

Klein quay người đi hòng không nhìn thấy thì đỡ phải nghĩ. Đúng lúc này, hắn bỗng nhớ ra buổi sáng ngoài việc mua thịt ra, hắn còn mua đậu Hà Lan non và khoai tây!

Khoai tây! Klein tức thì có linh cảm, hắn như gió lốc vọt tới cạnh tủ bát, lấy ra hai củ trong số khoai tây không nhiều lắm kia.

Hắn tới phòng tắm chung rửa sạch khoai tây, sau đó đặt chúng vào trong nồi, luộc với nước.

Một lúc sau, hắn lấy hộp gia vi ra khỏi tủ bát, mở nắp ra và đổ một ít muối vừa to vừa ố vàng vào trong nước.

Lại kiên nhẫn chờ thêm vài phút đồng hồ, Klein xách siêu lên, rót thứ không được coi là canh vào trong bát và tô lớn, sau đó mới xiên hai củ khoai tây ra, để xuống bàn.

Phù!

Hắn lột vỏ rồi thổi lên tay. Mùi khoai tây chín lập tức trào ra, khiến người ta thèm thuống.

Nước miếng trào ra liên tục, Klein bất chấp việc chỉ mới bóc được một nửa và rằng khoai tây hãy còn nóng, hắn đưa lên miệng rồi cắn một miếng thật to.

Mềm! Thơm! Ăn xong còn thấy ngọt nữa! Klein tức thì thấy lòng cảm động ngập tràn, ngấu nghiến giải quyết xong hai củ khoai tây, thậm chí còn ăn cả vỏ.

Cho tới lúc này hắn mới cầm chiếc bát to, ngon lành nhấp một hớp "canh", vị muối nhạt cọ rửa cái khô khốc trong miệng.

“Hồi bé mình thích ăn như này nhất...”

Klein đã có thứ lót bụng vừa lặng lẽ cảm khái, vừa bẻ bánh mì mạch đen nhúng "canh" cho mềm rồi ăn.

Có lẽ là do "nghi thức" hồi trước tiêu hao quá nhiều nên hắn ăn một mạch hai cái, đi hẳn một pound.

Uống "canh", dọn dẹp, Klein cảm thấy mình đã hoàn toàn sống lại, lại thể nghiệm được niềm vui của việc được làm người và hưởng thụ ánh nắng mặt trời rực rỡ.

Hắn ngồi xuống trước bàn học, bắt đầu suy nghĩ xem mình nên làm gì kế tiếp.

“Không thể trốn tránh, bắt buộc phải nghĩ cách tiếp xúc với lĩnh vực thần bí để trở thành người phi phàm trong miệng ‘Chính Nghĩa’ và ‘Người Treo Ngược’. Phải chiến thắng nỗi sợ hãi với thứ không biết. Cách duy nhất hiện tại là chờ lần ‘tụ hội’ tiếp theo, xem liệu có dự thính được phương pháp điều chế ma dược ‘Khán Giả’ hoặc là các tri thức thần bí khác không. Từ giờ tới thứ Hai còn bốn ngày nữa. Trước đó ta phải nhìn thẳng vào vấn đề của nguyên chủ, rằng vì sao cậu ta tự sát, cậu ta đã gặp phải chuyện gì...”

Không còn cách nào xuyên việt trở lại nên Klein vốn định vỗ đít bỏ đi nay đành phải cầm lấy cuốn bút ký đang mở sẵn, định lật xem có manh mối nào để bổ sung cho những mảnh vỡ ký ức không trọn vẹn kia không.

Rất hiển nhiên là nguyên chủ có thói quen viết bút ký, đồng thời cũng có sở thích coi bút ký là nhật ký. Klein biết rõ trong ngăn tủ ở chân phải của bàn học này chất đầy những cuốn bút ký đã viết hết trang.

Cuốn bút ký này được sử dụng từ ngày 10 tháng 5, phần đầu chủ yếu là nhắc tới trường học, tới giảng viên và các tri thức:

"Ngày 12 tháng 5, thầy Azcot nhắc tới ngôn ngữ thông dụng của đế quốc Byran ở lục địa Nam cũng tới từ tiếng Fusark cổ, cũng chính là một nhánh của ngôn ngữ của người khổng lồ. Tại sao lại như vậy? Chẳng lẽ tất cả những sinh vật có linh tính đều từng sử dụng chung một loại ngôn ngữ. Không, điều này chắc chắn là sai rồi. Cho dù trong các cuốn ‘Đêm Tận Thế’ hay ‘Cuốn sách Bão Táp’ đều có ghi lại rằng ở tong thời đại còn cổ xưa hơn cả cổ xưa, người khổng lồ không phải chúa tể duy nhất, còn có tinh linh, còn có dị chủng, còn có rồng khổng lồ. Thôi, tất cả chỉ là truyền thuyết, là truyện thần thoại mà thôi."

...

"Ngày 16 tháng 5, phó giáo sư Cohen và thầy Azcot thảo luận tính tất yếu của thời đại hơi nước. Thầy Azcot cho rằng đây được coi là tính ngẫu nhiên, nếu không phải Russel đại đế đột nhiên xuất hiện thì có lẽ lục địa Bắc vẫn giống lục địa Nam, vẫn ở trong thời đại vũ khí lạnh. Phó giáo sư thì cho rằng ông quá chú trọng vào tác dụng của cá thể. Ông ấy cho rằng theo sự phát triển của thời đại, không có Russel đại đế, Robert đại đế, tóm lại là thời đại hơi nước sẽ đến muộn hơn, nhưng chắc chắn sẽ đến. Đối với chuyện này, tôi chỉ cảm thấy chả có gì nghĩa gì. Tôi thích phát hiện điều mới mẻ mà sắp bị sương mù lịch sử bao phủ lại. Có lẽ tôi không nên theo ngành lịch sử, mà phải học ngành khảo cổ học mới đúng."

...

"Ngày 29 tháng 5, Welch tìm tôi, nói là lấy được một cuốn bút ký của kỷ thứ tư. Nữ thần của tôi ơi, bút ký của kỷ thứ tư! Cậu ta không đi tìm những bạn học cùng hệ khảo cổ, mà muốn mời ta với bạn Naya cùng giúp tìm hiểu nội dung bản bút ký. Chuyện như vậy sao tôi có thể từ chối cho được? Đương nhiên là phải để sau bảo vệ tốt nghiệp đã. Lúc này tôi không thể phân tâm được."

Đọc đến đây, Klein cảm thấy phấn chấn, so với việc đọc bút ký lịch sử, tranh luận quan điểm, thứ bút ký về "kỷ thứ tư" mới càng có thể khiến nguyên chủ tự sát.

Kỷ thứ tư chính là thời đại trước "Kỷ nguyên Sắt Đen" hiện giờ. Những tin tức lịch sử liên quan đến nó hệt như bị phủ bụi mù, thiếu thốn rất nhiều, ngay cả những lăng tẩm, thành phố cổ và tài liệu lịch sử khai quật được cũng quá ít. Các nhà lịch sử học và khảo cổ học chỉ có nương theo những điển tịch thần học đầy mơ hồ, dùng để giáo dục tín ngưỡng làm chính của bảy giáo hội mà mới coi như là chắp vá được một chút "nguyên trạng", biết đến sự tồn tại của đế quốc Solomon, vương triều Tudor, và đế quốc Trensolster.

Một Klein lập tiêu chí phá tan màn sương mù để khôi phục lịch sử càng không hứng thú gì với truyền thuyết thiên thần ở "ba kỷ trước", chỉ để ý tới kỷ thứ tư hay còn được gọi là "Thời đại các vị thần", có thể biết là sẽ kích động như nào.

“Hà, như vậy có thể thấy cậu ta coi trọng phỏng vấn, lo lắng nghề nghiệp trong tương lai, nhưng thật ra đâu cần phải vậy...” Klein nhịn không được mà cảm thán.

Hiện giờ có rất ít đại học, hầu hết sinh viên là con cháu nhà quý tộc hoặc nhà có điều kiện. Bình dân chỉ cần vào, cho dù bị kỳ thị vì thân phận và không thể gia nhập vòng xã giao với những kẻ khác, nhưng chỉ cần bản thân không suy nghĩ cực đoan, mà dựa vào các chuyện như thảo luận nhóm hoặc hoạt động tập thể thì vẫn có thể có được những mối quan hệ nhất định, là những mối quan hệ khá quý báu!

Ví dụ như Welch McGwen chính là con trai của một ông chủ nhà băng ở thành phố Conston nằm ở quận Gian Hải vương quốc Ruen. Cậu ta là một con người hào sảng, ra tay hào phóng. Vì làm báo cáo tốt nghiệp cùng nhóm với Klein và Naya trong một thời gian này nên đã nhờ bọn họ hỗ trợ theo thói quen.

Không để suy nghĩ tản ra, Klein tiếp tục đọc bút ký:

"Ngày 18 tháng 6, tốt nghiệp. Tạm biệt nhé, Hoy của tôi!"

"Ngày 19 tháng 6, tôi nhìn thấy cuốn bút ký kia. Trải qua việc so sánh về kết cấu và từ gốc, phát hiện nó là một biến chủng của ngôn ngữ Fusark cổ. Chính xác hơn thì là trong lịch sử hơn một nghìn năm, tiếng Fusark cổ vẫn luôn diễn biến một cách khá nhỏ bé."

"Ngày 20 tháng 6, chúng tôi đọc hiểu được nội dung của tờ đầu tiên, tác giả là một thành viên của gia tộc có tên là 'Antigenous'."

"Ngày 21 tháng 6, ông ta nhắc tới 'Hắc hoàng đế'. Điều này với những nội dung suy luận ra về thời đại đó là hoàn toàn mâu thuẫn, chẳng lẽ cái nhìn của thầy sai rồi. 'Hắc hoàng đế' thực ra chính là danh hiệu chung dành cho mỗi một vị hoàng đế của đế quốc Solomon?"

"Ngày 22 tháng 6, gia tộc tên là "Antigenous' này dường như có địa vị khá hiển hách ở đế quốc Solomon, chủ nhân bút ký có nói tới việc ông ta tiến hành một giao dịch bí mật với người tên là Tudor. Tudor? Vương triều Tudor?"

"Ngày 23 tháng 6, tôi ép cho bản thân không được nghĩ tới cuốn bút ký kia và không tới chỗ Welch nữa. Tôi sắp phỏng vấn rồi! Đây là chuyện vô cùng quan trọng!"

"Ngày 24 tháng 6, Naya nói cho tôi rằng bọn họ có thu hoạch mới, tôi nghĩ tôi nên đi xem thế nào."

"Ngày 25 tháng 6, qua nội dung mới đọc hiểu được thì chủ nhân bút ký nhận một nhiệm vụ là đi tới đỉnh núi cao nhất của dãy 'Hornaces', tới thăm 'đất nước Bóng Đêm'. Nữ thần của tôi ơi, đỉnh cao nhất của dãy Hornaces phải tới hơn sáu nghìn mét, lấy đâu ra quốc gia nào tồn tại? Bọn họ dựa vào gì mà sống chứ!"

"Ngày 26 tháng 6, những thứ kỳ quái đó đều có thật sao?"

Đến đây, bút ký kết thúc. Rạng sáng ngày 28 tháng 6 Chu Minh Thuỵ xuyên việt tới nơi này.

“Nói cách khác, thật ra bút ký ngày 27 tháng 6 là có, chính là câu... 'Tất cả mọi người sẽ chết, kể cả ta'...”

Klein giở tới trang giấy mở sẵn lúc đầu, rợn tóc gáy mà phán đoán như vậy.

Nếu hắn muốn giải mã bí ẩn về việc nguyên chủ tự sát thì hẳn là nên tới chỗ của Welch, sau đó xem nội dung cuốn bút ký cổ xưa kia. Nhưng với vốn "kinh nghiệm" phong phú từ tiểu thuyết, phim điện ảnh và truyền hình, hắn cảm thấy nếu mình đi, có lẽ quá nửa là sẽ gặp phải mối nguy hiểm không biết nào đó - đám người biết rõ pháo đài cổ có quỷ mà còn muốn đi tìm đường chết chính là lời cảnh báo!

Nhưng không đi không được, cứ trốn tránh mãi không thể giải quyết được vấn đề, mà sẽ chỉ khiến chuyện càng lớn và càng mệt mỏi hơn. Cho tới khi đê vỡ ùa tới sẽ hoàn toàn dìm ngập bản thân!

Báo cảnh sát? Dù sao cũng không thể nói là mình tự sát được...

Cốc!

Cốc cốc!

Tiếng gõ cửa mạnh mẽ bỗng dồn dập truyền tới từ cửa.

Klein ngồi thẳng người dậy, vểnh tai lắng nghe.

Cốc!

Cốc cốc!

Tiếng gõ cửa vang vọng khắp hành lang nhỏ bé trong tầng hai trống trải im ắng này.

Bình Luận (0)
Comment