“Ai vậy?”
Klein đang nghĩ tới việc sự kiện tự sát thần bí của nguyên chủ liệu có khả năng gặp phải nguy hiểm không rõ gì không, nghe được tiếng gõ cửa bất thình lình thì theo bản năng kéo ngăn kéo, lấy khẩu súng ổ xoay ra, cũng hỏi đầy cảnh giác.
Bên ngoài yên lặng chừng hai giây, sau đó một giọng nói dùng khẩu âm Akhova vang lên rất chói tai:
“Tôi, Mountbatten, Beech Mountbatten đây.”
Giọng nói kia dừng lại một chút, rồi bổ sung thêm:
“Cảnh sát.”
Beech Mountbatten... Khi cái tên này chui vào trong tai, Klein lập tức nghĩ tới chủ nhân của nó. Đó là một trong những cảnh sát phụ trách khu phố của nhà trọ này, là một người đàn ông thô lỗ và thích động thủ. Chỉ có điều phải là người như vậy mới có thể xử lý được cái lũ nghiện rượu, trộm cắp lưu manh, ác ôn kiêm cả ăn trộm nữa.
Mà giọng nói độc đáo kia chính là một trong những nhãn hiệu của anh ta.
“Vâng, tôi tới ngay đây!” Klein hô to đáp lại.
Hắn vốn định cất khẩu súng ổ xoay vào trong ngăn kéo, nhưng nghĩ tới việc không rõ tại sao cảnh sát lại tới, có lẽ là sẽ có những hành động như điều tra, nên hắn cẩn thận chạy tới cạnh bếp lò đã tàn lửa tắt dụi từ lâu, thả súng lục vào trong.
Ngay sau đó hắn xách cái giỏ đựng than đá lên, giũ mấy cục than vào trong bếp lò che khẩu súng lại, sau đó lại đặt một chiếc siêu lên che giấu tất cả.
Chuẩn bị xong xuôi, hắn sửa lại quần áo, bước tới gần cửa, vừa mở cửa vừa hàm hồ nói:
“Xin lỗi nhé, vừa mới ngủ trưa dậy.”
Ngoài cửa là bốn vị cảnh sát, đều mặc đồng phục màu đen kẻ ô trắng, đội mũ mềm có gắn huy hiệu. Beech Mountbatten với chòm râu quai nón màu nâu nhạt khẽ ho khan một tiếng, nói với Klein:
“Ba vị sĩ quan cảnh sát này có chuyện muốn hỏi cậu.”
Sĩ quan cảnh sát? Klein theo phản xạ nhìn quân hàm ba người kia, phát hiện hai vị có ba ngôi sao sáu xanh làm bằng bạc, một người là hai ngôi sao, thoạt trông có vẻ cao cấp hơn Beech Mountbatten vốn chỉ có ba cái hình chữ V.
Là một sinh viên chuyên ngàn lịch sử, Klein không nghiên cứu gì về cấp bậc quân hàm của cảnh sát, chỉ biết Beech Mountbatten hay khoe khoang rằng mình là một cảnh sát trưởng lâu năm.
Cho nên ba người này mang cấp đốc sát? Chịu ảnh hưởng từ lời kể của anh cả Benson và bạn cùng trường Welch, Klein vẫn biết một vài kiến thức thông thường. Hắn tránh người sang một bên, chỉ vào phòng và nói:
“Mời vào, không biết là có chuyện gì?”
Người dẫn đầu ba vị sĩ quan cảnh sát là một người đàn ông trung niên có đôi mắt sâu sắc như có thể nhìn thấu tâm linh, khiến người ta nhịn không được mà sợ hãi. Ông ta có nếp nhăn rất rõ nơi khoé mắt, mái tóc nâu nhạt lộ ra bên dưới mép mũ, vừa cứ thế quan sát căn phòng vừa trầm giọng hỏi:
“Cậu có biết Welch McGwen không?”
“Cậu ấy làm sao à?” Klein lòng run lên, bật thốt ra.
“Là tôi đang hỏi cậu.” Vị sĩ quan cảnh sát trung niên đầy uy nghiêm nhìn qua với ánh mắt lành lạnh.
Vị sĩ quan cảnh sát cũng đeo quân hàm ba sao bên cạnh ông ta thì cười ôn hoà với Klein, nói:
“Không phải căng thẳng làm gì, chúng tôi chỉ hỏi theo thông lệ thôi.”
Vị sĩ quan cảnh sát này chừng ba mươi tuổi, mũi cao, con ngươi màu xám tạo cho người ta cái cảm giác sâu sắc khó tả, tựa như một hồ nước cổ xưa trong rừng rậm mà ít người lui tới.
Klein thầm hít vào một hơi, tổ chức từ ngữ rồi nói:
“Nếu người mà các anh nói là Welch McGwen đến từ Conston, tốt nghiệp đại học Hoy thì đúng là tôi có quen biết. Chúng tôi là bạn học, cùng đi theo một người thầy, phó giáo sư Quentin Cohen.”
Ở vương quốc Ruen, "Giáo sư" không chỉ là một chức danh, mà còn là chức vụ, giống như giáo sư và trưởng khoa hợp làm một ở trên Trái Đất vậy. Nói cách khác, một khoa của đại học chỉ có thể có một vị giáo sư. Nếu phó giáo sư muốn chuyển lên thành giáo sư thì chỉ có thể chờ người lãnh đạo trực tiếp về hưu, hoặc dựa vào thực lực của mình đẩy đối phương xuống.
Xét thấy sự cần thiết của việc giữ lại nhân tài, trải qua nhiều năm mò mẫm, Uỷ ban Giáo dục bậc cao của vương quốc đã thêm chức danh phó giáo sư thâm niên vào hệ thống ba cấp bậc là giảng viên, phó giáo sư và giáo sư, dành cho những vị nam hoặc nữ phó giáo sư có trình độ cao về học thuật hoặc lý lịch đủ dài nhưng lại không cách nào trở thành giáo sư.
Nói tới đây, Klein nhìn ánh mắt của vị sĩ quan cảnh sát trung niên, suy tính một giây rồi nói:
“Nói thực ra mối quan hệ giữa chúng tôi coi như không tệ. Trong khoảng thời gian này tôi và cậu ấy, và cả Naya nữa, thường hay gặp nhau, cùng đọc và thảo luận về tài liệu lịch sử của ‘Kỷ thứ tư’, một cuốn bút ký mà cậu ấy mới lấy được. Sĩ quan cảnh sát, cậu ấy xảy ra chuyện gì à?”
Vị sĩ quan cảnh sát trung niên không trả lời, mà nghiêng đầu nhìn đồng nghiệp mắt xám.
Vị sĩ quan cảnh sát mắt xám có khuôn mặt bình thường, đội mũ mềm có gắn huy hiệu trả lời đầy tao nhã:
“Rất xin lỗi, Welch đã qua đời rồi.”
“Sao lại như vậy được?” Mặc dù đã linh cảm trước nhưng Klein vẫn kinh ngạc tới mức bật thốt.
Welch cũng chết giống như chủ cũ của thân thể này? Điều này có vẻ khủng khiếp quá rồi!
“Vậy Naya thì sao?” Klein cuống quít hỏi.
“Cô Naya cũng đã qua đời rồi.” Sĩ quan cảnh sát mắt xám bình tĩnh nói: “Hai người bọn họ đều chết ở nơi ở của Welch.”
“Bị giết à?” Klein suy đoán. Có lẽ là tự sát…
Sĩ quan cảnh sát mắt xám lắc đầu:
“Không. Từ dấu vết ở hiện trường cho thấy bọn họ tự sát. Cậu Welch dùng đầu đụng vào tường, đụng rất nhiều lần, khiến cả bức tường toàn máu là máu. Cô Naya thì dìm chết mình trong một chậu nước, ừm, chính là loại chậu dùng để rửa mặt ấy.”
“Không thể nào...” Klein nghe mà tóc gáy dựng lên, dường như có thể tưởng tượng ra được cảnh tượng kỳ dị kia.
Một cô gái quỳ gối trên ghế, vùi mặt vào một chậu rửa mặt đã đổ đầy nước, mái tóc xù mềm mại bay phất phơ theo gió, toàn thân không hề động đậy; Welch ngã lăn dưới đất, đôi mắt nhìn chằm chằm trần nhà, trán đã hoàn toàn nát bấy, đầy máu tươi. Mà dấu vết đụng đầu ở khắp các bức tường, đầm đìa máu...
Sĩ quan cảnh sát mắt xám giật khoé miệng, nói:
“Chúng tôi cũng cho là như vậy! Nhưng kết quả kiểm tra thi thể và tình hình hiện trường đều loại trừ nhân tố liên quan đến thuốc hay ngoại lực. Bọn họ, ý tôi là Welch và Naya, đều không hề có dấu vết phản kháng nào.”
Không chờ Klein nói, anh ta bước vào trong phòng, giả vờ hỏi tuỳ ý:
“Lần cuối cùng cậu gặp Welch và Naya là khi nào?”
Anh ta vừa nói vừa dùng ánh mắt ra hiệu cho vị đồng nghiệp có hai ngôi sao bạc. Đó là một sĩ quan cảnh sát trẻ tuổi, tầm độ tuổi như Klein, tóc đen mắt xanh, có khuôn mặt ưa nhìn và trông lãng mạn kiểu thi sĩ.
Nghe hỏi như vậy, Klein lập tức mau chóng suy nghĩ, sau đó trả lời:
“Chắc là ngày 26 tháng 6, chúng tôi cùng tìm hiểu nội dung của một tờ bút ký. Sau đó tôi về nhà, chuẩn bị cho cuộc phỏng vấn ngày 30, à, phỏng vấn vào khoa Lịch sử của đại học Tingen.”
Thành phố Tingen được gọi là thành phố đại học, bởi nơi đây có hai đại học là Tingen và Hoy, có trường Kỹ thuật, học viện Luật sư, học viện Thương gia, lại nằm gần thủ đô Backlund.
Hắn nói xong, từ đuôi mắt nhìn thấy sĩ quan cảnh sát trẻ tuổi đi đến bên bàn học, cầm cuốn "bút ký" trông càng giống cuốn nhật ký kia lên.
Thôi xong, quên giấu nó đi rồi! Klein cấp bách hô lên: “Anh!”
Vị sĩ quan cảnh sát trẻ tuổi cười với hắn, nhưng lại không hề ngừng động tác lật giở bút ký, mà sĩ quan cảnh sát mắt xám thì giải thích:
“Đây là thủ tục bắt buộc.”
Lúc này Beech Mountbatten và sĩ quan cảnh sát trung niên đầy uy nghiêm kia chỉ đứng cạnh nhìn, không nói xen vào cũng không hiệp trợ điều tra.
Lệnh khám xét của các người đâu? Klein vốn định chất vấn như vậy, nhưng suy nghĩ cẩn thận thì hình như hệ thống tư pháp của vương quốc Ruen vẫn chưa hề tiến hoá ra thứ như lệnh khám xét này, chí ít bản thân mình biết là không có. Dù sao thì đội cảnh sát mới được thành lập có mười lăm hay mười sáu năm gì đó. Thời nguyên chủ còn bé thì họ được gọi là quan trị an.
Klein chẳng thể ngăn cản mà trơ mắt nhìn vị sĩ quan cảnh sát trẻ tuổi kia lật giở cuốn "bút ký của mình" rất nhanh, mà sĩ quan mắt xám cũng không hỏi gì thêm nữa.
“Cái thứ kỳ quái gì vậy?” Sĩ quan cảnh sát trẻ tuổi giở tới trang cuối cùng, đột nhiên nói: “Còn nữa, câu này nghĩa là gì? ‘Tất cả mọi người sẽ chết, kể cả ta’...”
Ngoài thần linh ra, không phải ai rồi cũng phải chết là chuyện rất bình thường sao? Klein vốn định bốc phét một câu, nhưng đột nhiên nghĩ tới ban đầu hắn vốn định "kết nối" với cảnh sát để phòng ngừa nguy hiểm, chỉ là không kiếm được lý do, không có cớ nào để lấy.
Không đến một giây sau, hắn quyết định, bèn giơ tay che trán, nói với ngữ điệu đầy đau khổ:
“Không biết, tôi thực sự không biết... Sáng nay sau khỉ tỉnh dậy, tôi cứ cảm thấy có gì đó sai sai, hình như là mình quên mất chuyện gì rồi. Nhất là mấy chuyện xảy ra gần đây. Thậm chí tôi còn chẳng rõ tại sao mình lại viết câu này nữa.”
Đôi khi thẳng thắn là cách tốt nhất để giải quyết vấn đề. Đương nhiên là phải thẳng thắn có kỹ xảo, cái gì có thể nói, cái gì thì không, cái gì nên nói trước, cái gì nên nói sau, đó lại là một phương diện khác. Là một "chuyên gia" bàn phím, Klein từng nghiên cứu sơ qua về kỹ xảo nói chuyện.
“Vớ vẩn! Cậu cho rằng bọn tôi là lũ ngu à?” Beech Mountbatten phẫn nộ nói xen vào. Anh ta thật sự không nhịn nổi nữa rồi, bởi câu nói dối này quá vụng về, quả thực là đang sỉ nhục trí thông minh của những người ở đây!
Mày giả vờ bị tâm thần còn tốt hơn là vờ mất trí nhớ nhé!
“Là thật.” Klein thản nhiên đáp lại Mountbatten và ánh mắt của vị sĩ quan cảnh sát trung niên. Chuyện này thật đến mức không thể thật hơn.
“Có lẽ thật sự có khả năng.” Lúc này vị sĩ quan cảnh sát mắt xám từ tốn nói.
Cái gì? Thế mà cũng tin? Bản thân Klein cũng kinh ngạc.
Sĩ quan cảnh sát mắt xám mỉm cười nhìn hắn, nói:
“Hai ngày nữa sẽ có một vị chuyên gia đến đây. Tin tôi, cô ấy hẳn là có thể giúp cậu nhớ lại được ký ức đã đánh mất.”
Chuyên gia? Giúp nhớ lại? Lĩnh vực tâm lý học? Klein nhíu mày.
Aaaa, nếu kéo ra cái ký ức về Trái Đất thì làm sao giờ? Hắn đột nhiên thấy răng mình tê tê.
Vị sĩ quan cảnh sát trẻ tuổi đặt bút ký xuống, điều tra bàn học và gian phòng một lần nữa. May mắn là trọng điểm của anh ta nằm ở chồng sách, không nhấc cái siêu nước kia ra tra xét.
“Xong rồi. Cậu Klein, cảm ơn sự phối hợp của cậu. Mấy ngày tới cậu tốt nhất đừng rời khỏi Tingen. Nếu bắt buộc phải đi thì nhớ báo cho sĩ quan cảnh sát Mountbatten. Nếu không cậu sẽ thành tội phạm bỏ trốn đấy.” Sĩ quan cảnh sát mắt xám dặn dò câu cuối.
Thế này là xong rồi? Hôm nay như vậy là kết thúc? Không hỏi gì thêm, cũng không điều tra gì thêm? Hoặc giả kéo mình về cục cảnh sát dùng ít đòn roi? Klein ngỡ ngàng không thôi.
Chẳng qua hắn cũng muốn giải quyết sự kiện kỳ dị mà Welch mang đến, nên gật đầu nói:
“Không thành vấn đề.”
Các cảnh sát nối đuôi nhau ra khỏi căn phòng. Một thanh niên đi ở cuối cùng bỗng vỗ bả vai Klein một cái:
“Rất tốt, rất là may mắn.”
“Gì cơ?” Klein ngơ ngác.
Vị sĩ quan cảnh sát mắt xanh có khí chất nhà thơ này khẽ mỉm cười, nói:
“Tính ra thì toàn bộ người gặp được chuyện như thế này mà chết mới là bình thường. Chúng tôi rất vui, cũng cảm thấy rất may mắn vì cậu còn sống.”
Nói xong anh ta bước ra khỏi căn phòng, cũng lễ phép tiện tay đóng cửa lại.
Chết hết mới là bình thường? Vui mừng vì mình còn sống? Cảm thấy may mắn vì mình còn sống?
Trong một chiều hè tháng sáu, Klein bỗng thấy toàn thân lạnh toát.
Chương 11: Tài nấu nướng thực sựToàn bộ chết trong trạng thái bình thường? Thật vui mừng hắn còn sống? Rất may là hắn còn sống?
Klein chợt rùng mình, vội vàng bước hai bước về phía cửa định đuổi theo mấy vị cảnh sát để được bảo vệ. Nhưng hắn vừa mới chạm tới tay nắm cửa, lại đột nhiên dừng động tác.
“Vị cảnh sát kia đã nói chuyện này đến mức đáng sợ như vậy, vì sao bọn họ không bảo vệ nhân chứng quan trọng hoặc có thể nói là đầu mối mấu chốt như mình? Đây là quá sơ xuất? Là dò xét hay thả mồi?”
Đủ các loại suy nghĩ đánh nhau trong đầu Klein, khiến cho hắn hoài nghi cảnh sát còn đang núp trong bóng tối quan sát phản ứng của hắn.
Nghĩ tới đây, hắn yên tâm hơn hẳn, không còn kinh hoàng hốt hoảng nữa. Hắn chậm rãi mở cửa, cố ý dùng giọng run rẩy hô lên với phía cầu thang:
“Các anh sẽ bảo vệ tôi đúng không?”
Cộp, cộp, cộp, cảnh sát không trả lời, tiếng giầy da gõ lên cầu thang bằng gỗ không hề thay đổi chút nào.
“Tôi biết! Các anh sẽ làm như vậy!”
Klein dùng giọng điệu tin tưởng hô lên lần nữa, cố gắng biểu hiện mình giống như một người bình thường gặp phải nguy hiểm.
Tiếng bước chân dần dần trở nên nhỏ đi, biến mất ở tầng cuối cùng của nhà trọ. Klein hừ một tiếng, trong lòng giễu cợt nói: Phản ứng này quá giả rồi? Diễn xuất không đạt chút nào!
Hắn không đuổi theo mà xoay người trở lại phòng, tiện tay đóng cửa lại.
Sau mấy giờ, Klein biểu hiện đầy đủ tâm trạng bất an, đứng ngồi không yên, nóng nảy phiền lòng, đọc không biết bao nhiêu từ của đất nước ăn tham, cũng không vì chung quanh không có người mà thả lỏng.
Cái này gọi là tu dưỡng của bản thân diễn viên! Hắn tự giễu trong lòng như vậy.
Khi mặt trời ngả về tây, đám mây ở chân trời "bùng cháy" lên, và những hộ ở nhà trọ này lục tục trở về, Klein mới chuyển trọng tâm tới chuyện khác.
“Chắc Melissa sắp tan học rồi...”
Hắn đưa mắt nhìn về phía bếp lò, nhấc ấm nước, bới than đá lôi ra khẩu súng lục.
Hắn không hề dừng lại cũng không chậm trễ vươn tay tới tấm ván phía sau tầng dưới của chiếc giường tầng, nơi đó có chừng mười thanh gỗ đan xen chống đỡ.
Nhét súng lục vào giữa một thanh gỗ và tấm ván, Klein bật người dậy, thấp thỏm bất an chờ đợi. Hắn sợ cảnh sát đột nhiên phá cửa nâng súng ống xông vào phòng.
Nếu như là một thế giới hơi nước bình thường, lúc làm hành động vừa rồi hắn chắc chắn sẽ không bị ai nhìn thấy. Nhưng mà nơi này có sức mạnh siêu phàm mà bản thân cũng đã nghiệm chứng qua.
Sau mấy phút chờ đợi, cánh cửa không có động tĩnh gì, chỉ có tiếng trò chuyện của hai người thuê trọ hẹn nhau đi quán bar "Trái Tim Cuồng Dã" ở phố Chữ Thập Sắt từ xa tới gần, rồi lại từ gần ra xa.
“Phù.”
Klein thở ra một hơi, trái tim cũng bình tĩnh lại. Bây giờ thì chờ Melissa trở về làm thịt dê hầm đậu Hà Lan!
Suy nghĩ này vừa xuất hiện, trong miệng Klein tựa như có đầy mùi thơm của thịt, cũng nhân tiện nhớ lại cách Melissa làm thịt dê hầm đậu Hà Lan.
Trước tiên con bé sẽ đun sôi nước trụng thịt trước, sau đó thêm hành tây, muối, một xíu tiêu và nước rồi tiếp tục hầm, đến một thời điểm nhất định thì bỏ thêm đậu Hà Lan và khoai tây, hầm thêm bốn tới năm mươi phút.
“Cách làm thật đúng là đủ đơn giản và thô sơ... Chỉ dựa vào vị ngon của thịt để tạo mùi!” Klein không nhịn được lắc đầu.
Nhưng đây cũng là chuyện bất đắc dĩ, người ta nhà bình dân đâu có nhiều loại gia vị, nào có đủ mọi cách nấu ăn, chỉ có thể tìm cách đơn giản, thực dụng và tiết kiệm. Dù sao chỉ cần không làm cháy thịt, không nấu hỏng, thì đối với người một tuần chỉ được ăn hai lần thậm chí một lần thịt mà nói, vậy là tốt rồi.
Không nói tài nghệ nấu nướng của Klein giỏi thế nào, thường ngày đều là đi ăn cơm tiệm, nhưng mỗi tuần vẫn tự tay nấu ba bốn bữa dần dần tích lũy lại thì hắn vẫn đạt đến trình độ tiêu chuẩn. Cho nên hắn cảm thấy không thể lãng phí 1 pound thịt dê kia được.
“Chờ Melissa về mới làm, chuẩn bị xong cũng phải hơn bảy rưỡi, lúc đó đợi con bé sẽ đói xỉu mất... Giờ là lúc cho con bé biết tới tài nấu nướng thực sự rồi!”
Klein tìm cho mình một lý do trước, sau đó bắt đầu đốt lửa lại, tới phòng tắm dùng chung múc nước rửa sạch thịt dê, rồi lấy thớt, dao phay bắt đầu bặp bặp băm thịt thành miếng nhỏ.
Còn về chuyện giải thích tài nấu nướng đột nhiên giỏi như thế, hắn quyết định đẩy lên người đã chết - Welch McGwen. Vị bạn học này không chỉ là đầu bếp có các món hải sản hương vị đặc sắc, mà còn thường xuyên nghĩ ra món ăn ngon mới mời mọi người nếm thử.
Ừ, người chết sẽ không phản bác lại mình!
Nhưng mà, hic, đây là thế giới có người phi phàm, có khi người chết cũng biết nói chuyện thì sao... Nghĩ vậy, Klein bỗng dưng thấy chột dạ.
Hắn quẳng đi mấy suy nghĩ vớ vẩn, bỏ cục thịt vào cái tô, rồi cầm hộp gia vị ra, rắc vào trong tô nửa muỗng muối hạt, ngoài ra còn đặc biệt lấy ra một chút tiêu đen hạt trong một cái chai nhỏ quý giá, sau đó trộn đều tất cả với nhau để ướp.
Tiếp theo hắn đặt nồi hầm lên bếp. Trong khi chờ nó nóng lên, Klein lục lọi ra mấy củ cà rốt còn dư ngày hôm qua và một củ hành tây mới mua hôm nay cắt thành từng khối.
Chuẩn bị xong tất cả, hắn lại lấy ra một cái lon nhỏ từ chạn bát, mở ra, bên trong là một chút mỡ heo còn dư lại.
Klein xúc một muỗng bỏ vào nồi, đầu tiên là làm tan mỡ, sau đó cho cà rốt và hành tây xắt khối vào xào.
Mùi thơm bắt đầu lan toả, Klein trút toàn bộ thịt dê vào cẩn thận xào.
Trong quá trình này vốn nên cho thêm chút rượu, không có thì cũng phải có rượu vang thay thế. Nhưng mà nhà Moretti không có mấy thứ đồ xa xỉ đó, một tuần Benson cũng chỉ có thể uống một ly bia, Klein bất đắc dĩ phải liệu cơm gắp mắm, đổ thêm chút nước sôi, tùy tiện đun lên.
Hầm chừng hai mươi phút, hắn mở nắp ra bỏ đậu Hà Lan và khoai tây đã cắt khối vào, lại đổ thêm một cốc nước sôi và hai muỗng muối.
Đậy nắp lại, chỉnh lửa nhỏ, Klein hài lòng thở ra một hơi rồi đợi em gái về nhà.
Thời gian từng giây từng phút trôi qua mùi thơm bên trong căn phòng càng ngày càng nồng đậm, có vị thịt hấp dẫn, có hương khoai tay đậm đà, có mùi hăng hăng của hành tây.
Mùi vị dần dần trộn lẫn, Klein nuốt nước miếng liên tục, cũng nhấn mở nắp đồng hồ bỏ túi, nhìn kim phút.
Hơn bốn mươi phút sau, tiếng bước chân không tính là nhanh nhưng có tiết tấu đến gần, chìa khóa cắm vào, nắm tay cửa chuyển động, cửa phòng được mở ra.
“Thơm quá...” Melissa còn chưa đi vào phòng đã dùng giọng nghi ngờ nói nhỏ.
Con bé cầm túi bước vào phòng, nhìn qua bếp lò.
“Anh làm?” Động tác gỡ nón của Melissa dừng lại giữa không trung, con bé nhìn Klein với ánh mắt đầy kinh hoàng.
Con bé hít hít mũi, hít thêm càng nhiều mùi thơm ánh mắt càng trở nên dịu dàng, giống như tìm được lòng tin.
“Anh làm à?” Con bé nghi ngờ hỏi lại.
“Em sợ anh lãng phí thịt dê sao?” Klein mỉm cười hỏi ngược lại, không đợi Melissa trả lời lại tự mình nói tiếp: “Yên tâm, anh đặc biệt đi hỏi Welch cách làm món ăn này. Em biết Welch mà, cậu ta có đầu bếp giỏi lắm.”
“Lần đầu anh làm?” Melissa không tự chủ nhíu chân mày lại, nhưng lại được mùi thơm vuốt cho giãn ra.
“Xem ra anh có thiên phú nhỉ.” Klein cười: “Sắp xong rồi, em cất sách vở và mũ đi, qua phòng tắm rửa tay rồi chờ thưởng thức. Anh đang rất tin tưởng đây.”
Nghe anh mình sắp xếp đâu vào đấy, lại nhìn nụ cười bình tĩnh và dịu dàng của Klein, trái tim Melissa loạn nhịp, ngơ ngác đứng ở cửa.
“Em thích hầm nhừ đúng không?” Klein mỉm cười thúc giục.
“A, dạ dạ!” Melissa phục hồi lại tinh thần, một tay xách túi một tay cầm mũ, bước nhanh vào trong phòng.
Mở nắp nồi hầm ra, hơi nước lập tức bốc lên trước mắt Klein, hai miếng bánh mì mạch đen đã sớm được bỏ vào trong nồi thịt dê hầm đậu Hà Lan để cho chúng hấp thu mùi thơm và hơi nóng cho nở ra.
Đến khi Melissa thu dọn đồ vật, rửa tay rửa mặt trở về, trên bàn đọc sách đã bày sẵn một đĩa thịt dê hầm đậu Hà Lan có khoai tây, cà rốt, hành tây tô điểm, còn hai miếng bánh mì đen đã ngấm chút nước thịt thì nằm ở một đĩa khác.
“Tới nếm thử đi.” Klein chỉ vào cái muỗng và nĩa đặt bên cạnh đĩa thịt.
Melissa vẫn còn mờ mịt không từ chối cầm nĩa lên xiên một khối khoai tây đưa tới bên miệng cắn nhẹ.
Khoai tây bột dẻo, nước thịt thơm nồng đồng thời ngập tràn khoang miệng, khiến cho nước miếng của con bé điên cuồng tiết ra, chỉ hai ba miếng cắn hết khối khoai tây rồi nuốt.
“Nếm thử chút thịt.” Klein dùng cằm chỉ cái đĩa.
Vừa rồi hắn đã thử mùi vị, cảm thấy mới chỉ đạt trình độ tiêu chuẩn, nhưng đối với cô bé chưa thấy bộ mặt thành phố lại thỉnh thoảng mới có thể ăn thịt mà nói, vậy là đủ rồi!
Trong mắt của Melissa có nhiều sự mong đợi hơn, con bé dè dặt xiên một miếng thịt dê.
Nó bị hầm khá nhừ nên vừa mới vào miệng thì đã có cảm giác sắp tan ra, mùi thịt thật sự bùng nổ, nước thịt đầy ắp miệng.
Đó là cảm nhận tốt đẹp trước giờ chưa từng có, khiến Melissa hoàn toàn không ngừng lại được. Đến khi con bé hồi hồn lại thì đã ăn mấy miếng thịt dê.
“Em, em, Klein, đây là chuẩn bị cho anh mà...” Gương mặt của Melissa đỏ lên, cô bé lắp ba lắp bắp nói.
“Anh ăn vụng từ nãy, đặc quyền của đầu bếp mà.” Klein mỉm cười an ủi em gái, đồng thời cũng cầm nĩa và muỗng lên, lúc thì ăn thịt, thỉnh thoảng lại nhét đậu Hà Lan đầy mồm, lúc lại buông chén đĩa bẻ một miếng bánh mì đen chấm nước ăn.
Melissa bị hành động không chút lạ thường nào của Klein ảnh hưởng nên dần thả lỏng, lại chìm đắm vào trong mỹ thực.
“Ăn ngon thật, không biết thì không nghĩ là lần đầu tiên anh làm.” Melissa liếc nhìn cái đĩa ngay cả nước cũng không còn dư, khen ngợi từ tận đáy lòng.
“So với đầu bếp của Welch còn kém rất xa, chờ anh có tiền sẽ mang em và Benson tới nhà hàng bên ngoài, ăn ngon hơn nhiều!” Klein bắt đầu nói vài mơ ước của mình.
“Anh sắp phỏng vấn... Ợ...” Melissa còn chưa nói xong thì đột nhiên không khống chế được mà ợ một hơi. Con bé vội vàng đưa tay lên che miệng, mặt đầy lúng túng. Đều do thịt dê hầm đậu Hà Lan vừa rồi ăn quá ngon!
Klein cười thầm, quyết định không cười nhạo em gái, hắn chỉ cái đĩa nói: “Đây là nhiệm vụ của em đó!”
“Vâng!” Melissa vội vàng đứng dậy cầm chậu xông ra ngoài cửa.
Chờ con bé rửa dọn xong xuôi về thì mở chạn bát ra, theo thói quen kiểm tra các hộp gia vị một lượt.
“Vừa nãy anh dùng?” Melissa kinh ngạc bật thốt lên quay đầu nhìn về phía Klein, trong tay cầm bình tiêu đen và lon mỡ heo.
“Một chút xíu, đây là cái giá của mỹ vị mà.” Klein nhún vai cười nói.
Ánh mắt Melissa lóe lên, biểu tình biến đổi mấy lần, cuối cùng mím môi nói:
“Sau này vẫn là em nấu ăn đi.”
“Ừ... Anh phải nắm chắc thời gian chuẩn bị phỏng vấn, phải suy nghĩ chuyện công việc.”
Chương 12: Lại đến lần nữaEm à, liệu anh có thể không vạch áo cho người xem lưng được không... Klein thầm giễu, lại cảm thấy đầu tiếp tục đau.
Những tri thức mà nguyên chủ quên đi không nhiều, cũng chắc chắn là không ít. Ngày kia phải phỏng vấn rồi, lấy đâu ra thời giờ mà bổ sung được... Mà lại còn bị dính vào sự kiện kỳ dị khủng bố này, nào có tâm tư "ôn tập"...
Nói vài câu có lệ với cô em gái, Klein bắt đầu giả vờ học hành. Melissa kéo ghế dựa ra ngồi bên cạnh, dựa vào ánh sáng từ đèn khí gas mà bắt đầu làm bài tập.
Không khí yên lặng và thoải mái. Đến khi sắp mười một giờ, hai anh em chúc nhau ngủ ngon rồi tự về giường của mình.
...
Cốc!
Cốc cốc!
Những tiếng gõ cửa lại vang lên, Klein mới tỉnh lại từ trong mơ. Hắn mở mắt nhìn ánh nắng ban mai ngoài cửa sổ, vùng người ngồi dậy, đầu óc hãy còn mơ hồ:
“Ai vậy?”
Đã mấy giờ rồi? Sao Melissa không gọi mình dậy?
“Là tôi, Dunn Smith.” Ngoài cửa, một giọng nam chín chắn trả lời.
Dunn Smith? Không biết... Klein lắc đầu, bước xuống giường rồi đi tới bên cửa.
Hắn mở cửa phòng ra, nhìn thấy vị sĩ quan cảnh sát có đôi mắt xám.
“Xảy ra chuyện gì à?” Klein cảnh giác hỏi.
Vị sĩ quan cảnh sát mắt xám này trả lời với vẻ mặt đầy nghiêm túc:
“Chúng tôi tìm được một người lái xe ngựa. Anh ta chứng thực rằng ngày 27, cũng chính là ngày Welch và Naya chết, cậu có đi tới nơi ở của Welch, hơn nữa đích thân Welch còn trả tiền xe cho cậu.”
Klein giật mình một cái, không hề có chút hoảng sợ hay chột dạ khi bị người ta vạch trần lời nói dối. Bởi vì hắn hoàn toàn không nói dối, mà ngược lại cảm thấy chứng cứ mà vị sĩ quan cảnh sát Dunn Smith mắt xám này cung cấp hoàn toàn không giống những gì bản thân hắn lường trước.
Ngày 27 tháng 6, nguyên chủ quả nhiên tới nơi ở của Welch, tới ban đêm hôm ấy khi về nhà thì tự sát mà chết, giống hệt Welch và Naya!
Klein há miệng thở dốc, bỗng gượng gạo cười, nói:
“Đây không phải là chứng cứ đủ mạnh, không thể trực tiếp chứng minh tôi có liên quan tới cái chết của Welch và Naya. Nói thật thì tôi cũng rất muốn biết xem đã xảy ra chuyện gì, biết những gì mà hai người bạn đáng thương kia của tôi gặp phải. Nhưng mà... Nhưng mà tôi thực sự nhớ không ra. Tôi gần như hoàn toàn quên những chuyện đã làm ngày 27 đó. Nói ra thì có lẽ anh không tin, tôi phải dựa theo cuốn bút ký của chính mình mới đoán mò là có lẽ ngày 27 tôi có đi tới chỗ Welch.”
“Tố chất tâm lý không tệ đó.” Sĩ quan cảnh sát mắt xám Dunn Smith gật đầu, không tỏ ra phẫn nộ cũng không hề mỉm cười.
“Anh có thể nghe được sự thành khẩn của tôi.” Klein nhìn thẳng vào đôi mắt đối phương. Tôi vốn nói thật mà, đương nhiên chỉ là một phần trong sự thật thôi!
Dunn Smith không hề phản hồi ngay, mà quét mắt qua căn phòng một lượt rồi mới chậm rãi nói:
“Welch bị mất một khẩu súng lục ổ xoay, tôi nghĩ là tôi có thể tìm được nó ở nơi này, đúng không, cậu Klein?”
Quả nhiên... Klein cuối cùng đã biết lai lịch của khẩu súng kia. Những suy nghĩ loé lên trong đầu óc hắn nhanh như chớp, hắn lập tức có quyết định. Hắn giơ hai tay lên, lùi ra sau một bước để nhường đường, sau đó dùng cằm chỉ về phía giường tầng:
“Ở bên dưới ván giường.”
Hắn không nói cụ thể ở giường trên hay dưới, vì người bình thường sẽ không giấu bao giờ giấu ở ván của giường trên, bởi làm thế sẽ khiến khách tới chơi nhìn phát là thấy ngay.
Sĩ quan cảnh sát mắt xám Dunn Smith không bước tới, giật khoé miệng rồi nói:
“Không còn gì bổ sung nữa à?”
Klein trả lời ngay tắp lự:
“Có! Nửa đêm hôm trước tôi tỉnh dậy thì phát hiện mình đang nằm bò ra bàn, bên cạnh là khẩu súng ổ xoay, và một viên đạn ở chân tường, nhìn qua thì giống như là vừa tự sát. Nhưng có lẽ là do không có kinh nghiệm, chưa bao giờ sử dụng súng lục, hoặc có lẽ là tới phút cuối cùng lại sợ, tóm lại là viên đạn không đi theo ước muốn ban đầu, nên đầu tôi còn nguyên vẹn, sống tới bây giờ.
Mà từ lúc đó trở đi, tôi quên đi một phần ký ức, bao gồm cả việc ngày 27 tới nhà Welch làm gì, thấy gì. Tôi không nói dối, tôi thực sự nhớ không rõ.”
Vì rửa sạch hiềm nghi và giải quyết sự kiện kỳ dị quấn lấy mình, Klein gần như nói ra toàn bộ sự tình, trừ việc xuyên việt và "tụ hội". Mặt khác hắn chải chuốt qua những từ ngữ mình sử dụng, làm cho mỗi câu nói đều có thể vượt qua được kiểm tra. Ví dụ hắn không nói viên đạn không bắn trúng đầu, chỉ nói là không đạt được như mong muốn ban đầu, sau đó đầu vẫn nguyên vẹn. Vào tai người khác thì hai câu này biểu đạt ý nghĩa tương tự nhau, nhưng về thực tế thì lại hoàn toàn khác biệt.
Sĩ quan cảnh sát Dunn Smith im lặng nghe, sau đó chậm rãi nói:
“Điều này rất phù hợp với sự phát triển mà tôi đã suy đoán, cũng phù hợp với logic của sự kiện phía trước. Đương nhiên tôi không biết tại sao cậu vẫn còn sống.”
“Anh tin là tốt rồi, bởi tôi cũng không biết sao tôi vẫn sống.” Klein khẽ thở phào nhẹ nhõm.
“Nhưng mà...” Dunn tung ra một câu mang tính chuyển hướng: “Tôi tin cũng vô dụng. Bây giờ cậu là nghi can lớn nhất. Cậu bắt buộc phải vượt qua sự xác thực của ‘chuyên gia’, xác nhận rằng cậu thực sự đã quên, hoặc thực sự không trực tiếp làm cho Welch và Naya chết.”
Anh ta khụ một cái, vẻ mặt trở nên nghiêm túc:
“Klein, tôi mong cậu phối hợp điều tra, theo chúng tôi về cục cảnh sát một chuyến. Như vậy thì mất khoảng chừng hai đến ba ngày, nếu cậu quả thực không có vấn đề.”
“Chuyên gia đến rồi?” Klein sững sờ, hỏi lại. Không phải là bảo hai ngày nữa sao?
“Cô ấy đến sớm hơn chúng tôi đoán.” Dunn nghiêng người, tỏ ý muốn Klein đi ra.
“Tôi để lại mẩu giấy nhắn đã.” Klein xin xỏ. Benson còn đang đi làm, Melissa đã đến trường, chỉ có thể nhắn lại với bọn họ biết mình liên quan tới vụ án của Welch, bảo bọn họ đừng lo.
Dunn gật đầu, không để ý cho lắm: “Ừm.”
Klein trở lại cạnh bàn học, vừa tìm tờ giấy để viết, vừa tranh thủ suy xét chuyện kế tiếp.
Nói thực ra hắn rất không muốn gặp vị chuyên gia kia, dù sao bản thân hắn còn đang cất giấu một bí mật còn lớn hơn. Ở nơi có bảy giáo hội này, với điều kiện tiên quyết là "vị có vẻ là tiền bối" Russel đại đế bị ám sát, chuyện "xuyên việt" này quá nửa sẽ phải vào sở tài phán hoặc lên toà trọng tài!
Nhưng hắn không có vũ khí, không biết đánh đấm, cũng không có năng lực siêu phàm thì sao có thể là đối thủ của đám sĩ quan cảnh sát lành nghề được. Huống chi bóng tối bên ngoài cửa kia còn có vài vị cấp dưới của Dunn.
Bọn họ chỉ cần rút súng ra bắn một cái là mình tèo ngay!
“Phù, đi một bước tính một bước vậy.”
Klein để lại tờ giấy nhắn, cầm chìa khoá rồi theo Dunn ra khỏi căn phòng.
Trong hành lang tối om, bốn vị cảnh sát mặc quần áo đen kẻ ô trắng đứng hai bên, rất là cảnh giới.
Cộp, cộp, cộp.
Klein đi bên cạnh Dunn, giẫm lên cầu thang làm từ gỗ mà bước xuống từng bậc một, đôi lúc còn nghe được tiếng ken két.
Một chiếc xe ngựa với bốn cái bánh xe do một con ngựa kéo đang dừng ở ngoài cửa nhà trọ. Mặt hông của phần mái xe ngựa có khắc dấu hiệu của hệ thống cảnh sát "Hai thanh kiếm đan xen vào nhau, vây quanh một chiếc vương miện". Xung quanh vẫn náo nhiệt, chật chội và ồn ào như buổi sáng hôm trước.
“Lên đi.” Dunn ra hiệu cho Klein lên trước.
Klein vừa định bước lên, đột nhiên một vị tiểu thương bán hàu túm lấy một vị khách, mắng mỏ đối phương là trộm cắp. Hai bên lao vào đánh nhau khiến lũ ngựa bị kinh hãi. Xung quanh tức thì trở nên hỗn loạn.
Cơ hội!
Klein không kịp nghĩ nhiều, lập tức quay người lao vọt vào trong đám người. Xô đẩy, né tránh, hắn điên cuồng bỏ chạy về một đầu khác của con phố.
Trong tình hình bây giờ, vì không "gặp" chuyên gia nên chỉ có thể ra bến tàu ngoài thành phố, ngồi thuyền đi xuôi theo sông Tasok mà trốn tới thủ đô Backlund. Nơi đó nhiều người, dễ ẩn núp nhất. Đương nhiên cũng có thể theo tàu hơi nước đi tới cảng Anmatt ở phía đông gần đây nhất, đi đườn biển tới Pritz rồi từ đó tới Backlund.
Không lâu sau, Klein chạy tới ngã tư, quẹo vào phố Chữ Thập Sắt, nơi đó có mấy cỗ xe ngựa cho thuê đang đứng chờ.
“Tới bến tàu ngoại ô.” Hắn chống tay nhảy lên một cỗ xe ngựa trong số đó. Hắn đã nghĩ rất kỹ, đầu tiên là phải nói dối đám cảnh sát đang đuổi theo, đợi khi xe ngựa chạy được một đoạn thì hắn sẽ nhảy thẳng xuống!
“Ok!” Người lái xe kéo dây cương.
Lộc cộc, xe ngựa nhanh chóng rời khỏi phố phố Chữ Thập Sắt.
Đang lúc Klein định nhảy ra khỏi xe thì hắn phát hiện xe ngựa này rẽ vào một con đường khác, vốn không phải là con đường đi ra vùng ngoại ô.
“Anh định đi đâu thế?” Klein sửng sốt, buột miệng hỏi.
“Đi nơi ở của Welch...” Người lái xe ngựa trả lời, ngữ khí bình tĩnh không chút cảm xúc.
Cái gì? Klein đang kinh ngạc thì người lái xe quay người lại, để lộ đôi mắt màu xám lạnh lùng và sâu sắc. Nghiễm nhiên chính là sĩ quan cảnh sát Dunn Smith!
“Anh! !!” Klein bỗng dưng hoảng sợ, đột nhiên cảm thấy trời đất quay cuồng, hắn bật cả người dậy.
Ngồi dậy? Klein nghi ngờ nhìn trái nhìn phải, phát hiện ánh trăng đỏ rực bên ngoài, gian phòng bị phủ kín bởi lớp lụa mỏng.
Hắn giơ tay vuốt trán, nơi đó ướt và lạnh, tất cả đều là mồ hôi lạnh, mà sau lưng cũng là như vậy.
“Gặp ác mộng...” Klein thở hắt ra một cái: “May quá... May quá...”
Hắn cảm thấy lúc ở trong mơ mình rất tỉnh táo, còn biết suy xét, đúng là kỳ quái.
Sau khi hoà hoãn lại, Klein cầm lấy đồng hồ bỏ túi ra nhìn thoáng qua, thế mới phát hiện lúc này đã là hai giờ đêm. Vì vậy hắn lầu bầu xuống giường, định đi phòng tắm chung để rửa mặt một cái, tiện thể giải quyết luôn cái bụng đang trướng hết cả lên.
Hắn mở cửa phòng, đi qua hành lang tối om, dựa theo ánh trăng yếu ớt mà rón rén đi tới phòng tắm chung.
Đột nhiên hắn thấy một bóng người đứng trước cửa sổ ở cuối hành lang. Bóng người kia mặc áo khoác gió màu đen, ngắn hơn áo khoác dài, và dài hơn áo vest một chút. Bóng người kia như nửa hoà tan vào trong bóng tối, tắm trong ánh trăng đỏ rực trong trẻo mà lạnh lẽo kia.
Bóng người chậm rãi quay người lại, nhìn sang, đôi mắt sâu, u ám và lạnh lùng.
Dunn Smith!
Chương 13: Kẻ gác đêmCộp!
Klein nhịn không được mà lùi ra sau một bước, hoàn toàn không rõ là mình đã tỉnh hay còn ở trong mộng.
Bóng người kia bỏ chiếc mũ dạ màu đen xuống, khẽ cúi chào với biên độ rất nhỏ, mỉm cười và trầm giọng nói:
“Xin giới thiệu lại lần nữa, Kẻ Gác Đêm, Dunn Smith.”
Kẻ Gác Đêm? Danh hiệu của đội ngũ người phi phàm của giáo hội nữ thần Đêm Tối mà "Chính Nghĩa" và "Người Treo Ngược" từng đề cập đến? Klein giật mình, lại liên tưởng tới ban nãy, bèn thốt lên:
“Anh điều khiển giấc mơ? Anh vừa để cho tôi mơ như vậy à?”
Kẻ Gác Đêm Dunn Smith lại đội mũ dạ lên đầu, che đi mái tóc ngắn, đôi mắt xám sâu thẳm kia ánh lên ý cười, nói:
“Không, tôi chỉ tiến vào giấc mộng của cậu, tạo ra những dẫn dắt cần thiết.”
Giọng nói của anh ta thuần hậu và êm dịu, quanh quẩn khắp hành lang tối với chút ánh sáng đỏ nhạt mà không hề kinh động tới giấc mơ đẹp của những người khác:
“Ở trong mơ, dù sẽ có những cảm xúc do tâm tình thường bị đè nén áp lực hoặc cái loại tâm lý tối tăm được phóng đại lên khiến mọi thứ có vẻ hỗn loạn, vớ vẩn và điên cuồng, nhưng sự thật vẫn tồn tại, vẫn được giấu vào trong đó. Đối với kẻ lão luyện như tôi mà nói, mọi thứ đều rõ ràng và dễ thấy. So với cậu trong trạng thái tỉnh, tôi tin cậu ở trong giấc mơ hơn nhiều.”
Đây là... Người bình thường ai có thể khống chế được giấc mơ của mình? Nếu như mình mơ thấy những gì ở Trái Đất, chẳng phải sẽ bị Dunn Smith phát hiện sao? Klein khiếp sợ, vô cùng sợ những gì gặp được trong giấc mơ.
Nhưng hắn nhanh chóng nhận ra một vài điều kỳ quái, bởi vì hắn nhớ rằng ở trong mơ hắn rất tỉnh táo, rất lý trí, biết cái gì nên và không nên nói. Đơn giản mà nói thì đó là hoàn toàn không giống nằm mơ!
Cho nên chính là Dunn Smith đã "nhìn thấy" những gì mà mình muốn anh ta thấy?
Những ý nghĩ nhanh chóng hiện lên trong đầu Klein, hắn mơ hồ hiểu ra. Đây là phúc lợi kèm theo xuyên việt, ví dụ như đặc thù linh hồn của bản thân, hay là ảnh hưởng phụ từ "nghi thức đổi vận" kia?
“Cho nên, anh Smith, anh thực sự tin tôi đã mất ký ức?” Klein tổ chức lại ngôn ngữ, hỏi ngược lại.
Dunn Smith không trả lời trực tiếp, mà nhìn lại hắn thật chăm chú:
“Cậu lại không hề có cảm giác kinh ngạc gì với chuyện như này à? Lúc trước tôi có gặp được người, cho dù vừa mơ xong cũng không tin sẽ có năng lực phi phàm, nên thà rằng mình còn chưa tỉnh dậy.”
Klein đáp "ừ" một tiếng, rồi nói:
“Có lẽ vì tôi đang cầu khấn mong có sức mạnh như vậy tới giúp mình.”
“Một logic rất thú vị... Có lẽ việc cậu sống sót không phải là vì may mắn.” Dunn gật đầu, không hề nở nụ cười: “Hiện tại tôi có thể xác nhận cậu quả thực mất đi một phần trí nhớ vì chuyện lần này, nhất là liên quan tới bản thân chuyện này.”
“Tôi có thể về được rồi chứ?” Klein thầm thở phào nhẹ nhõm, dò hỏi.
Dunn đút một tay trong túi, chầm chậm bước tới. Bóng đêm xung quanh trở nên yên tĩnh và dịu dàng hơn hẳn.
“Không, cậu vẫn phải đi cùng tôi tới gặp ‘chuyên gia’.” Anh ta nở một nụ cười rất lễ phép.
“Vì sao?” Klein bật thốt ra, rồi vội vàng bổ sung: “Anh không tin những chỉ dẫn ở trong mơ của mình?”
Đùa cái gì chứ? Nếu vị "chuyên gia" kia mà am hiểu thôi miên, có năng lực đọc tâm, chẳng phải bí mật lớn nhất của mình sẽ bị lộ sao? Kết quả thế nào thật khó mà tưởng tượng được!
“Tôi là người khiêm tốn, nhưng vẫn khá tin tưởng vào những gì liên quan tới giấc mơ.” Dunn trả lời thong dong và bình tĩnh: “Chẳng qua, chuyện then chốt và quan trọng đó là xác nhận lại một lần nữa cũng không sao. Huống chi những gì cô ấy am hiểu khác biệt tôi rất nhiều, có lẽ còn có thể giúp cậu khôi phục được một phần nào đó trí nhớ.”
Không cho Klein nói, ngữ khí của anh ta nặng nề hẳn: “Dù sao cậu có liên quan tới tung tích của cuốn bút ký của gia tộc Antigenous.”
“Cái gì?” Klein giật mình một cái.
Dunn dừng ngay trước mặt hắn, dùng đôi mắt màu xám nhìn chằm chằm đôi mắt hắn:
“Ở hiện trường không thấy cuốn bút ký truyền lại từ kỷ thứ tư, cả toà nhà cũng không thấy. Welch chết rồi, Naya chết rồi, cậu là đầu mối duy nhất.”
“... Được rồi.” Klein im lặng một lát rồi thở hắt ra.
Bút ký biến mất... Đúng là chuyện kỳ dị mà! Thế mà lúc trước mình hoàn toàn không nghĩ đến tung tích cuốn bút ký của kỷ thứ tư kia!
Dunn gật đầu khe khẽ, gần như không thể nhận ra. Anh ta vừa lướt qua Klein vừa chuyển chủ đề:
“Bây giờ cậu khoá cửa lại rồi cùng tôi tới nơi ở của Welch. ‘Chuyên gia’ đang chờ chúng ta ở chỗ đó.”
Klein lặng lẽ hít vào một hơi, lòng bồn chồn và bất an. Hắn muốn từ chối, thậm chí là muốn bỏ chạy, nhưng tin rằng với việc chặn mình lại ở trong giấc mơ lúc trước, Dunn Smith chắc chắn sẽ đề phòng nghiêm ngặt. Mà thực lực của người bình thường với người phi phàm chênh lệch rất lớn, cố tình bỏ chạy sợ là chẳng có bao nhiêu phần trăm thành công.
Chắc chắn anh ta có mang súng lục theo... Là cái loại súng mà bản thân cũng có thể là đã tập luyện rất nhiều lần...
Các ý nghĩ xung đột dữ dội trong đầu, cuối cùng Klein quyết định chấp nhận sự thật:
“Vâng.”
Haiz, đành phải đi một bước nhìn một bước, có khi cái loại đặc biệt trong giấc mơ của mình sẽ lại có hiệu quả...
“Vậy đi thôi.” Dunn nói, ngữ khí không thay đổi.
Klein xoay người đi theo hai bước rồi đột ngột dừng lại:
“Này anh Smith, tôi... Tôi muốn đi phòng tắm cái đã.”
Đi toilet ấy mà! !!
Dunn không ngăn cản mà nhìn hắn một cái thật sâu:
“Không thành vấn đề. Klein, hãy tin tôi, trong đêm tối tôi còn mạnh hơn những gì cậu nghĩ.”
Trong đêm tối... Klein im lặng lẩm nhẩm mấy từ này.
Hắn không định thử nghiệm một cách lỗ mãng, mà thành thật đi giải quyết cái bụng đang căng muốn tràn ra, sau đó lấy nước lạnh rửa mặt khiến bản thân hoàn toàn bình tĩnh lại.
Đổi xong áo và mũ, đóng cửa phòng trọ, Klein nhẹ bước đi theo Dunn xuống cầu thang, đi tới cửa nhà trọ.
Trong sự yên tĩnh ấy, Dunn Smith bỗng nói:
“Ở cuối giấc mơ, vì sao cậu muốn chạy trốn? Cậu đang sợ điều gì?”
Những ý tưởng loé lên như điện xẹt trong đầu Klein, hắn vừa suy tư vừa đáp:
“Tôi không nhớ rõ mình đã làm gì ở nhà Welch, cũng không nhớ rõ có phải kẻ đã tạo nên cái chết của cậu ấy với Naya không. Tôi sợ cuối cùng thực sự là tôi làm, nên không dám đánh cược, chi bằng bỏ trốn tới nam lục địa bắt đầu một cuộc đời mới.”
“Nếu là tôi, tôi cũng sẽ làm như vậy.” Dunn mở cửa nhà trọ, làm cho gió lạnh nửa đêm thổi tan cái oi bức trong nhà.
Anh ta không sợ Klein bỏ trốn mà cứ thế lên xe ngựa trước. Đó là cỗ xe ngựa mà Klein gặp trong giấc mơ, bốn bánh, một ngựa, người lái xe, mặt hông của phần mái xe ngựa có khắc dấu hiệu của hệ thống cảnh sát "Hai thanh kiếm đan xen vào nhau, vây quanh một chiếc vương miện".
Klein bước lên theo, phát hiện bên trong trải một tấm thảm thật dày, một thứ mùi hương liệu tràn ngập khắp xe ngựa, khiến người ta thấy lòng mình bình yên.
Hắn ngồi xuống, tìm đề tài hòng mò ra thêm nhiều thông tin hơn:
“Anh Smith, nếu, tôi nói là nếu ấy, ‘Chuyên gia’ xác nhận rằng tôi thực sự quên đi phần trí nhớ kia, cũng không có chứng cớ nào chứng minh tôi là thủ phạm mà không phải người bị hại, chuyện này coi như kết thúc?”
“Trên lý luận thì là như vậy. Chúng tôi sẽ tìm cuốn bút ký kia theo cách khác. Chỉ cần nó vẫn còn tồn tại thì sẽ bị phát hiện. Đương nhiên, trước đó, chúng tôi sẽ xác nhận xem trên người cậu liệu có nguyền rủa không, có mùi ác linh còn sót lại không, có vấn đề tâm lý tương ứng không, có bình an và khoẻ mạnh để chào đón tương lai không.” Dunn Smith mỉm cười, chỉ là nụ cười này trông hơi cổ quái.
Klein sâu sắc nắm bắt được điểm ấy, bất chấp việc thở phào mà vội vàng hỏi tiếp:
“Trên lý thuyết?”
“Đúng vậy, chỉ là trên lý thuyết. Lĩnh vực này luôn có đầy những chuyện méo mó, trái với lẽ thường, làm cho người ta không cách nào tin được.” Dunn nhìn đôi mắt Klein, nói: “Sự kéo dài và kết thúc của chúng nó, đôi khi, là thứ không phải chúng ta có thể đoán và khống chế được.”
“Ví dụ như?” Klein lại thấy sợ hãi.
Xe ngựa phi nhanh trên con đường gần như không có bóng người, Dunn lấy một chiếc tẩu thuốc ra, ngửi mùi hương trong đó:
“Khi chúng ta cho rằng chuyện đã kết thúc, tất cả mọi thứ đều đã bình thường trở lại, nó sẽ lại lấy cái phương thức khiến người ta kinh hãi mà giáng xuống. Mấy năm trước chúng tôi có giải quyết một vụ án của một tà giáo. Tín đồ của bọn họ dùng phương thức tự sát để hoàn thành việc tế sống nhằm lấy lòng tà thần. Trong đó có một vị tín đồ, sau khi bị lựa chọn thì bản năng cầu sinh đã chiến thắng sự ngu xuẩn, chiến thắng dị tín, chiến thắng thứ thuốc mê huyễn, bèn lén chạy tới cục cảnh sát báo án.
Chuyện này được chuyển cho chúng tôi xử lý, một nhiệm vụ rất nhỏ. Bởi vì tà giáo kia không có người phi phàm nào, còn thần linh mà bọn họ thờ cúng lại do bọn họ tự nghĩ ra, để vơ vét của cải, để hưởng thụ mà mất đi nhân tính.
Chúng tôi chỉ điều hai đội viên, cùng với sự phối hợp của cảnh sát là đã thuận lợi giải quyết được tà giáo này, không ai lọt lưới. Mà người báo án kia, chúng tôi cũng xác nhận là ông ta không có mùi còn sót lại của ác linh, không bị nguyền rủa quấn lấy, càng không có chướng ngại tâm lý hay có vấn đề về nhân cách, không có bất kỳ dấu vết kỳ quái nào khác. Sau đó, công việc của ông ta phát triển không tệ, cưới một cô vợ rất tốt, sinh được hai đứa con, một nam một nữ. Dường như tất cả bóng ma quá khứ đã rời xa ông ta, sự khủng bố và máu me ở quá khứ đã hoàn toàn tan đi.”
Nói tới đây, Dunn Smith cười:
“Nhưng ngay tại tháng Ba năm nay, ông ta, một kẻ mà tiền bạc rủng rỉnh, tình cảm vợ chồng hoà thuận, con cái thông minh và đáng yêu, lại chết. Tự bóp chết chính mình trong văn phòng.”
Ánh trăng đỏ rực chiếu vào từ bên ngoài cửa sổ xe ngựa, rọi lên người Dunn Smith. Giờ phút này, nụ cười tự giễu của anh ta lại khiến Klein cảm thấy sợ hãi, một nỗi sợ hãi khó nói nên lời.
“Tự bóp chết chính mình...” Klein lặng lẽ hít vào mấy hơi khí lạnh, dường như thấy được kết cục thê thảm của mình.
Chẳng lẽ tránh được một kiếp chỉ là tạm thời tránh thoát được sao? Có biện pháp gì có thể giải quyết hoàn toàn không? Làm cho bản thân trở thành người phi phàm để đối kháng?
Khoang xe lại yên tĩnh trở lại. Vô số ý tưởng nhốn nháo trong đầu Klein, rồi lại lắng xuống.
Trong sự yên tĩnh khôn tả này, xe ngựa chạy thật lâu, thật nhanh.
Ngay khi Klein quyết định mặt dày thỉnh giáo Dunn Smith xem có cách nào giải quyết không, xe ngựa dừng lại.
“Ngài Smith, đã đến nơi ở của Welch rồi.” Tiếng người lái xe vang lên bên tai hai người.
“Chúng ta xuống thôi.” Dunn chỉnh sửa áo khoác gió màu đen dài tới tất: “À, tôi giới thiệu qua trước một chút, thân phận nguỵ trang của ‘chuyên gia’ chính là Người Thông Linh nổi tiếng nhất quận Akhova.
Klein tạm thu lại ý tưởng của mình, tò mò hỏi:
“Vậy thân phận thực tế của cô ta là gì?”
Dunn nửa xoay người, quay đầu lại, đôi mắt xám sâu lắng, nói:
“’Người Thông Linh’ chân chính.”
Chương 14: Người thông linhNgười Thông Linh chân chính... Klein lẩm nhẩm những từ này, không tiếp tục hỏi nữa mà theo Dunn Smith xuống xe ngựa.
Welch ở trong một toà nhà có vườn hoa riêng ở Tingen, bên ngoài lớp cửa sắt chạm khắc rỗng là một con đường đủ cho bốn chiếc xe ngựa cùng chạy song song. Hai bên đường, cứ năm mươi mét lại có một đèn đường. Những chiếc đèn này khác với đèn đường đời trước mà Klein gặp được, chúng nó là đèn khí gas. Cột đèn cao chừng bằng một người đàn ông trưởng thành, tiện cho việc đốt lửa chiếu sáng.
Kim loại màu đen kề sát lớp thuỷ tinh, tạo ra phần lưới rào quanh, đúc nên một chiếc đèn đường trông hệt như "tác phẩm nghệ thuật" cổ điển. Lạnh lẽo và ấm áp cùng nhảy múa, bóng tối với ánh sáng cùng tồn tại.
Bước qua con đường được chiếu sáng mờ mờ, Klein và Dunn Smith đi qua cửa sắt được khép một nửa bước vào nơi Welch thuê.
Đối diện với cổng là con đường đủ cho hai chiếc xe ngựa chạy qua, được lát xi măng, nối thẳng với toà nhà hai tầng. Bên trái nó là vườn hoa, bên phải là thảm cỏ. Mùi hoa nhàn nhạt xen với mùi nhẹ nhàng khoan khoái làm cho người ta cảm thấy thoải mái.
Vừa bước vào một bước, Klein lập tức dựng hết lông tơ lên, vội nhìn xung quanh.
Hắn cảm thấy trong bóng tối ở vườn hoa, trong thảm cỏ, ở tầng đỉnh của toà nhà, phía sau đu dây, trong những góc tối, có một đôi mắt đang nhìn chằm chằm hắn!
Rõ ràng là nơi này trống trải không một bóng người, mà Klein lại thấy mình như đang đứng ở một con phố náo nhiệt.
Sự đối lập quỷ quái, cảm nhận kỳ dị khiến thân thể hắn căng thẳng, khiến hắn cảm thấy lạnh lẽo từ đốt sống đuôi nhanh chóng kéo lên.
“Có vấn đề!” Hắn nhịn không được mà mở miệng nhắc nhở Dunn.
Dunn đi ở bên cạnh, mặt không hề thay đổi, chỉ bình thản đáp:
“Không cần để ý.”
Thấy "Kẻ Gác Đêm" nói như vậy, Klein chịu đựng cái cảm giác sởn tóc gáy khi bị theo chân, bị nhìn trộm, bị đánh giá mà không phát hiện đối tượng ở đâu, từng bước đi tới cửa của toà nhà kia. Cứ như này mãi chắc mình sẽ bị thần kinh mất...
Khi Dunn giơ tay gõ cửa, Klein nhanh chóng quay đầu liếc nhìn, bông hoa đung đưa theo gió, không có bóng người nào.
“Mời vào, các vị thân sĩ.” Một tiếng nói có vẻ kỳ ảo truyền ra từ trong nhà.
Dunn vặn nắm cửa rồi mở cửa bước vào, nói với cô gái đang ngồi trên chiếc ghế sô pha ở phía đối diện:
“Daly, có kết quả gì không?”
Đèn treo ở phòng khách không được thắp lên, hai chiếc ghế sô pha, một dài hai ngắn, vờn quanh một bàn trà làm từ đá cẩm thạch. Một ngọn nến được đốt cháy trên bàn trà. Nhưng ngọn lửa của nó lại toả ra ánh sáng màu lam tươi đẹp, phủ lên một tầng sắc thái kỳ dị cho căn phòng khách với kết cấu kiểu nửa mở, cùng với phòng ăn và phòng bếp.
Một quý cô ngồi trên chiếc ghế sô pha dài. Cô ta khoác một áo choàng có mũ, đôi mắt màu lam và cặp má hồng phây phây. Phần cổ tay bên ngoài lớp áo có quấn một chiếc dây xích bạc treo một viên pha lê trắng.
Lần đầu gặp cô ta mà Klein đã có cảm giác: Giả vờ hệt như một Người Thông Linh chân chính... Đây là đang sắm vai bản thân?
"Người Thông Linh" Daly với vẻ đẹp yêu dị dùng đôi mắt màu xanh biếc đảo qua Klein, rồi nhìn Dunn Smith và nói:
“Những linh hồn trước đây đều biến mất, kể cả Welch và Naya. Bây giờ những tên nhóc ở nơi này đều chẳng biết gì cả.”
Linh hồn? Người Thông Linh... Vừa rồi những kẻ quan sát ta mà ta nhìn không thấy chính là linh hồn? Thậm chí lại có nhiều linh hồn như vậy? Klein bỏ mũ xuống đặt trước ngực, khẽ cúi người chào:
“Chào buổi tối, quý cô.”
Dunn Smith thì thở dài:
“Đúng là hóc búa mà... Daly, đây là Klein Moretti. Cô thử xem liệu có phát hiện được gì từ cậu ta không.”
"Người Thông Linh" Daly dời tầm mắt sang người Klein, cô ta chỉ vào chiếc ghế sô pha cho một người, nói:
“Mời ngồi.”
“Cảm ơn.” Klein gật đầu, bước tới rồi thành thật ngồi xuống, cả trái tim cứ nhấc lên tận cổ họng. Sống hay chết, thuận lợi vượt qua hay là lộ bí mật chính là xem những gì sẽ xảy ra tiếp theo!
Mà điều khiến hắn cảm thấy uể oải nhất chính là bản thân hắn không có thứ gì để dựa vào, chỉ có thể gửi gắm hy vọng vào đặc thù... Đây là một cảm giác rất là không tốt... Klein nghĩ đầy chua sót.
Sau khi Dunn ngồi vào chiếc ghế sô pha cho hai người ở đối diện hắn, "Người Thông Linh" Daly lấy một bình thuỷ tinh to bằng hai ngón cái từ trong túi bên hông.
Cô ta nhìn Klein bằng đôi mắt xanh biếc, cười nói:
“Ta cần một ít phụ trợ, bởi dù sao cậu cũng không phải kẻ địch nên không thể cứ trực tiếp như vậy được. Bị đối xử thô bạo sẽ khiến cậu không quá thoải mái, cảm thấy đau đớn, thậm chí để lại di chứng nghiêm trọng. Tôi sẽ cho cậu mấy mùi thơm, cho cậu đủ sự mềm mại và bôi trơn để cậu có thể thả lỏng bản thân, thật sự đắm chìm trong cảm giác đó.”
Lời này nghe cứ thấy sai sai thế nào... Klein líu lưỡi, ánh mắt kinh ngạc.
Ở phía đối diện, Dunn cười nói:
“Không phải ngạc nhiên! Khác với cái đám ở giáo hội chúa tể Bão Táp, ở chỗ bọn tôi các quý cô có thể chòng ghẹo nam giới. Về điểm này thì chắc cậu biết rõ, mẹ cậu là một tín đồ ngoan đạo của nữ thần, mà cậu với anh trai cậu từng tới học ở trường học Chủ Nhật của giáo hội.”
“Tôi hiểu, chỉ là không ngờ sẽ như vậy... như vậy...” Klein giơ tay miêu tả vì không thể tìm được từ nào để miêu tả cho phù hợp, hắn suýt thì thốt ra cái từ mang nghĩa tương đương "phịch thủ".
Dunn gợi khoé miệng, nói:
“Yên tâm, kỳ thật ít khi Daly làm như vậy. Cô ấy chỉ muốn thông qua phương thức này để khiến cậu bình tĩnh và thả lỏng. Chứ thật ra cô ấy thích thi thể hơn đàn ông nhiều.”
“Anh nói cứ như thể tôi là kẻ biến thái vậy.” "Người Thông Linh" Daly mỉm cười chen miệng.
Cô ta mở bình nhỏ kia ra, đột vài giọt lên ngọn lửa màu lam đẹp đẽ toả ra từ cây nến:
“Cỏ dạ hương, hoa thâm miên, cúc La Mã pha với nước tinh khiết được chưng cất ra. Tôi gọi nó là "Amanda". Trong tiếng Hermes từ đó có nghĩa là mùi hương dễ chịu.”
Trong lúc cô ta nói, ánh nến lập loè mấy cái. Vài giọt nước cất kia nhanh chóng bốc hơi, tràn ngập khắp căn phòng.
Một mùi thơm thanh u mê người xộc vào trong mũi Klein, khiến tinh thần hắn không còn căng thẳng, tâm linh hắn nhanh chóng ôn hoà trở lại, hệt như một người đang nhìn xuống bóng tối trong đêm khuya.
“Lọ này gọi là "Mắt Linh Chi", dùng vỏ và lá của cây vân rồng và cây bạch dương phơi bảy ngày, sắc ba lần, rồi ngâm trong rượu Ranze mà thành. Đương nhiên trong quá trình đấy còn phải phối hợp với vài câu niệm chú...”
Chất lỏng màu hổ phách kèm theo lời miêu tả của "Người Thông Linh" Daly nhỏ lên ngọn nến màu lam đẹp đẽ.
Klein ngửi thấy mùi rượu, một thứ mùi xa xăm mơ hồ. Hắn thấy ánh nến phập phù liên tục, thấy đôi mắt lam và cặp má hồng của Daly loé lên vẻ sáng bóng kỳ dị, thậm chí còn xuất hiện bóng chồng lên nhau.
“Nó là thứ phụ trợ tuyệt hảo cho thông linh, cũng là tinh hoa mê người...”
Theo tiếng kể êm dịu của Daly, Klein chỉ cảm thấy giọng nói của cô ta vang lên từ bốn phương tám hướng.
Klein mê mang nhìn bốn phía, ngạc nhiên phát hiện rằng mọi thứ đều đang lắc lư, đều nhoà đi như là bị bao phủ bởi một tầng sương mù dày đặc. Ngay sau đó thân thể của hắn cũng đung đưa theo, càng mơ hồ, mơ màng, rồi mất trọng lực.
Đỏ lại càng đỏ, lam càng lam, đen càng thêm đen. Những màu sắc hỗn tạp thành một bức tranh thuộc trường phái ấn tượng, mê ly và ảo mộng. Mà xung quanh thì có những tiếng nỉ non nhỏ bé và vụn vặt gối lên nhau, truyền tới từng đợt, hệt như có vô số người vô hình đang xì xào bàn tán.
Cảm giác như cái này khá tương tự với "nghi thức đổi vận" mà lúc trước mình làm, nhưng không hề có mùi vị khiến người ta điên cuồng, khiến người ta muốn bùng nổ... Klein nhìn tất cả, nghi hoặc mà nghĩ.
Đúng lúc này, tầm mắt hắn bị một đôi mắt trong suốt như ngọc lục bảo thu hút. Daly mặc áo choàng đen ngồi trên một chiếc "sô pha" mơ hồ, ánh mắt tập trung vào đỉnh đầu Klein trông khá kỳ dị, cười và dịu dàng nói:
“Xin giới thiệu chính thức, tôi, ‘Người Thông Linh’ Daly.”
Đây... Mình vẫn còn lý trí và tỉnh táo để suy nghĩ... Giống hệt như "nghi thức đổi vận" và "tụ hội"... Klein nghĩ vậy, bèn cố ý thể hiện trạng thái ngơ ngác:
“Xin chào...”
“Tư duy của con người vô cùng mênh mông, ẩn chứa rất nhiều bí ẩn. Nhìn đi, cả vùng biển rộng bao la đó, thứ mà chúng ta hiểu biết chỉ là hòn đảo nhỏ nổi lên trên mặt biển, nhưng thực tế thì ở dưới mặt biển, hòn đảo đó còn có phần dưới to lớn hơn nhiều. Cơ mà trên thực tế ngoài đảo ra thì còn cả vùng biển rộng, còn cả bầu trời mênh mông vô biên tượng trưng cho Linh giới...
Cậu là linh của thân thể, cậu không chỉ biết hòn đảo nhỏ nổi trên mặt biển, còn biết cả phần còn lại của hòn đảo nằm dưới nước biển, biết cả biển rộng bao la... Phàm là thứ gì đã tồn tại thì sẽ để lại dấu vết. Trí nhớ ở bề mặt nổi trên mặt nước của hòn đảo có thể bị xoá đi, nhưng phần còn lại của hòn đảo ở dưới nước và cả vùng biển rộng chắc chắn sẽ còn ảnh chiếu đối ứng của nó còn sót lại...”
Daly hướng dẫn từng chút một. Gió và bóng dáng xung quanh cũng biến đổi ra các hình dáng tương tự, dường như toàn bộ vùng biển tâm linh của Klein đang được bày ra ở nơi đây để chính hắn đi tìm và khám phá.
Klein bình tĩnh nhìn biển rộng thi thoảng lại "cuồn cuộn", cuối cùng trả lời với ngữ khí mờ ảo:
“Không... Tôi không nhớ gì hết... Tôi quên rồi...” Hắn lại thể hiện ra sự đau đớn vừa đủ.
Daly lại thử hướng dẫn lần nữa, nhưng một Klein tỉnh táo hoàn toàn không bị ảnh hưởng.
“Được rồi, đến đây là kết thúc, trở về đi.”
Trở về đi...
Trở về đi....
Tiếng nói hư ảo vang vọng, Daly biến mất. Gió và bóng dáng bắt đầu lắng lại, mùi hương thanh u và mùi rượu nhàn nhạt lại trở nên rõ ràng.
Tất cả màu sắc đã bình thường trở lại, cảm giác mơ hồ mê loạn không xuất hiện nữa. Klein run run người, tìm được trọng lượng cơ thể mình.
Hắn mở đôi mắt không biết đã nhắm lại từ lúc nào, phát hiện trước mặt vẫn là ngọn nến toả ra ánh sáng màu lam, vẫn là Dunn Smith đang thoải mái dựa vào ghế sô pha, vẫn mà "Người Thông Linh" Daly vẫn mặc áo choàng có mũ đen sì.
“Sao cô lại sử dụng cái lý luận của lũ điên tà ác bên hội Tâm Lý Luyện Kim?” Dunn khẽ nhíu mày nhìn Daly.
Daly vừa cất hai bình nhỏ kia đi, vừa bình tĩnh đáp:
“Tôi cảm thấy nó rất chính xác, chí ít là phù hợp với một số chuyện mà tôi nhìn thấy, và được tiếp xúc đến...”
Không chờ Dunn mở miệng nói tiếp, cô ta giang tay, nói:
“Là một kẻ khó giải quyết, không để lại bất cứ dấu vết gì.”
Nghe được câu này, Klein thở phào nhẹ nhõm, tỏ vẻ ngây thơ hỏi:
“Chuyện này kết thúc rồi à? Vừa rồi đã xảy ra cái gì vậy? Tôi cảm thấy như mình vừa ngủ một giấc...”
Thế này chắc được coi là vượt qua kiểm tra rồi nhỉ? May là có lần "diễn tập" từ "nghi thức đổi vận"!
“Cứ cho là thế đi.” Dunn cắt lời hắn, nhìn "Người Thông Linh" Daly, nói: “Đã kiểm tra thi thể Welch và Naya chưa?”
“Thi thể có thể nói cho chúng ta biết nhiều hơn là anh nghĩ, tiếc rằng Welch và Naya quả thực là tự sát. Chỉ có thể nói, thứ sức mạnh ảnh hưởng bọn họ làm cho người ta sợ hãi, không để lại bất cứ dấu vết nào.” Daly đứng lên, đưa tay về phía ngọn nến kia: “Tôi cần nghỉ ngơi.”
Ánh sáng màu lam biến mất, tức thì màu đỏ rực mê ly trào vào trong phòng.
...
“Chúc mừng cậu, đã có thể về nhà. Nhưng cậu phải nhớ kỹ rằng không được kể chuyện này cho người nhà và bạn bè, phải cam đoan.” Dunn dẫn Klein đi về phía cổng.
Klein kinh ngạc, hỏi lại:
“Không cần kiểm tra xem có nguyền rủa hay dấu vết của ác linh à?”
“Daly không nói thì là không có.” Dunn trả lời ngắn gọn.
Klein yên tâm, nghĩ tới những gì mình lo lắng lúc trước bèn vội hỏi:
“Tôi làm sao có thể xác nhận là sau này không còn rắc rối gì nữa?”
“Đừng lo quá.” Dunn nói: “Căn cứ vào thống kê thì trong những tình huống tương tự, 80% đương sự còn sống sẽ không gặp được chuyện đáng sợ kế tiếp. Ừm, con số này là tôi tổng kết dựa trên ấn tượng của mình. Đại khái là chừng đó.”
“Vậy còn 20% xui xẻo...” Klein cũng không dám "liều mạng".
“Vậy cậu có thể nghĩ tới việc gia nhập chúng tôi, làm một nhân viên dân sự. Cứ như vậy thì có điềm báo gì chúng tôi có thể phát hiện đúng lúc.” Dunn vừa bước tới gần xe ngựa vừa thuận miệng nói: “Hoặc là trở thành người phi phàm. Dù sao bọn tôi không phải bảo mẫu của cậu, không thể đêm nào cũng canh gác cho cậu, ngay cả việc cậu với cô nàng nào đó lăn giường cũng phải nhìn.”
“Tôi cũng được à?”
Klein hỏi, thuận theo những lời kia. Đương nhiên hắn gần như không ôm hy vọng gì, bởi làm sao có thể nhẹ nhàng gia nhập đội ngũ Kẻ Gác Đêm mà đạt được năng lực phi phàm chứ! Đây chính là năng lực phi phàm mà!
Dunn dừng chân lại, nghiêng đầu liếc hắn một cái:
“... Không phải là không thể được, xem tình hình như nào...”
Gì? Chuyển biến này khiến Klein kinh ngạc, hắn sững sờ bên chiếc xe ngựa một lát, mới nói:
“Thật à?”
Đùa gì vậy? Trở thành người phi phàm dễ như vậy sao?
Dunn khẽ cười một tiếng, đôi mắt màu xám bị bóng của chiếc xe ngựa che phủ:
“Không tin? Kỳ thật trở thành Kẻ Gác Đêm, cậu sẽ mất rất nhiều, ví dụ như tự do. Cho dù không nói đến cái này thì vẫn còn vấn đề khác. Thứ nhất, cậu không phải nhân viên thần chức có công trạng hay tín đồ thành kính, không có cách nào chọn lựa, cũng không có con đường an toàn nhất. Thứ hai thì...”
Dunn nắm lấy tay vịn mà trèo lên xe ngựa, nói tiếp:
“Chúng tôi, Kẻ Trừng Phạt, Trái Tim Máy Móc và các cơ quan thẩm phán tương tự khác, hàng năm đều phải xử lý các chuyện mà một phần tư trong số đó là người phi phàm bị mất khống chế.”
Một phần tư... Người phi phàm mất khống chế... Klein giật mình.
Lúc này Dunn quay người, đôi mắt xám sâu thẳm, khoé miệng giật giật, không mang theo ý cười gì:
“Mà trong một phần tư này, phần lớn là đồng đội của chúng tôi.”
Chương 15: Lời mời“Vì sao?” Nghe Dunn nói như vậy, lòng Klein lập tức dấy lên sóng to gió lớn, theo bản năng bật thốt ra.
Người phi phàm sẽ có tai hoạ ngầm rất nghiêm trọng? Thế cho nên người phi phàm chuyên xử lý các sự kiện tà dị trong cơ quan thẩm phán trong các giáo hội sẽ rất dễ xảy ra vấn đề?
Dunn Smith bước vào toa xe, ngồi ở vị trí phía trước, vẻ mặt và ngữ khí vẫn bình thường:
“Đây không phải chuyện cậu nên biết, cũng không phải chuyện cậu có thể hiểu được, trừ phi trở thành một thành viên trong bọn tôi.”
Klein câm nín, ngồi xuống theo, nửa buồn cười nửa không hiểu mà hỏi:
“Không biết rõ thì sao có thể quyết định gia nhập được?”
Mà không gia nhập thì không cách nào hiểu được, đây là một vòng tuần hoàn cụt...
Dunn Smith lại lấy tẩu thuốc ra, đưa lên chóp mũi hít vào một hơi:
“Đại khái là cậu hiểu lầm, thành viên của chúng tôi bao gồm cả người làm công việc văn phòng.”
“Nói cách khác, chỉ cần trở thành nhân viên văn chức của các anh là có thể biết đến những bí mật liên quan, biết rõ tai hoạ ngầm và những nguy hiểm có khả năng gặp phải của người phi phàm, sau đó suy xét xem có nên trở thành người phi phàm không?” Klein vừa sửa sang lại suy nghĩ, vừa diễn đạt lại ý của đối phương theo cách của mình.
Dunn cười nói:
“Là như vậy. Trừ một điểm, đó là không phải cậu suy xét trở thành người phi phàm là nhất định có thể trở thành người phi phàm. Về phương diện này các giáo hội lớn đều nghiêm khắc như nhau.”
Không nghiêm khắc mới kỳ quái... Klein oán thầm, dùng động tác tay nhằm nhấn mạnh:
“Vậy nhân viên văn chức thì sao? Cũng rất nghiêm khắc chứ?”
“Nếu như là cậu thì chắc là không có vấn đề gì.” Dunn nhắm hờ đôi mắt, mặt mày giãn ra mà ngửi tẩu thuốc, nhưng không hề châm lửa.
“Vì sao?” Klein lại nghi hoặc. Cùng lúc đó hắn tự chế giễu mình trong lòng: Chẳng lẽ là do ta đặc biệt, do có quầng sáng của kẻ xuyên việt, tựa như đom đóm trong đêm nên rõ ràng như thế, xuất chúng như thế?
Dunn mở đôi mắt khép hờ, đôi mắt xám ấy vẫn sâu thẳm như lúc trước:
“Thứ nhất, có thể sống sót trong chuyện như thế này mà không cần chúng tôi giúp đỡ, điều này nói rõ cậu có ưu điểm mà người khác không có được, ví dụ như may mắn. Mà người may mắn thì luôn được chào đón.”
Thấy vẻ mặt có vẻ nghệt ra của Klein, anh ta khẽ cười, nói tiếp:
“Được rồi. Cậu cứ coi như đây là nói theo kiểu hài hước đi. Thứ hai, cậu tốt nghiệp hệ lịch sử của đại học Hoy, đây là điều mà chúng tôi rất cần. Tuy rằng thái độ của Lurmi, một tên tín đồ của chúa tể Bão Táp với phụ nữ khiến người ta ghét, nhưng hắn có quan điểm sắc bén về xã hội, nhân văn, kinh tế và chính trị. Hắn từng nói rằng, nhân tài là nhân tố mấu chốt cho việc giữ vững ưu thế cạnh tranh và phát triển tốt đẹp. Về điều này thì tôi rất tán đồng.”
Thấy Klein khẽ nhíu mày, Dunn tiện thể giải thích:
“Có lẽ cậu sẽ tưởng tượng ra được rằng chúng tôi thường xuyên tiếp xúc với các tài liệu lịch sử và đồ vật ở kỷ thứ tư, thậm chí là trước đó. Không ít tà giáo cùng đám dị đoan luôn muốn có được sức mạnh từ những thứ này. Đôi khi bản thân chúng nó cũng gây ra những chuyện kỳ dị và đáng sợ. Ngoài những người phi phàm ở lĩnh vực đặc thù, phần lớn bọn tôi đều không giỏi việc học tập, hoặc có thể nói là đã quá tuổi rồi.”
Nói tới đây, Dunn Smith chỉ vào đầu mình, khoé miệng khẽ nhếch như đang tự chế giễu:
“Những tri thức buồn tẻ, nhàm chán ấy luôn khiến người ta buồn ngủ, cho dù là Kẻ Không Ngủ thì cũng không cách nào kháng cự được. Hồi trước chúng tôi thường hợp tác với các nhà lịch sử học và khảo cổ học, nhưng làm vậy thì có khả năng bị tiết lộ thông tin bí mật ra ngoài, cũng có thể đưa các vị giáo sư hoặc phó giáo sư vào cảnh ngộ không ổn. Cho nên có một nhân sĩ chuyên nghiệp gia nhập làm thành viên của chúng tôi là chuyện tốt khó mà từ chối được.”
Klein khẽ gật đầu chấp nhận cách nói này của Dunn, tư duy bắt đầu phát tán:
“Vậy lúc trước sao các anh không trực tiếp, ừm, đào tạo một ai đó?”
Dunn phối hợp nói tiếp:
“Đó là điều thứ ba, cũng là một điều quan trọng nhất. Cậu đã tiếp xúc với những sự kiện tương tự cho nên sẽ không tồn tại chuyện cậu làm trái với các điều khoản bảo mật. Mà đổi lại đào tạo một người khác, nếu thất bại thì tôi sẽ phải gánh vác trách nhiệm làm lộ bí mật. Tuyệt đại đa số đội viên của chúng tôi và nhân viên văn chức của chúng tôi đều đến từ trong chính giáo hội.”
Im lặng nghe xong, Klein tò mò hỏi:
“Tại sao các anh lại phải giữ bí mật kín kẽ như vậy? Có rất nhiều chuyện mà công bố ra ngoài, cho phép lưu truyền ra ngoài sẽ làm cho nhiều người biết đến, không phải là có thể tránh cho sai lầm tương tự lại xảy ra sao? Sự sợ hãi lớn nhất tới từ thứ không biết, chúng ta có thể biến thứ không biết thành đã biết mà.”
“Không, sự ngu xuẩn của con người đã vượt xa những gì cậu tưởng tượng. Làm vậy sẽ khiến cho nhiều kẻ bắt chước theo, hơn nữa còn gây ra những chuyện càng nghiêm trọng hơn.” Dunn Smith lắc đầu, đáp.
Klein "ừ" một tiếng, đã hiểu ra:
“Bài học duy nhất mà con người học được trong lịch sử chính là con người không thể nào học được bài học gì từ lịch sử, và luôn lặp lại bi kịch tương tự.”
“Câu danh ngôn này của hoàng đế Russel rất là triết lý.” Dunn tỏ vẻ đồng ý.
... Russel đại đế nói? Vị tiền bối xuyên việt quả thực là làm đủ ba trăm sáu mươi độ, không để lại kẽ hở nào cho kẻ đến sau có cơ hội vờ vịt oai phong... Klein bỗng cảm thấy không biết nên tiếp lời như thế nào.
Dunn quay đầu ngắm nhìn ra ngoài xe ngựa, ánh sáng mờ từ đèn đường đan xen vào nhau, dệt nên sự rực rỡ của văn minh.
“... Ở trong các cơ quan thẩm phán của các giáo hội lớn đều có câu nói tương tự, đây có lẽ mới là cách bảo mật nghiêm khắc nhất, là nguyên nhân chủ yếu cấm chỉ người bình thường biết rõ mọi chuyện.”
“Là cái gì?” Klein phấn chấn, cảm thấy sảng khoái như đang dòm ngó bí ẩn.
Dunn quay đầu lại, cơ mặt khẽ giật một cái khó mà thấy rõ:
“Tin tưởng và sợ hãi sẽ kéo phiền toái tới. Càng nhiều niềm tin và sợ hãi sẽ mang đến phiền toái càng lớn hơn nữa, mãi cho tới khi tất cả bị huỷ diệt.”
Nói xong câu đó, anh thở dài:
“Mà ngoài khẩn cầu thần linh phù hộ và giúp đỡ ra, con người không có cách giải quyết chân chính nào cho phiền toái lớn đó.”
“Tin tưởng và sợ hãi sẽ kéo phiền toái tới, càng nhiều niềm tin và sợ hãi sẽ mang đến phiền toái càng lớn hơn nữa...” Klein lẩm nhẩm những lời này, nhưng hắn không hiểu rõ cho lắm. Sau đó bởi vì sợ hãi do ko quá hiểu, dường như trong bóng đêm nơi ánh sáng của những chiếc đèn đường không chiếu tới, những đôi mắt chất đầy ác ý và những cái miệng rộng đang không ngừng mở ra.
Vó ngựa thoăn thoắt, bánh xe xoay tròn, đã thấy phố Chữ Thập Sắt ở phía xa xa. Dunn bỗng phá vỡ sự im lặng, chính thức đưa ra lời mời:
“Cậu có muốn gia nhập chúng tôi, trở thành một nhân viên văn chức không?”
Vô số ý nghĩ trào ra trong đầu Klein làm hắn tạm thời không thể quyết định được, bèn nói:
“Tôi có thể suy nghĩ thêm được không?”
Chuyện này rất quan trọng, không thể quyết định một cách gấp gáp lỗ mãng được.
“Không thành vấn đề. Trước Chủ nhật nhớ cho tôi câu trả lời là được.” Dunn gật đầu: “Đương nhiên là phải nhớ giữ bí mật, không thể nói chuyện liên quan tới Welch cho người khác biết, kể cả anh trai và em gái cậu. Một khi nói ra, không chỉ mang rắc rối đến cho bọn họ mà còn có thể khiến cậu phải lên toà án đặc biệt.”
“Vâng.” Klein trịnh trọng trả lời.
Buồng xe lại yên lặng trở lại.
Nhìn thấy phố Chữ Thập Sắt đang gần lại, sắp về nhà, Klein bỗng nghĩ tới một vấn đề. Hắn do dự vài giây, cuối cùng vẫn mở miệng hỏi:
“Anh Smith, tiền lương và chế độ đãi ngộ của nhân viên văn chức bên các anh như nào vậy?”
Đây là một vấn đề rất nghiêm túc...
Dunn sửng sốt, rồi mỉm cười, nói:
“Không phải lo về vấn đề này. Kinh phí của chúng tôi do giáo hội và sở cảnh sát cùng đảm bảo. Những nhân viên văn chức mới gia nhập thì nhận được lương là 2 bảng 20 Saule cho một tuần. Ngoài ra còn có 10 Saule giữ bí mật và trợ cấp mạo hiểm, tổng lại chính là 3 bảng. Không ít hơn lương của giảng viên đại học chính thức là bao. Sau này, khi thời gian công tác của cậu tăng lên, và đạt được công lao tương ứng, tiền lương cũng sẽ được tăng theo.
Đối với nhân viên văn chức, chúng tôi thường ký hợp đồng năm năm. Sau năm năm nếu cậu không muốn làm tiếp thì có thể nghỉ việc như thường, chỉ là bắt buộc phải ký thêm một điều khoản giữ bí mật cả đời nữa, không được chúng tôi phê chuẩn thì không được phép rời khỏi Tingen. Nếu muốn đi những thành phố khác thì cũng bảo tới chỗ Kẻ Gác Đêm ở địa phương đăng ký trước. Đúng rồi, không có Chủ nhật, chỉ có thay phiên nhau nghỉ ngơi, bắt buộc lúc nào cũng phải có ba nhân viên văn chức làm việc. Nếu cậu muốn đi phía nam, đi nghỉ phép ở vịnh Dipsy thì cần phải phối hợp với đồng nghiệp.”
Dunn nói xong, xe ngựa dừng lại. Nhà trọ nơi gia đình Klein ở xuất hiện ở một bên.
“Tôi biết rồi.” Klein xuống xe ngựa, đứng một bên và hỏi: “Đúng rồi, anh Smith, nếu tôi nghĩ kỹ rồi thì tới đâu để tìm anh?”
Dunn khẽ cười nói:
“Đi tới quán rượu ‘Chó Săn’ ở phố Besik, tìm ông chủ Wright của quán đó, nói là cậu muốn mời tiểu đội lính đánh thuê làm một nhiệm vụ.”
“Hở?” Klein nghe mà không hiểu gì cả.
“Địa chỉ của chúng luôn được bảo mật, trước khi cậu đồng ý thì không thể nói thẳng cho cậu được. Được rồi, Klein Moretti, chúc cậu đêm nay có một giấc mơ đẹp.” Dunn mỉm cười gửi lời chúc.
Klein ngả mũ chào, nhìn xe ngựa từ chậm rồi dần nhanh rời khỏi nơi này.
Hắn lấy đồng hồ bỏ túi ra, ấn mở nắp, thấy bây giờ là bốn giờ sáng. Gió lạnh thổi qua trên đường, nơi nơi đều có ánh đèn đường mờ mờ. Klein hít vào một hơi thật sâu, cảm nhận sự yên tĩnh của đêm khuy vắng vẻ xung quanh.
Con phố nơi ban ngày ồn ào nhốn nháo mà về đêm lại lạnh lẽo và yên tĩnh đến vậy, hoàn toàn không biết với những cái nhìn chăm chú và sự mê huyễn của thông linh ở trong nơi ở của Welch.
Mãi tới lúc này, hắn mới phát hiện rằng không biết từ lúc nào chiếc áo đay đã đầy mồ hôi ướt nhẹp sau lưng, lạnh lẽo, dinh dính.
Chương 16: Chó bắt chuộtPhù, cuối cùng đã qua được cửa ải của Người Thông Linh... Klein thở ra một hơi, chậm rãi quay người, vừa hưởng thụ sự yên tĩnh về đêm và gió mát thoải mái vừa dạo bước đi về khu nhà trọ.
Hắn lấy chìa khoá đút vào ổ, nhẹ nhàng vặn khoá ra, làm cho màu đen xen với màu đỏ khuếch đại ra theo tiếng kẹt.
Đi trên hành lang không người, hít thở không khí lạnh lẽo, Klein bỗng có cảm nhận kỳ diệu rằng cuộc đời nhiều hơn người ta mấy giờ đồng hồ, thế là bước chân của hắn cũng trở nên nhẹ nhàng hơn.
Kẹt, hắn giữ nguyên tâm tình đó mở cửa phòng mình ra. Còn chưa cất bước vào, hắn đã thấy một bóng người ngồi lặng lẽ trong bóng tối trước bàn học. Bóng người này có mái tóc đen tắm trong ánh trăng đỏ rực, đôi mắt nâu xám sáng ngời và khuôn mặt thanh tú, không ngờ chính là Melissa Moretti!
“Klein, anh đi đâu vậy?” Melissa giãn mày ra, hỏi đầy nghi ngờ. Không chờ Klein trả lời, con bé lại bổ sung một câu như muốn biết rõ tiền căn hậu quả của câu chuyện, phải nói cho rõ ràng theo đúng logic: “Vừa nãy em đi sang phòng tắm, quay lại thì phát hiện anh không ở nhà.”
Klein giàu kinh nghiệm trong việc lừa dối cha mẹ, nên hắn động não nhanh chóng mà gượng cười trả lời một cách không hề hoang mang chút nào:
“Nãy anh tỉnh lại thì không ngủ được nữa, nghĩ là cứ lãng phí thời gian như vậy chi bằng đi rèn luyện thể dục cho khoẻ người, nên mới ra ngoài chạy vài vòng. Em xem, mồ hôi mồ kê nhễ nhại này.”
Hắn cởi áo khoác, chìa lưng ra rồi chỉ vào đó.
Melissa đứng lên, liếc qua với vẻ không để ý lắm, sau đó con bé châm chước vài giây rồi nói:
“Klein, kỳ thật anh không cần, không phải cảm thấy áp lực lớn làm gì. Anh chắc chắn có thể vượt qua bài phỏng vấn của đại học Tingen. Cho dù không được, ừm, ý em là nếu ấy, anh cũng có thể tìm được công việc càng tốt hơn.”
Anh còn chưa suy nghĩ tới chuyện phỏng vấn kìa... Klein gật đầu, nói:
“Anh biết rồi.”
Hắn không nói là mình đã nhận được một "offer", bởi vì hắn còn chưa cân nhắc kỹ xem là có nên đi hay không.
Melissa nhìn hắn một cái thật sâu rồi chợt quay người đi vào phòng trong, lấy ra một món đồ hình con rùa do bánh răng, sắt bị gỉ, lò xo với dây cót chắp vá thành.
Con bé vặn nhanh dây cót rồi đặt món đồ này lên bàn học.
Ken két, cộp cộp cộp, con "rùa" kia vừa nhảy vừa đi rất nhịp nhàng, làm cho người ta không tự chủ được mà dời sức chú ý sang nó.
“Lúc này cảm thấy phiền não thì nhìn nó cử động như vậy sẽ thoải mái hơn nhiều. Dạo này em thường xuyên làm vậy, hữu hiệu lắm! Klein, anh thử một lần xem.” Đôi mắt Melissa ngời sáng, cô bé mời.
Klein không khước từ ý tốt của cô em gái, hắn tới gần "con rùa", chờ nó ngừng lại rồi mới nói:
“Sự đơn giản và quy luật quả thật có thể mang đến sự thả lỏng.”
Không chờ Melissa nói, hắn chỉ vào "con rùa", tuỳ ý hỏi:
“Em tự làm à? Làm khi nào đấy? Sao anh không biết?”
“Em lấy những thứ mà trường học không cần với nhặt được dọc đường, hai hôm trước mới làm xong.” Vẻ mặt Melissa vẫn như thường, nhưng khoé miệng đã vểnh lên đôi chút.
“Giỏi quá.” Klein khen thật lòng. Là một tên nhóc có năng lực kém về máy móc, hồi bé hắn muốn lắp cái ô tô bốn bánh mà cũng chẳng ra làm sao.
Melissa khẽ nâng cằm lên, mắt cong cong, mà ngữ khí vẫn bình thản trả lời hắn:
“Tàm tạm, tàm tạm thôi.”
“Khiêm tốn quá là một phẩm chất xấu nhé.” Klein khẽ cười, hỏi: “Đây là con rùa à?”
Không khí trong phòng lập tức như tù đọng, tiếng của Melissa vang lên hệt như lụa mỏng đỏ rực:
“Nó là tượng người.”
Tượng người...
Klein cười xấu hổ, vẫn chống chế:
“Chắc là vấn đề về vật liệu, vẫn còn đơn sơ quá.”
Ngay sau đó hắn đổi sang đề tài khác:
“Sao nửa đêm em lại sang phòng tắm làm gì, trong kia có bồn cầu mà? Hơn nữa không phải lúc nào em cũng ngủ một giấc tới hừng đông à?”
Melissa giật mình, vài giây sau mới há mồm định giải thích, đúng lúc này, bụng con bé vang lên những tiếng ùng ục tiêu hoá đầy dữ dội.
“Em... Em đi ngủ tiếp đây!”
Rầm! Con bé bắt lấy "tượng người" hình rùa rồi chạy về phòng trong, khép cửa phòng lại.
... Bữa tối hôm qua ngon quá, ăn quá nhiều nên dạ dày không thích ứng mà... Klein lắc đầu, bật cười rồi chậm rãi đi tới trước bàn học. Hắn lặng lẽ ngồi lên ghế, theo mặt trăng đỏ rực chui ra khỏi lớp mây đen mà yên lặng suy xét lời mời của Dunn Smith.
Làm nhân viên văn chức của đội ngũ Kẻ Gác Đêm, chỗ xấu rất rõ ràng: Là một thành viên hội xuyên việt, "Kẻ Khờ" đã khởi xướng tụ hội thần bí, bản thân hắn có không ít bí mật, nếu thường xuyên lượn lờ ngay trước mắt đội ngũ chuyên xử lý những chuyện siêu phàm của giáo hội nữ thần Đêm Tối thì hơi bị liều.
Chỉ cần gia nhập đám người Dunn Smith thì mục tiêu của hắn chắc chắn sẽ là trở thành người phi phàm, dùng nó để che giấu những ích lợi lấy được từ trong "tụ hội". Mà làm thành viên chính thức sẽ bị hạn chế tự do, tựa như nhân viên văn chức mà rời Tingen thì đều phải trình báo, không phải là muốn đi đâu thì đi, muốn làm gì thì làm, sẽ bỏ qua rất nhiều cơ hội.
Kẻ Gác Đêm là một tổ chức nghiêm mật, một khi có nhiệm vụ là chỉ có thể chờ đợi an bài, nhận mệnh lệnh, không thể từ chối.
Người phi phàm có nguy hiểm là bị mất khống chế.
...
Sau khi liệt kê những cái hại ra trong đầu, Klein chuyển sang suy nghĩ tính tất yếu và lợi ích:
Nhìn những gì gặp được từ "nghi thức đổi vận", bản thân không phải là một trong 80% người may mắn mà Dunn Smith nói, sau này chắc chắn sẽ có những sự kiện kỳ dị bám lấy, rất nguy hiểm, chỉ có trở thành người phi phàm hoặc gia nhập Kẻ Gác Đêm thì mới có năng lực chống lại được.
Muốn trở thành người phi phàm thì chỉ dựa vào "tụ hội" là không được. Phương pháp điều chế ma dược không phải là vấn đề lớn, nhưng những vật liệu tương ứng thì tìm ở đâu, lấy như thế nào, điều chế ra làm sao, với những kiến thức thường thức về người phi phàm tu hành hàng ngày như nào, bản thân hắn có chướng ngại vật rất nghiêm trọng, không thể cái gì cũng hỏi "Chính Nghĩa" và "Người Treo Ngược". Nếu cái gì cũng tìm bọn họ để đổi thì không chỉ tổn hại hình tượng của "Kẻ Khờ", làm cho đối phương hoài nghi, mà lại chẳng có nhiều thời gian để trao đổi những vấn đề nhỏ nhặt đó. Đồng thời bản thân cũng không lấy được thứ gì mà bọn họ cảm thấy hứng thú.
Mặt khác, càng qua lại nhiều thì sẽ để lại dấu vết về thân phận ở hiện thực, đến lúc đó "tranh chấp tuyến trên" chuyển thành "xung đột tuyến dưới", thế thì sẽ rắc rối to.
Mà gia nhập "Kẻ Gác Đêm" tất nhiên là cách để tiếp xúc đến những tri thức thường thức về thế giới thần bí, tích luỹ đủ các mối quan hệ tương ứng, coi đây là điểm tựa thì mới có thể làm đòn bẩy nâng "tụ hội" lên, lấy được ích lợi lớn nhất từ "Chính Nghĩa" và "Người Treo Ngược", từ đó ngược lại tăng trạng thái hiện thực để có được nhiều tài nguyên hơn, thế là hình thành một vòng tuần hoàn lành tính.
Đương nhiên cũng có thể đi tìm và gia nhập tổ chức bị các giáo hội lớn áp chế và vây giết là "hội Tâm Lý Luyện Kim" mà Dunn nói đến. Nhưng nếu làm một thành viên của bọn họ thì cũng mất tự do, thậm chí lúc nào cũng lo lắng hãi hùng. Mà một vấn đề quan trọng hơn đó là mình chẳng biết nên đi đâu tìm bọn họ, cho dù có moi được tin tức tương ứng từ "Người Treo Ngược", cứ tuỳ tiện tiếp xúc thì sẽ nguy hiểm đến tính mạng.
Trở thành nhân viên văn chức còn có cơ hội giảm xóc và rời đi.
"Đại ẩn tại triều, trung ẩn tại thị, và tiểu ẩn tại lâm", có lẽ thân phận của Kẻ Gác Đêm sẽ là màu sắc tự vệ tốt nhất.
Đợi tương lai khi trở thành cấp cao trong toà trọng tài, ai có thể ngờ rằng mình là một kẻ dị đoan, là nhân vật boss của một tổ chức bí ẩn?
...
Ánh nắng ban mai chiếu sáng, màu đỏ rực đã biến mất. Nhìn mặt trời vàng óng ánh, Klein hạ quyết tâm. Hôm nay phải đi tìm Dunn Smith, trở thành nhân viên văn chức của Kẻ Gác Đêm!
“Anh không ngủ à?” Lúc này Melissa lại rời giường, đẩy cửa đi ra thì kinh ngạc phát hiện ông anh trai đang duỗi người trông chả có hình tượng tí nào.
“Anh nghĩ mấy chuyện.” Klein mỉm cười, toàn thân thoải mái.
Melissa trầm ngâm một lát:
“Nếu gặp phải chuyện khó quyết, em sẽ liệt kê các mặt tốt và xấu thành hai cột. Sau khi liệt kê xong, thì đối chiếu so sánh, sẽ gặp được ‘gợi ý’ nên làm thế nào.”
“Thói quen tốt, anh cũng làm như vậy.” Klein mỉm cười đáp lại.
Melissa giãn mặt mày, không nói gì thêm mà cầm một tờ giấy lớn ố vàng với đồ rửa mặt đi tới phòng tắm chung.
Chờ khi ăn sáng xong, cô em gái đi học rồi, Klein không vội vã ra ngoài mà đi ngủ bù với tâm tình thoải mái. Bởi vì theo hắn hiểu, gần như tất cả các quán rượu đều không mở cửa vào buổi sáng.
Hai giờ chiều, hắn dùng bàn chải và khăn tay vuốt phẳng các nếp nhăn ở mũ dạ, lau sạch vết bẩn, sau đó đóng bộ rồi đi ra ngoài hệt như đi phỏng vấn.
Phố Besik hơi xa, vì sợ bỏ lỡ "giờ làm việc" của Kẻ Gác Đêm nên hắn không đi bộ qua đó mà tới đầu đường phố phố Chữ Thập Sắt chờ xe ngựa công cộng.
Ở vương quốc Ruen, xe ngựa công cộng được chia ra làm hai loại, theo tuyến cố định và không cố định. Loại không cố định thì do hai con ngựa kéo xe, tính cả phần đỉnh của buồng xe thì đủ cho hai mươi người ngồi. Loại xe này chỉ có tuyến đường đại khái chứ không đặt trạm cụ thể, hoạt động rất linh hoạt, bảo ngừng là ngừng, trừ phi khách nhiều.
Loại xe theo tuyến cố định thì do các công ty vận hành, đầu tiên là đặt các thiết bị tương tự đường ray ở các con phố lớn cho ngựa đi bên trong, bánh xe chuyển động bên trên thiết bị đó, thoải mái mà không tốn nhiều mã lực, cho nên kéo được toa xe hai tầng, đủ cho gần năm mươi vị khách cùng ngồi. Vấn đề duy nhất là tuyến đường này cố định, trạm dừng cố định nên có nhiều chỗ không đi tới, khá là cứng nhắc.
Chừng mười phút đồng hồ sau, tiếng bánh xa lộc cộc trên đường ray từ xa tới gần. Một chiếc xe ngựa hai tầng dừng trước trạm chờ ở phố Chữ Thập Sắt.
“Đi phố Besik.” Klein nói với người lái xe.
“Anh phải tới phố Champagne rồi chuyển. Chẳng qua đến đó rồi thì chỉ cần mười phút là tới được phố Besik.” Lái xe giải thích tuyến đường.
“Vậy đi phố Champagne.” Klein gật đầu đồng ý.
“Quá 4 km, 4 penny.” Một thanh niên có khuôn mặt trắng trẻo ngồi cạnh lái xe chìa tay ra. Cậu ta là nhân viên phụ trách việc thu tiền.
“Đây.” Klein móc 4 penny ra từ trong túi quần rồi đưa cho đối phương.
Hắn đi lên xe ngựa, phát hiện hành khách không nhiều, cho dù là tầng dưới thì cũng còn mấy ghế trống.
Trên người chỉ còn 3 đồng penny, lúc về đành phải đi bộ vậy... Klein đè mũ xuống, ngồi vững vàng.
Các quý ông quý bà ngồi ở tầng xe này hầu hết đều mặc bộ vest và ngồi ngay ngắn, cũng có người mặc quần áo lao động và nhàn nhã đọc báo, nhưng hầu như là không ai nói chuyện, khá yên tĩnh.
Klein nhắm mắt nghỉ ngơi, mặc kệ hành khách đi qua đi lại bên người.
Xe ngựa đi qua trạm này rồi tới trạm khác, hắn rốt cuộc nghe được mấy từ "phố Champagne".
Hắn xuống xe ngựa, hỏi thăm bên đường, nhanh chóng đi tới phố Besik, nhìn thấy quán rượu có vẽ dấu hiệu chó săn màu nâu nhạt.
Klein giơ tay phải ra đẩy thật mạnh. Cánh cửa nặng nề từ từ mở ra, tiếng ồn ào và nhiệt độ cao cũng ùa ra theo.
Tuy mới chỉ buổi chiều nhưng đã có không ít khách tới quán rượu. Bọn họ có người là công nhân lâm thời, ngồi đây tìm cơ hội và chờ được thuê, có kẻ thì chả có việc gì, dùng cồn để ma tuý bản thân.
Quán rượu này khá tối, ở chính giữa có đặt hai lồng sắt lớn. Một phần ba lồng sắt ấy được đặt dưới mặt đất, không có khe hở nào. Mọi người cầm những chén rượu được làm ra từ gỗ đứng vây xung quanh, lúc thì ồn ào bàn tán, lúc thì cười mắng.
Klein tò mò nhìn thoáng qua, phát hiện họ nhốt hai con chó ở bên trong. Một con có bộ lông đen trắng, khá giống Husky ở Trái Đất, con khác thì toàn thân lông đen, bóng loáng, to lớn và hung hãn.
“Có muốn cược không? Khoảng thời gian này Douglas đã thắng liền tám trận rồi!” Một người đàn ông thấp bé đội chiếc mũ mềm màu nâu tới gần, chỉ vào con chó đen và bảo.
Cá cược? Klein đầu tiên là sửng sốt, sau đó chợt hiểu:
“Chọi chó à?”
Lúc còn ở đại học Hoy, cái đám con cháu nhà quý tộc và lắm tiền lúc nào cũng khinh miệt và tò mò hỏi mình rằng có phải đám công nhân thô bỉ với đám lưu manh không nghề nghiệp rất thích đấu quyền anh và đánh bạc trong quán rượu hay không? Trong đánh bạc, ngoài quyền anh, bài bạc ra thì có phải còn bao gồm cả những trò máu me như chọi gà chọi chó không?
Người đàn ông thấp bé kia chế nhạo:
“Này anh, chúng ta là người văn minh, ai lại làm cái chuyện mất mặt đó bao giờ.”
Nói tới đây, anh ta lầm bầm:
“Hơn nữa năm ngoái còn ra luật cấm chuyện này mà...”
“Vậy các người đang cược cái gì?” Klein tức thì thấy tò mò.
“Xem con nào là "thợ săn" tốt!” Người đàn ông thấp bé vừa nói xong, một trận ồn ào vang lên từ giữa sân. Anh ta quay đầu nhìn, hưng phấn khoát tay: “Trận này bắt đầu rồi, không thể đặt cược được nữa. Anh phải chờ trận sau thôi.”
Klein nghe vậy thì nhón mũi chân, ngẩng đầu lên mà nhìn. Hắn thấy hai người đàn ông to con mỗi người kéo một bao tải đi tới cạnh lồng sắt, mở "cửa lồng" ra rồi đổ những thứ trong bao vào trong lồng.
Đó là những con vật màu xám và đáng ghê tởm!
Klein nhìn thật kỹ thì phát hiện đó là chuột, hơn mấy trăm con chuột!
Bởi vì phần dưới lồng sắt nằm ở dưới đất, lại không có kẽ hở nên lũ chuột chạy tán loạn khắp nơi, nhưng không thể trốn thoát được.
Lúc này, khi cửa lồng được đóng lại, hai con chó cũng được thả ra.
“Gâu!”
Con chó đen xông tới, há mồm cắn chết một con chuột.
Con chó màu trắng đen kia đầu tiên là mặt ngơ ngác, sau đó hưng phấn chơi đùa cùng lũ chuột.
Những người xung quanh hoặc giơ chén rượu chăm chú xem, hoặc la hét:
“Cắn chết nó! Giết chết nó đi!”
“Douglas! Douglas!”
... Cờ mờ nó chó bắt chuột... Klein hiểu ra, khoé miệng giật giật.
Cá cược ở nơi này lại là cá xem con chó nào bắt được nhiều chuột hơn... Có lẽ là còn cá xem cụ thể bao nhiêu con... Thảo nào cứ thấy có người tới mua chuột sống ở chỗ phố Chữ Thập Sắt bên kia... Đúng là đặc sắc mà...
Klein lắc đầu, buồn cười lui ra, vòng qua đám khách nhậu đang chen chúc mà đi tới trước quầy bar.
“Mới à?” Người phục vụ quầy rượu vừa lau cốc vừa ngẩng đầu nhìn hắn: “Bia hắc mạch một ly 1 penny, bia Anmatt 2 penny, bia Nam Will 4 penny, hoặc là muốn một cốc bia Ranze ủ từ mạch nha tinh khiết?
“Tôi tìm ông Wright.” Klein nói thẳng.
Người phục vụ huýt sáo, hô lên với bên cạnh:
“Lão già, có người tìm lão này.”
“Hở, ai thế...” Một tiếng nói hàm hồ vang lên, một lão già say khướt đứng lên từ phía sau quầy bar. Lão dụi mắt, nhìn Klein và hỏi: “Ê nhóc, mày tìm tao à?”
“Ông Wright, tôi muốn thuê tiểu đội lính đánh thuê làm nhiệm vụ.” Klein đáp lại theo những gì Dunn dặn.
“Tiểu đội lính đánh thuê? Anh đang sống trong mấy cái truyện mạo hiểm đó hả? Đã không có mấy thứ này từ lâu rồi!” Người phục vụ xen mồm cười nói.
Wright im lặng vài giây rồi hỏi:
“Ai bảo cậu tới đây tìm?”
“Dunn, Dunn Smith.” Klein trả lời thành thực.
Wright lập tức cười ha ha:
“Tôi biết rồi. Kỳ thực... tiểu đội lính đánh thuê vẫn còn tồn tại, chỉ là đổi sang hình thức khác, lấy cái tên cho phù hợp với xã hội bây giờ hơn. Cậu tới tầng hai số nhà 36 phố Zoutelande là sẽ tìm được.”
“Cảm ơn ông.” Klein chân thành cảm ơn rồi quay người cố lách người ra khỏi quán bar.
Hắn vừa tới cửa, đám khách nhậu đang túm tụm lại một chỗ bỗng im lặng, chỉ còn những tiếng thì thào nho nhỏ:
“Douglas thế mà lại thua...”
“Thua rồi...”
Klein buồn cười lắc đầu, nhanh chóng rời đi. Hắn hỏi đường tới gần phố Zoutelande.
“30,32,35... Chỗ này.”
Hắn đếm biển số nhà rồi đi lên cầu thang.
Hắn vòng qua chỗ quẹo đi thẳng lên trên, nhìn thấy bảng hiệu dựng thẳng, thấy cái tên hiện tại của tiểu đội lính đánh thuê:
“Công ty Bảo an Gai Đen.”
Chương 17: Bộ phận hành động đặc biệt“Công ty Bảo an Gai Đen.” Nhìn bảng hiệu này, Klein sửng sốt một lúc lâu, vừa cảm thấy ngoài dự liệu nhưng lại hợp tình hợp lý.
Thật đúng là... Không biết nên chế nhạo như thế nào... Hắn lắc đầu bật cười, bước lên mười bậc nữa, giơ tay phải gõ nhẹ lên cánh cửa khép hờ.
Cốc! Cốc! Cốc!
Tiếng đập cửa thong thả mà có tiết tấu vang lên, bên trong lại chẳng có gì đáp lại, chỉ mang máng nghe được những tiếng "cộp cộp cộp" truyền ra.
Cốc! Cốc! Cốc!
Klein lại gõ cửa, kết quả vẫn như trước.
Hắn quyết định không gõ nữa mà đẩy cửa làm cửa mở rộng ra hơn, rồi nhìn với vào theo, thấy một bộ ghế sô pha cổ điển, ghế dựa có đệm mềm và bộ bàn trà gỗ không biết có phải là dành cho tiếp khách không. Hắn nhìn thấy ở một cái bàn ở phía đối diện, và một cô gái có mái tóc xù đang ngồi sau bàn, đầu cúi xuống, đang gật gà gật gù.
Tuy rằng cái bảng hiệu "Công ty Bảo an" này chỉ là vỏ bọc nguỵ trang, nhưng thế này có vẻ quá ư là "không chuyên nghiệp" rồi nhỉ? Như thế này là đã bao lâu không có khách tới? Được rồi, các người cũng chả cần có khách làm gì... Klein vừa oán thầm vừa tới gần, rồi gõ hai cái lên mặt bàn ở trước mặt cô gái.
Cộc! Cộc!
Cô gái tóc xù lập tức ngồi thẳng người, vơ lấy tờ báo đang mở ra trước mặt mà che mặt lại.
"Báo Người trung thực thành phố Tingen"... Tên hay đấy... Klein nhẩm tiêu đề của tờ báo đang quay về phía mình.
“Đoàn tàu hơi nước ‘Bay Lượn’ nối thẳng tới thành phố Conston được khai thông ngày hôm nay... Thật là, lúc này thì mới nối tới vịnh Dipsy chứ! Mình chán ngồi thuyền lắm rồi, quá khó chịu, rất ư là khó chịu... Ô, anh là ai?”
Cô gái tóc xù giả vờ đọc một lèo, phát biểu ý kiến, lảm nhảm này nọ, sau đó cô ta hạ tờ báo xuống để lộ vầng trán mịn màng và đôi mắt màu nâu nhạt, đầu tiên là nịnh hót, sau đó là kinh ngạc nhìn Klein.
“Xin chào, tôi là Klein Moretti, đến đây theo lời mời của anh Dunn Smith.” Klein gỡ mũ dạ xuống để ngang trước ngực, hơi cúi đầu.
Cô gái tóc xù kia trông tầm hai mươi tuổi, mặc một chiếc váy dài màu xanh nhạt mang phong cách Ruen nhẹ nhàng, có đính ren ở phần cổ tay, ve áo và trước ngực, khiến cô nàng trông càng xinh đẹp.
“Đội trưởng... Ok, anh ở đây chờ một chút, tôi đi hỏi anh ấy đã.” Cô gái cuống quít đứng dậy, đi vào phòng bên trong từ cánh cửa bên cạnh.
Chả thấy rót nước mời khách gì cả... Ý thức phục vụ đáng lo quá... Klein mỉm cười đứng chờ tại chỗ, không sang bên ghế sô pha với ghế dựa kia ngồi.
Hai ba phút sau, cô gái tóc xù đẩy cửa đi ra, cười ngọt ngào nói:
“Anh Moretti, phiền anh đi theo tôi. Hôm nay đội trưởng canh gác ‘Cửa Chianese’, không thể rời khỏi nơi đó.”
“Vâng.” Klein ôn hoà bước theo, lòng thì lẩm bẩm: Cửa Chianese là cái gì?
Đi vòng qua vách ngăn, thứ đập vào mắt hắn đầu tiên là một hành lang không dài, hai bên có mỗi bên ba phòng trông giống phòng làm việc. Những phòng làm việc ấy có đóng kín hoặc mở toang cửa, có thể thấy người bên trong đang dùng thứ máy đánh chữ nặng nề mà gõ lọc cọc không ngừng nghỉ.
Klein liếc mắt nhìn qua, thế mà phát hiện một người quen: Anh chàng sĩ quan cảnh sát trẻ tuổi, tóc đen mắt xanh, có cái khí chất lãng mạn của nhà thơ mà hôm đó tới điều tra nhà mình. Anh ta không mặc vest, áo sơ mi cũng chẳng thèm bỏ vào trong quần, trông rất là phóng túng không chịu theo khuôn phép.
Có lẽ anh ta thật sự là một nhà thơ cũng nên... Klein gật đầu chào hỏi, đối phương đáp lại bằng một nụ cười mỉm.
Cô gái tóc xù vặn tay nắm cửa ở phòng làm việc ở cuối cùng bên tay trái, đẩy cửa ra rồi chỉ vào bên trong, cười nói:
“Còn phải xuống mấy bậc thang nữa.”
Phòng làm việc này không có đồ vật gì cả, chỉ có một cầu thang làm bằng đá xám trắng kéo dài xuống dưới. Hai bên bức tường của cầu thang có đốt đèn khí gas có tạo hình thanh lịch, ánh sáng ổn định xua tan bóng tối, mang tới sự ôn hoà.
Cô gái tóc xù đi ở đằng trước, nhìn chằm chằm dưới chân, đi rất cẩn thận:
“Tuy là thường xuyên tới nơi này nhưng tôi vẫn cứ thấy sợ, cứ lo là mình sẽ té ngã rồi lăn quay xuống dưới. Anh không biết chứ Leonard từng làm cái chuyện ngu xuẩn như vậy rồi. Ngày đầu tiên khi anh ta trở thành ‘Kẻ Không Ngủ’, cái ngày đầu tiên mà chưa hoàn toàn nắm giữ được sức mạnh của bản thân ấy, anh ta đã định dùng tốc độ chạy nước rút mà lao xuống, sau đó thì lăn xuống như cái bánh xe. Ha ha, nghĩ tới chuyện đó là thấy buồn cười rồi. Ừm, chính là cái người vừa chào hỏi với anh đó. Đây là chuyện của hai, ba năm trước rồi. Nói ra thì tôi gia nhập Kẻ Gác Đêm đã được năm năm, khi đó tôi mới có mười bảy tuổi...”
Cô gái vừa nhìn đường vừa nói với vẻ khá quen thuộc. Bỗng nhiên cô ta vỗ trán, nói:
“Quên tự giới thiệu, tôi là Roxanne. Cha tôi là đội viên chính thức của Kẻ Gác Đêm. Năm năm trước ông ấy hy sinh trong một lần ngoài ý muốn. Sau này chúng ta sẽ là đồng nghiệp rồi, à, hẳn là dùng cái từ ‘đồng nghiệp’ này thôi... Không thể coi là đồng đội được, dù sao chúng ta không phải người phi phàm.”
“Hy vọng là có thể có được vinh hạnh này, nhưng cuối cùng phải xem anh Smith nói như nào đã.” Klein quan sát bốn phía xung quanh, chỉ cảm thấy như hai người bắt đầu đi vào lòng đất “bức tường đá toả ra ẩm ướt lạnh lẽo, xua tan cái nóng bức của mùa hè.
“Yên tâm, cho anh đến thẳng nơi này chứng tỏ đội trưởng đồng ý rồi. Tôi vẫn luôn khá sợ đội trưởng, tuy là anh ấy rất hoà ái, rất săn sóc, kiểu như cha tôi vậy, nhưng không biết tại sao vẫn cứ thấy sợ.” Roxanne nói, giọng cô nàng hệt như ngậm đường vậy.
Trong lúc nói chuyện, hai người đi đến cầu thang xoay tròn, tới một nơi đất bằng được lát đá.
Đây là một lối đi nhỏ rất dài, tường hai bên cũng được gắn những đèn khí gas bao lại bởi lớp lồng kim loại. Ánh sáng vẩy xuống khiến cái bóng của Klein và Roxanne kéo dài ra.
Klein sâu sắc nhận ra rằng cứ đi được một đoạn là có một "Thánh huy bóng tối" gắn trên tường, đó là biểu tượng dành cho nữ thần Đêm Tối - "Lấy đen sậm làm nền, lấy đốm sáng điểm xuyết quanh vừa vặn một nửa mặt trăng đỏ rực."
Những thánh huy ấy dường như không có bất cứ điểm gì đặc biệt, nhưng khi đi giữa chúng nó thì Klein cảm thấy tâm tình mình bình yên lại. Roxanne cũng ngậm miệng, không hề rảnh rỗi tán gẫu như nãy nữa.
Không lâu sau, một ngã tư xuất hiện ở phía trước. Cô gái tóc xù giới thiệu ngắn gọn:
“Đi bên trái là thông tới giáo đường St. Selina, bên phải là kho vũ khí, nguyên liệu và tài liệu lịch sử. Đi thẳng là tới cửa Chianese.”
Giáo đường St. Selina? Chẳng lẽ phố Zoutelande nằm ngay sau phố Trăng Đỏ? Klein nghe mà ngẩn ra.
Giáo đường St. Selina ở phố Trăng Đỏ là trụ sở chính của giáo hội nữ thần Đêm Tối ở thành phố Tingen này, là vùng đất thần thánh mà các tín đồ ngoan đạo ở thành phố này đều hướng tới. Nó cùng giáo đường Thánh Số của giáo hội thần Hơi Nước và Máy Móc ở khu ngoại ô, và cả giáo đường Sông Và Biển của giáo hội chúa tể Bão Táp ở khu phía bắc Tingen cùng chèo chống cả thành phố Tingen cùng các giáo giới ở các thôn trấn.
Tự cảm thấy với thân phận hiện tại thì không thích hợp cho hỏi nhiều, Klein chỉ im lặng nghe, không hề lên tiếng.
Qua ngã tư đi thẳng về phía trước, không đến một phút sau, một chiếc cửa sắt đen có khắc bảy hình thánh huy xuất hiện trước mắt hai người. Nó dựng thẳng nơi đó, trực quan mà làm cho người ta có cảm giác nặng nề, lạnh lẽo và bị nhìn xuống, tựa như một người khổng lồ đang canh giác trong bóng tối.
“Cửa Chianese.” Roxanne nói một câu, rồi chỉ vào căn phòng bên cạnh, nói: “Đội trưởng ở trong đó, anh tự vào đi nhé.”
“Vâng, làm phiền cô rồi.” Klein trả lời lễ phép.
Căn phòng mà Roxanne chỉ nằm ở ngay cạnh phía trước "cửa Chianese" một chút. Cửa mở rộng, có ánh đèn hắt ra ngoài. Klein hít vào một hơi thật sâu, vững vàng nắm tay lại.
Cốc! Cốc! Cốc!
“Vào đi.” Tiếng nói trầm và ấm áp của Dunn Smith truyền ra.
Klein khẽ đẩy cánh cửa khép hờ, thấy bên trong có một cái bàn và bốn cái ghế, Dunn Smith với đường chân tóc cao vẫn mặc chiếc áo gió màu đen hôm qua, đang nhàn nhã đọc báo. Cạnh cúc áo trước ngực có một chiếc đồng hồ dây xích đồng hồ màu vàng.
“Ngồi đi, đã suy nghĩ kỹ chưa? Xác định muốn gia nhập chúng tôi?” Dunn đặt tờ báo trong tay xuống, mỉm cười hỏi.
Klein bỏ mũ xuống, cúi người thi lễ, rồi ngồi xuống bên cạnh bàn, thong thả gật đầu nói:
“Đúng vậy, tôi đã xác định rồi.”
“Vậy cậu hãy xem phần khế ước này đi. Ha ha, bây giờ người ta thích gọi nó là hợp đồng.” Dunn kéo ngăn kéo bàn ra, lấy hai phần hợp đồng giống nhau ra.
Điều khoản trong hợp đồng không nhiều, đại khái đều là những gì mà Dunn Smith đã nói lúc trước. Trọng điểm nằm ở điều khoản giữ bí mật, kẻ nào vi phạm thì sẽ không thông qua toà án của vương quốc mà sẽ bị đưa thẳng tới toà án trọng tài của giáo hội nữ thần Đêm Tối để thẩm phán, giống như binh lính hay sĩ quan phải ra hầu toà án quân sự vậy.
Hợp đồng năm năm... Lương 2 bảng 10 Saule một tuần, 10 Saule trợ cấp giữ bí mật và nguy hiểm... Klein đọc từng dòng một, sau đó nghiêm trang trả lời:
“Tôi không có vấn đề.”
“Vậy ký đi.” Dunn chỉ vào chiếc bút máy màu đỏ sậm và mực nước trên bàn.
Klein dùng giấy lộn thử bút máy, sau đó thầm hít vào một hơi thật sâu, ký tên vào vị trí tương ứng ở hai bản hợp đồng: Klein Moretti.
Bởi vì còn chưa có con dấu nên hắn chỉ có thể điểm chỉ.
Dunn lấy hợp đồng lạ, lấy một con dấu ra từ trong ngắn kéo rồi đóng vào cuối hợp đồng và lên chỗ mấy điều quan trọng.
Làm xong, anh ta đứng lên, một tay đưa trả một bản hợp đồng, tay kia thì đưa về phía Klein:
“Chào mừng. Từ giờ trở đi cậu chính là một thành viên của chúng tôi. Chú ý, phải giữ bí mật cả về hợp đồng nữa.”
Klein vừa đứng lên theo vừa nhận lấy hợp đồng, vừa bắt tay đối phương, cười nói:
“Tôi nên gọi anh là đội trưởng à?”
“Đúng vậy.” Đôi mắt xám của Dunn trở nên sâu thẳm vô cùng trong ánh sáng mờ mờ.
Sau khi bắt tay, hai người lại ngồi xuống. Klein nhìn con dấu trên hợp đồng, phát hiện dòng chữ trên con dấu là "Tiểu đội Kẻ Gác Đêm thành phố Tingen quận Akhova vương quốc Ruen".
“Tôi thật không ngờ các anh lại dùng công ty Bảo an Gai Đen để che giấu.” Hắn thuận miệng cười nói.
“Thật ra chúng tôi còn biển hiệu khác nữa.”
Dunn lấy một trang giấy ra khỏi ngăn kéo. Trên tờ giấy đó có đóng hai con dấu của toà thị chính và sở cảnh sát, nội dung thì là một hàng chữ như thế này: Tiểu tổ thứ bảy bộ phận Hành động Đặc Biệt thuộc sở cảnh sát quận Akhova vương quốc Ruen.
“Bốn tổ đầu tiên là cảnh sát thường phụ trách bảo an, ví dụ như tổ Bảo vệ Người quan trọng, tổ Bảo vệ Khu vực quan trọng... Mà bắt đầu từ tổ 5 trở đi thì đối phó với các sự kiện siêu nhiên ở các thành phố trong quận. Tiểu tổ thứ bảy chúng ta phụ trách những sự kiện liên quan đến tín đồ của nữ thần ở thành phố Tingen. Nếu có kẻ với tín ngưỡng khác biệt thì sẽ phân chia theo khu vực. Khu vực chủ yếu của chúng ta là khu phía bắc, khu phía tây và khu Kim Ngô Đồng.”
Dunn giới thiệu sơ lược:
“Tiểu tổ thứ sáu chịu sự quản lý của đội ‘Kẻ Trừng Phạt’ của giáo hội chúa tể Bão Táp thì phụ trách bến cảng, khu phía đông và khu phía nam. Còn khu đại học và khu ngoại ô thì do tiểu tổ thứ năm, cũng chính là tiểu đội của ‘Trái Tim Máy Móc’ ở Tingen.”
“Vâng.” Klein không tìm thấy gì mà mình muốn hỏi, bèn cười nói: “Nếu thật sự có người tới vì công ty Bảo an Gai Đen để uỷ thác nhiệm vụ thì phải làm sao?”
“Nhận chứ, sao lại không nhận? Chỉ cần không ảnh hưởng công việc thường ngày là được.” Dunn trả lời với ngữ khí thong thả mà hài hước: “Kiếm được tiền coi như có thêm trợ cấp, các đội viên đều rất thích. Dù sao mấy cái việc lặt vặt tìm mèo tìm chó giờ đã có đám thám tử tư ôm đồm hết rồi.”
“Tiểu đội Kẻ Gác Đêm chúng ta có tất cả bao nhiêu người vậy?” Klein chuyển sang hỏi vấn đề này.
“Sự kiện siêu nhiên không nhiều, người phi phàm lại càng không nhiều, thành viên chính thức của đội Kẻ Gác Đêm ở cả thành phố Tingen này chỉ có sáu người, kể cả tôi. Ha ha, về nhân viên văn chức, tính cả cậu thì cũng có sáu người.” Dunn trả lời không nhanh không chậm.
Klein gật đầu, cuối cùng mới hỏi tới chuyện mà hắn quan tâm nhất:
“Đội trưởng, chuyện người phi phàm mất khống chế mà anh kể là như nào? Tại sao lại không khống chế được?”
Chương 18: Khởi nguồn và nguyên nhânNghe câu hỏi đó của Klein, Dunn nhìn hành lang đi thông với "cửa Chianese" qua cửa sổ, lấy tẩu thuốc của mình ra, nhét sợi thuốc lá và lá bạc hà vào rồi đặt tới chóp mũi, ngửi một cái thật sâu, giọng nói mơ hồ và đầy cảm khái:
“Chỉ khi ở nhà tôi mới có thể không kiêng kỵ gì mà hưởng thụ cái mùi hỗn hợp của thuốc lá và bạc hà đầy tuyệt vời này... Klein, cậu chắc là biết thần thoại sáng thế chứ?”
“Đương nhiên rồi. Lúc học vỡ lòng ở trường Chủ Nhật của giáo hội, tôi dựa theo ‘Dạ chi khải kỳ lục’ để học từ. Trong đó hai chương ‘Sách Trí Tuệ’ và ‘Sách Thánh Giả’ đều nhắc tới thần thoại sáng thế.” Klein vừa hồi tưởng từ những mảnh vỡ ký ức của nguyên chủ, vừa chậm rãi nói: “Tạo Hoá tỉnh lại từ trong hỗn độn, phá vỡ tối tăm mà tạo ra một luồng sáng đầu tiên. Bản thân thì hoàn toàn hoà vào vũ trụ, hoá thân làm vạn vật. Thân hình Thần trở thành mặt đất, trở thành ngôi sao. Một con mắt của Thần biến thành mặt trời, con mắt kia biến thành mặt trăng đỏ. Một phần máu của Thần chảy ra thành biển rộng và sông lớn, dưỡng dục sinh mệnh...”
Nói tới đây, Klein dừng lại, một nửa là do trí nhớ về phần sau đã mơ hồ, một nửa là do thần thoại sáng thế này có vẻ giống với Bàn Cổ khai thiên của dân tộc ăn tham... Chứng tỏ người dân ở những thế giới khác nhau luôn có trí tưởng tượng giống nhau về truyền thuyết thần thoại!
Thấy Klein gặp phải "vấn đề khó", Dunn cười, bổ sung giúp hắn:
“Phổi của Thần hoá thành tinh linh; trái tim Thần biến thành người khổng lồ; gan của Thần hoá thành người cây; đầu của Thần hoá thành rồng khổng lồ; thận của Thần biến thành rắn có cánh; tóc của Thần hoá thành chim bất tử; lỗ tai Thần hoá thành ma sói; miệng và răng nanh của Thần hoá thành dị chủng; chất lỏng còn lại trong cơ thể Thần biến thành quái vật biển, tinh hoa trong đó là Naga; dạ dày, đại tràng, ruột non và những bộ phận xấu xa trong thân thể Thần biến thành ác ma, ác linh và những thứ tà ác chưa biết. Tinh thần của Thần hoá thành Mặt Trời Vĩnh Hằng, chúa tể Bão Táp, thần Tri Thức và Trí Tuệ...”
“Từ trong trí tuệ của Thần đã đản sinh ra con người, đó là kỷ thứ nhất, kỷ nguyên Hỗn Độn.” Klein nói tiếp câu cuối, lòng vừa buồn cười vừa thấy vớ vẩn.
Là một nhà dân tộc học online, lần đầu tiên hắn nghe thấy thần thoại sáng thế mà "sắp xếp" kỹ càng tỉ mỉ như vậy, kỹ càng đến mức sắp xếp mỗi một chủng tộc nào được biến hoá ra từ bộ phận nào của Chúa Sáng Thế, đến những thứ nhỏ bé nhất mà bày ra.
Hệt như sắp xếp ngồi ăn quả...
Hơn nữa không chỉ kinh văn điển tịch của nữ thần Đêm Tối nói như vậy, các giáo hội chúa tể Bão Táp, thần thần Hơi Nước và Máy Móc cũng có những dòng miêu tả tương tự, không cái nào dám đề cao bản thân và hạ thấp thần linh còn lại...
Điều này chứng tỏ thần thoại sáng thế chính là sự thật, hoặc để lộ thấp thoáng những đấu tranh và thoả hiệp rồi cuối cùng đã nhất trí với nhau giữa các giáo hội lớn ở thời tiền sử, phía trước kỷ thứ năm...
Nghĩ tới những điều này, Klein lại có nghi vấn khác, hắn nhíu mày, hỏi:
“Tôi cảm thấy có vài vấn đề. Vì sao Mặt Trời Vĩnh Hằng, chúa tể Bão Táp, thần Tri Thức và Trí Tuệ được trực tiếp sinh ra từ trong tinh thần của Chúa Sáng Thế, mà nữ thần thì không?”
Trong phần ghi chép về thời tiền sử của "Dạ Chi Khải Kỳ Lục", mãi đến cuối kỷ thứ hai nữ thần Đêm Tối mới thức tỉnh, cùng các vị thần linh chúa tể Bão Táp, Mặt Trời Vĩnh Hằng phù hộ và trợ giúp con người vượt qua đại tai biến, cũng chính là tên gọi của kỷ thứ ba, "kỷ nguyên Tai Biến".
Mẫu thần Đất Đai và thần Chiến Tranh cũng lên xuất hiện ở cùng thời kỳ. Thần Hơi Nước và Máy Móc, mà tên cũ là thần Công Tượng thì phải tới kỷ thứ tư mới được sinh ra.
Bởi vậy, địa vị các vị thần cao thấp như nào, dường như không cần nói cũng biết. Ai cổ xưa hơn ai chính thống hơn là vô cùng rõ ràng! Điều này cũng tạo thành những bối rối nhất định trong tín đồ nữ thần Đêm Tối.
Dunn Smith dùng tay kia giơ tẩu lên, không đáp mà hỏi ngược lại:
“Cậu thuật lại tôn danh đầy đủ của nữ thần đi.”
Klein lập tức có cái cảm giác vừa tự mình thọc cho mình một nhát, bèn vội vã vắt óc, nỗ lực hồi tưởng:
“Thần là nữ thần Đêm Tối cao quý hơn cả sao trời, xa xưa hơn cả vĩnh hằng, cũng là chúa tể đỏ rực, mẹ của bí ẩn, nữ hoàng của tai ách và sợ hãi, lãnh chúa của giấc ngủ ngon và yên tĩnh.”
May, may là mẹ Klein là tín đồ ngoan đạo của nữ thần Đêm Tối. Khi bà còn tại thế, mỗi bữa tối nào cũng phải đọc một lần, cho dù trí nhớ của nguyên chủ vỡ thành mảnh nhỏ thì cũng không mất đi toàn bộ.
“Chúa tể đỏ rực tượng trưng cho cái gì?” Dunn hỏi dẫn dắt.
“Mặt trăng đỏ.” Klein vừa nói vừa mang máng hiểu ra.
“Vậy mặt trăng đỏ được biến thành từ bộ phận nào của Chúa Sáng Thế?” Dunn mỉm cười hỏi tiếp.
“Một con mắt!” Klein nhìn đối phương, cả hai cùng cười.
Về địa vị thì không hề kém chúa tể Bão Táp được hình thành khi tinh thần của Chúa Sáng Thế chia làm ba!
Về phần giáo hội của nữ thần Đất Mẹ và thần Chiến Tranh hẳn cũng có cách nói tương tự. Chỉ có thần Hơi Nước và Máy Móc là "sinh ra" thật sự quá muộn, không tìm thấy lý do. Hơn một nghìn năm trước giáo hội bọn họ luôn ở vào thế yếu, mãi tới khi máy hơi nước được phát minh, chiếm trước nên mới chính thức cùng tồn tại với những vị thần khác.
Dunn vuốt ve tẩu thuốc:
“Con người được sinh ra từ trong trí tuệ của Chúa Sáng Thế, cho nên có được bộ não thông minh mà phi phàm, lại thiếu các năng lực thần kỳ khác. Nhưng từ thần thoại sáng thế thì chúng ta có thể kết luận một cách dễ hiểu và chính xác rằng mọi vật đều được sinh ra từ cùng một cội nguồn.”
“Sinh ra từ cùng một cội nguồn...” Klein lặp lại mấy từ cuối.
“Căn cứ vào kết luận này, dưới sự phù hộ của thần linh, trong lúc đối kháng người khổng lồ, ác ma, dị chủng... con người dần tìm kiếm ra biện pháp có được năng lực siêu phàm, đó chính là dùng ác linh, dùng rồng khổng lồ, dùng quái vật, dùng cây cối hoa cỏ thần kỳ, hoặc những bộ phận kết tinh tương ứng rồi phối hợp với các vật liệu khác điều chế thành ma dược, sau đó hấp thu để nắm giữ những năng lực khác biệt. Đó là tri thức thường thức chung của tất cả các hệ học phái thần bí.”
Dunn không kể rõ, chỉ giới thiệu sơ qua:
“Trong quá trình này, tổ tiên của chúng ta đã dựa vào một bài học thảm thiết mà phát hiện ra rằng nếu trực tiếp dùng ma dược có phẩm cấp cao, vượt xa người thường thì sẽ rất dễ nhận lấy kết cục bi kịch, hậu quả chỉ có ba khả năng.”
“Ba khả năng gì?” Klein tò mò hỏi.
“Thứ nhất là chết tinh thần, thân thể sụp đổ, mỗi một miếng thịt và máu đều biến thành quái vật đáng sợ. Thứ hai là bị thứ sức mạnh trong ma dược biến đổi nhân cách, trở nên lạnh lùng, mẫn cảm, dễ cáu giận, tàn nhẫn, coi thường tất cả. Còn về thứ ba...”
Dunn đặt tẩu thuốc xuống, cầm chiếc cốc sứ bên cạnh đưa lên nhấp một ngụm:
“Cà phê Fermer của thung lũng sông Paz rất đắng nhưng cũng rất thơm, dư vị rất tuyệt, muốn uống một cốc không?”
“Tôi thích cà phê cao nguyên Finebot hơn. Đương nhiên tôi mới chỉ được uống vài lần ở nhà Welch.” Klein lễ phép từ chối: “Thứ ba là gì?”
“Tinh thần thất thường, phát cuồng ngay tại chỗ, còn ác ma hơn cả ác ma, đây chính là mất khống chế.” Dunn nhấn mấy chữ "mất khống chế" mạnh hơn hẳn.
Không đợi Klein mở miệng, anh ta đặt cốc cà phê xuống, tiếp tục nói:
“Trải qua những thí nghiệm dài đằng đẵng và mò mẫm, lại thêm ‘Phiến đá Khinh nhờn’ xuất hiện, con người rốt cuộc đã hoàn thiện được hệ thống ma dược, hình thành những cấp bậc tăng lên từng cấp một, ổn định sợi xích danh sách tăng trưởng. Con số của danh sách càng thấp, phẩm cấp của ma dược càng cao. Cho tới hôm nay, bảy giáo hội đều tự có ít nhất một danh sách hoàn chỉnh. Mặt khác còn cả những ‘đường tắt’ không được đầy đủ mà đã sưu tập từ mấy trăm, mấy nghìn năm nay.”
“Phiến đá Khinh nhờn?”
Klein sâu sắc bắt giữ được cụm từ này. Ở trong "tụ hội", "Người Treo Ngược" cũng nhắc đến nó!
Dựa theo những gì "Người Treo Ngược" nói thì Phiến đá Khinh nhờn là nhân tố mấu chốt của việc hình thành và hoàn chỉnh hệ thống ma dược! Có vẻ không giống những gì Dunn nói mấy.
“Đây là thứ mà một vài tà thần làm ra, cụ thể xuất hiện ở niên đại nào, ghi lại cái gì, có đặc thù gì thì tôi cũng không rõ lắm. Nếu cậu phát hiện được manh mối nào thì bắt buộc phải báo cáo lại cho tôi. Nó có cấp bậc hưởng ứng tối cao.” Dunn giải thích hàm hồ: “Vừa rồi có nhắc tới một loại không khống chế được, giờ tôi sẽ kể về bốn loại còn lại.”
“Ừm.” Klein quẳng vấn đề "Phiến đá Khinh nhờn" ra sau đầu, chăm chú lắng nghe.
“Loài người tuy chỉ có đầu óc thông minh, không có năng lực phi phàm nào khác, nhưng đây không phải tuyệt đối. Luôn có một số người may mắn, hoặc có thể nói là bất hạnh, từ lúc sinh ra đã có được linh cảm tương đối cao, ừm, chính là năng lực cảm ứng với linh ấy. Bọn họ có thể nghe được những âm thanh mà người khác không nghe được, thấy được những thứ mà người khác không thấy được, có được một phần đặc điểm phi phàm.”
Lúc nói, Dunn nhìn khoảng không xung quanh, khiến Klein cảm thấy sởn tóc gáy:
“Nói một cách khác chính là bọn họ tương đương với nửa người phi phàm ở danh sách 9, có được đặc tính cố định. À, danh sách 9 là phẩm cấp thấp nhất trong ‘sợi xích’... Tóm lại, bọn họ chỉ có thể lựa chọn danh sách đường tắt tương ứng và cố định. Nếu bọn họ uống ma dược khác, nhẹ thì tinh thần dị thường, nặng thì mất khống chế, còn nghiêm trọng hơn nữa là chết.”
“Đã hiểu.” Klein chậm rãi gật đầu.
“Loại mất khống chế thứ ba tương tự với loại thứ hai, một khi cậu đã chọn sợi xích danh sách nào thì chỉ có thể đi dọc theo ‘đường tắt’ đó, và không thể nào đổi ý được. Nếu uống ma dược của một danh sách phù hợp, của ‘đường tắt’ khác, mặc dù có xác suất cao là đạt được năng lực hỗn hợp, kỳ dị, méo mó, nhưng gần như có thể khẳng định là sẽ nằm trong trạng thái nửa điên, hoặc mẫn cảm nóng nảy, hoặc tàn nhẫn khát máu, hoặc trầm cảm u buồn.
Mà cơ hội như vậy chỉ có một lần, sau này mặc kệ là uống ma dược ‘đường tắt’ ban đầu hay là ma dược của danh sách hiện tại thì đều chỉ nhận được kết quả là mất khống chế, đó là tinh thần chết đi, thân thể suy sụp thành quái vật, hoặc là biến thành ác linh.”
Nói xong, Dunn lại nhấc cốc cà phê lên nhấp một ngụm.
Klein nghe mà sợ hãi, im lặng vài giây rồi hỏi tiếp:
“Còn loại không khống chế được thứ tư thì sao?”
“Loại thứ tư, ha ha, đây mới là vấn đề thường gặp nhất. Chúng ta uống ma dược, nhận được năng lực vốn thuộc về chủng loại siêu phàm, thuộc loại diễn biến không theo tự nhiên, nên không nhiều thì ít phải chịu ảnh hưởng tinh thần còn sót lại. Có lẽ bệnh trạng không biểu hiện ra ngoài nên người ngoài không thể phát hiện, nhưng chắc chắn là tiềm ẩn trong nội tâm. Trước khi hoàn toàn nắm giữ được năng lực phi phàm mà ma dược mang đến, bài trừ những dấu vết nhỏ bé kia, mà tuỳ tiện ăn ma dược đối ứng ở danh sách cao hơn thì sẽ tích luỹ điên cuồng, tích luỹ mất khống chế...” Dunn đột nhiên im bặt.
Tạm dừng một lát, anh ta mới cảm thán:
“Kẻ Gác Đêm chúng ta có quy định, cho dù đội viên có lập được nhiều công lao lớn thế nào thì cũng bắt buộc phải ăn phần ma dược được ba năm và trải qua kiểm tra tương ứng rồi thì mới có thể được thăng cấp. Nhưng tuy vậy, hàng năm vẫn có không ít người vì vậy mà mất khống chế.”
Thật là đáng sợ... Klein hít vào một hơi, hỏi tiếp:
“Vậy còn loại cuối cùng?”
Dunn nhếch khoé miệng, nhưng không thấy ý cười đâu cả:
“Loại thứ năm cũng là nguyên nhân mất khống chế thường thấy. Đối với người phi phàm mà nói, linh cảm có thể tăng lên không nhiều thì ít, con số của danh sách càng nhỏ thì tăng càng cao, vì vậy có thể nghe thấy những âm thanh mà người khác không thể nghe thấy, nhìn thấy những thứ kẻ khác không thể nhìn thấy, gặp được chuyện mà người khác không gặp được. Bọn họ lúc nào cũng đều bị cám dỗ thần bí và đầu độc hư huyễn, một khi bị thứ gì khác kích thích, hoặc xuất hiện dục vọng tham lam thì sẽ từng bước một đi tới bờ vực mất khống chế.”
Nói xong, Dunn chuyển qua nhìn thẳng, con ngươi màu xám ánh ra bóng dáng Klein. Ngữ khí anh ta trở nên tiêu điều:
“Người sáng lập ra hệ thống Kẻ Gác Đêm hiện đại, Tổng giám mục Chianese từng nói rằng: ‘Chúng ta là người bảo vệ, đồng thời cũng là những kẻ đáng thương lúc nào cũng phải chống cự với hiểm nguy và điên cuồng. ’”