Sát Phá Lang - Priest

Chương 70

Cố Quân nhíu mày cẩn thận nhớ lại chốc lát: “Quen tai, từng nghe nói qua… hình như là một thần gì đó phương Bắc?”

“Là đứng đầu trong tứ đại tà thần mười tám bộ lạc thờ cúng.” Trần Khinh Nhứ nói nhỏ, “Truyền thuyết nói rằng ông ta có bốn chân bốn tay hai đầu hai tim, ty quản nạn bão và nạn đói, Ô Nhĩ Cốt trời sinh tính tham lam, khi giáng xuống thiên địa biến sắc, hết thảy sinh linh đều sẽ bị ăn thịt, là một vị thần đáng sợ nhất ở vùng Bắc man.”

Cố Quân “À” một tiếng, có phần không hiểu lắm.

“Ta xâm nhập thảo nguyên nửa năm, song đến nay đối với vu độc thuật của mười tám bộ lạc cũng chỉ có thể nói là biết chút chút, sự tinh thâm và nguyên viễn của nó ngoại tộc chúng ta không thể nào tưởng tượng được – rất nhiều vu độc thuật có liên quan với truyền thuyết tà thần cổ quái của họ, ác độc nhất chính là ‘Ô Nhĩ Cốt’.” Trần Khinh Nhứ dừng một chút, “‘Bốn chân bốn tay hai đầu hai tim’, nhìn từ trên mặt chữ, Hầu gia cảm thấy giống cái gì?”

Cố Quân chần chừ nói: “Nghe như dán hai người vào nhau vậy.”

Trần Khinh Nhứ: “Không sai, tà thần Ô Nhĩ Cốt vừa sinh ra đã ăn thịt huynh đệ mình, từ đây đạt được thần lực gấp đôi. Trong mười tám bộ lạc có một loại vu thuật xa xưa, đem hai huynh đệ huyết mạch tương liên mới đẻ chưa bao lâu hợp làm một, quái… nhân bồi dưỡng ra, có thể đạt được sức mạnh của tà thần, cũng gọi là ‘Ô Nhĩ Cốt’.”

Cố Quân nghe thế trầm mặc một lúc, ấn nhẹ sườn mình, mặc dù có thép tấm bảo vệ, nhưng không biết vì sao, y vẫn cảm thấy bên dưới sườn đau như bị kim châm vậy.

Trần Khinh Nhứ vội nói: “Hầu gia, thương thế của ngài…”

“Không sao,” Cố Quân khoát tay, y hơi liếm môi, ngữ điệu chậm lại hỏi, “Trần cô nương, ta có chút không rõ, ‘đem hai người hợp làm một’ là thế nào?”

Trần Khinh Nhứ hơi do dự.

“Không sao đâu,” Cố Quân nói, “Cô cứ nói đi.”

“Ta cũng nghe đồn đại thôi, chỉ sợ không hề chuẩn xác,” Trần Khinh Nhứ hạ giọng nói, “Chính là đem một đôi trẻ nhỏ trong vòng một tuổi bỏ vào một nơi bịt kín, ánh sáng, nước, thức ăn… nhất loạt không cho, một đứa sẽ chết ngộp trước, lấy đứa chết ra, dùng bí pháp luyện chế.”

Cố Quân chớp mắt còn tưởng rằng dược hiệu trên người đã hết, tai lại không dùng được, khó khăn hỏi: “… Cái gì?”

“Luyện chế.” Trần Khinh Nhứ cân nhắc một chút, “Sau đó phối hợp với bí dược của vu nữ man tộc làm dẫn, cho huynh đệ sống sót ăn dần từng chút một.”

Cố Quân thất thanh nói: “Đứa trẻ đó còn có thể sống được sao?”

“Đại soái quá coi thường vu độc chi thuật ngàn năm của mười tám bộ rồi,” Trần Khinh Nhứ thở dài nói, “Trong vu độc thuật đã thất truyền, ngay cả ghi chép về việc chế người chết thành hoạt cương chạy được động được còn có, huống chi là dùng người sống luyện khí. Họ cho rằng người… hay gọi là ‘Ô Nhĩ Cốt’ luyện chế như vậy, từ nhỏ hoặc khỏe vô cùng, hoặc trí tuệ khác hẳn người thường, đều là vì ‘y’ kỳ thực là hai người, bốn chân hai đầu, có thể mời đến tà thần chi lực.”

Cố Quân do dự nói: “Thứ cho ta cô lậu quả văn, đối với… thứ kiểu này không có kiến giải gì, Trần cô nương, ta cảm thấy nghe như chuyện vô căn cứ lưu truyền trong ngu dân chưa khai hóa ấy.”

Trần Khinh Nhứ nói: “Dùng kiến văn cố hữu của chúng ta để lý giải, Hầu gia có thể coi Ô Nhĩ Cốt là một loại kịch độc phá hoại thần trí, có một số kẻ điên so với người bình thường quả thật khỏe vô cùng, góc độ suy nghĩ cũng luôn bất đồng với người ta, lúc chưa hoàn toàn mất đi thần trí, có vẻ trí tuệ dị thường cũng không hề lạ.”

Cố Quân: “… Còn có việc không thể dùng kiến văn cố hữu của chúng ta để lý giải.”

Trần Khinh Nhứ nói: “Đại soái, không giấu gì ngài, ta lẻn vào mười tám bộ lạc dò la vu độc chi thuật, không chỉ là vì tai và mắt ngài, cũng là để truy nguyên Ô Nhĩ Cốt, nhưng ghi chép liên quan của người man cực kỳ ít, chỉ có một lời đồn về một đại tướng man tộc cổ đại, tên là ‘Ô Nhĩ Cốt’, người này tàn nhẫn hiếu sát, nhưng bách chiến bách thắng, một tay tạo nên cục diện mười tám bộ lạc thống nhất hiện giờ, sống ba mươi hai tuổi, cả đời không kết hôn, nguyên nhân là ‘phi sinh phi tử, phi nam phi nữ’.”

Cố Quân nghe mà nổi da gà.

Trần Khinh Nhứ: “Ta từng tra sinh tuất và xuất thân của người này, được biết mẹ ông ta sinh một đôi long phượng thai, nhưng sau đó không có bất cứ ghi chép gì về nữ hài, cũng không nói đã chết rồi… Việc này có hai cách giải thích, hoặc là sau khi gia tộc suy tàn nữ hài đi lạc, hoặc là…”

Đôi long phượng thai này bị luyện thành Ô Nhĩ Cốt, người đã chết và kẻ còn sống hợp làm một, nam và nữ sống cùng, đây là “phi sinh phi tử, phi nam phi nữ”.

Cố Quân nắm chặt bàn tay đang ấn xương sườn, Trần Khinh Nhứ căng thẳng hỏi: “Hầu gia, có phải tấm thép bị lỏng hay không?”

Cố Quân khom lưng, một lúc lâu mới hít sâu, thấp giọng nói: “Vì sao lại có người làm việc thế này?”

Trần Khinh Nhứ đỡ y sang bên kia ngồi xuống: “Bình thường là nước mất nhà tan, toàn gia khó bảo vệ mới ra tay tàn nhẫn vậy, dùng huyết mạch làm tế, cúng tà thần báo thù, khi tất cả người tên Ô Nhĩ Cốt xuất thế, đều dẫn đến bấp bênh tinh phong huyết vũ.”

Cố Quân: “Cô mới nói nó giống một loại kịch độc tổn thương thần trí, phần này hãy nói rõ xem nào.”

Trần Khinh Nhứ nói: “Ô Nhĩ Cốt sẽ điên, mới đầu là ác mộng quấn thân, dần dà trở nên mẫn cảm đa nghi, nếu không khống chế, còn từ từ sinh ra ảo giác, cuối cùng…”

“Cho nên…” Cố Quân mới nói hai chữ, giọng liền khản đặc, y không thể không hắng giọng thật mạnh, mới có thể tiếp tục câu này, “Cho nên cô kê an thần tán cho y.”

Trần Khinh Nhứ: “…”

Nàng đương nhiên biết Cố Quân đang nói đến ai, không thể trả lời, đành mặc nhận.

Cố Quân hơi nhắm mắt – nhớ ra, kỳ thực Trường Canh không chỉ một lần thờ ơ nhắc tới, can hỏa mạnh dễ ngủ không ngon, song y căn bản không để tâm, chỉ cho là đứa trẻ này đi theo người của Trần gia học y đến trúng ma chướng, từ sáng đến tối biến mình thành tiểu lão đầu mở miệng là dưỡng sinh, nhưng thì ra… có nhiều nỗi khổ tâm như vậy.

Cố Quân: “Trường Canh đến mức độ nào rồi?”

Trần Khinh Nhứ nhất thời không lên tiếng.

Cố Quân: “Cô nói đi, bất kể thế nào ta đều chấp nhận được, chỉ cần ta còn sống một ngày, y điên hay ngốc ta đều quản đến cùng.”

Trần Khinh Nhứ nói: “Điện hạ… điện hạ ý chí kiên định, tâm cảnh bình hòa, nhiều năm qua Ô Nhĩ Cốt trên người chưa hề phát tác, chính y cũng nắm rõ, so với người bình thường còn khắc chế hơn vài phần, chỉ là một thời gian trước… ừm… ta đã dùng châm áp chế, Hầu gia không cần lo lắng.”

Tuy nàng úp mở, nhưng Cố Quân lại nghe ra – vẫn luôn là tâm cảnh bình hòa, không hề phát tác, ngoại trừ thời gian trước.

“Là vì ta.” Y ngỡ ngàng nghĩ, gần như xác chết vùng dậy mà đứng lên, nhất thời hơi lảo đảo, sắc mặt như vừa bị đâm một nhát đao.

Sau đó y né tay Trần Khinh Nhứ muốn đỡ mình, thất hồn lạc phách mà đi, tấm thép nẹp cứng ngắc làm y trông như thiết khôi lỗi sắp đốt cạn tử lưu kim.

Trần Khinh Nhứ dừng chân tại chỗ giây lát, trên khuôn mặt trắng nõn là vẻ nặng nề vô cùng, nàng không tự chủ được nhìn lại phương hướng kinh thành – chim gỗ mấy hôm trước thả hẳn đã đến kinh, chỉ là… quyết định nàng viết trong thư thật sự là đúng sao?

Trời kinh thành âm u, khi chim gỗ bay qua, bóng dáng nho nhỏ hoàn toàn tan vào mây đen trĩu xuống, cơ hồ là ẩn hình.

Trương Phụng Hàm chui ra khỏi một chiếc xe ngựa, chắp tay cảm tạ người trong xe: “Làm phiền Vương gia bớt thời giờ đưa lão hủ đến đây.”

Trường Canh vén màn xe, cười nói: “Ta cả ngày ở Sở quân cơ, cũng nên về hầu phủ lấy ít quần áo tắm rửa, tiện đường thôi, Phụng Hàm công không cần khách khí – mà Linh Xu viện không chuẩn bị xe ngựa cho ngài sao?”

Trương Phụng Hàm không để ý lắm: “Đều lấy đi cho người dưới dùng chạy qua chạy lại rồi, ta không xuất kinh, nắm xương già cũng nên hoạt động một chút, hiện tại khắp nơi đều đang đánh giặc, triều đình chỗ nào cũng dùng tiền, chúng ta bớt được bao nhiêu hay bấy nhiêu, không thể ngăn cơn sóng dữ, còn không thể dốc chút lực bạc sao?”

Trường Canh cười nói: “Đúng là như vậy, hậu sinh thụ giáo.”

Trương Phụng Hàm vội nói “Không dám” rồi đi, nhưng Trường Canh gọi giật lại: “Phụng Hàm công dừng bước.”

Đoạn y lấy ra bản tấu dõng dạc yêu cầu Hoàng thượng bỏ lệnh cấm tử lưu kim trong dân gian, hai tay đưa tới nói: “Phụng Hàm công thứ tội, bản tấu này ta tự tiện chặn lại, không trình lên trên – ở đây không có người ngoài, ta nói một câu mong ngài đừng giận, tử lưu kim dân gian xưa nay là vảy ngược của Hoàng thượng, bắt đầu từ thời Vũ đế vẫn chưa một ngày nới lỏng, đặt mình vào hoàn cảnh người khác, tử lưu kim đối với Hoàng thượng không khác gì ngọc tỷ truyền quốc, nếu ngài là Hoàng thượng, có thể cho phép dân gian tự lấy củ cải khắc ngọc tỷ bán chơi không?”

Trương Phụng Hàm biết bản tấu của mình trình lên chỉ sợ chẳng có tác dụng gì, không phải bị Sở quân cơ trả về thì là lại chọc giận Hoàng đế Long An, nhưng ông khá có khí phách văn nhân, luôn cảm thấy “dù ngươi thích nghe hay không, điều nên nói ta vẫn phải nói”, ai ngờ Nhạn vương điện hạ lại đích thân hạ mình tìm ông phân thuyết, còn chân thành như vậy.

Sự chân thành này làm Trương Phụng Hàm hơi đỏ mặt, thở dài nói: “Điện hạ… Ôi, điện hạ nói có lý, nhất thời già cả hồ đồ, gây thêm phiền toái cho điện hạ rồi.”

“Ta biết tấm lòng vì nước vì dân của Phụng Hàm công, là một trụ cột của Linh Xu viện, mấy năm nay Đại Lương cuộc sống không tốt lắm, cương giáp chiến bị toàn phải nhờ một tay ngài lo liệu,” Trường Canh xua tay, “Chúng ta bảo vệ ngài còn không kịp, nào có phiền toái gì để nói?”

Trương Phụng Hàm hơi bối rối, thế nhưng Nhạn vương thần sắc chân thành tột cùng, ngữ khí cũng không gây khó chịu, nhất thời không biết phải ứng đối thế nào, chỉ luôn miệng nói “hổ thẹn”.

“Cát Thần huynh đệ từ thời để chỏm của ta từ khi vào Linh Xu viện, cả ngày lải nhải bên tai ta Phụng Hàm công thế nào ra sao,” Trường Canh trêu, “Chỉ hận không thể ngay cả việc ngài mê uống Hầu Khôi, thích ăn củ cải muối cũng học theo, ta thấy hắn chỉ thiếu mua tóc bạc mà đội lên thôi.” (Hầu Khôi là một loại trà truyền thống của người Hán)

Lần này thì Trương Phụng Hàm thực sự đỏ bừng mặt, hận không thể gọi tiểu đồ đệ Cát Thần mới nhận tới tát cho một phát, chuyện lắt nhắt gì cũng đi bép xép với Nhạn vương.

“Ta và Cát Thần từ nhỏ cùng lớn lên ở Nhạn Hồi thành, hồi nhỏ gặp người man xâm lấn, nhà hắn cũng không còn ai, ngần ấy năm qua vẫn đi theo ta…” Trường Canh dừng lại, hơi khó xử nhìn Trương Phụng Hàm, “Ta không nói nhăng nói cuội nữa, nói thẳng đi vậy, có một yêu cầu quá đáng Cát Thần muốn nhờ ta nói với Phụng Hàm công, hắn vẫn quý nhân phẩm Phụng Hàm công, muốn nhận ngài… ừm, làm trưởng bối, không cầu gì khác, chỉ mong tương lai có thể thường phụng dưỡng, coi như là thành toàn một tâm nguyện của hắn, ngài cảm thấy thế nào?”

Trương Phụng Hàm nhất thời hô hấp cũng dồn dập hẳn.

Cát Thần sau khi theo Thẩm Dịch nhập kinh, liền ở lại kinh thành vào Linh Xu viện, hắn vừa chăm chỉ vừa lanh lợi, còn rất có thiên phú, đặc biệt hợp với Trương Phụng Hàm, mới mấy hôm đã được lão đầu kia nhận làm đệ tử thân truyền.

Nhưng ông cũng tự mình biết mình, Trương Phụng Hàm ông đời này thanh liêm, không quyền không thế, từ sáng đến tối chẳng được ai chào đón, có thể mang đến lợi ích gì cho người ta? Có thể che chở ai sao? Cho dù tuổi già dưới gối vắng tanh, ngoại trừ mấy con chó già trong nhà, còn ai chịu để ý đến?

Trường Canh liếc trộm thần sắc ông: “Ôi, ta sớm nói với hắn rồi, Phụng Hàm công thích nhất là thanh tịnh, không ưa loại ồn ào như hắn, ngài không cần khó xử, lát ta sẽ thay ngài mắng hắn một trận là được, ngài yên tâm, tên đó từ nhỏ vô tâm vô phế, sẽ không để bụng đâu.”

Trương Phụng Hàm vội nói: “Điện hạ chậm đã! Điện hạ! Ta… việc này… lão hủ…”

Ông ta vừa cuống lên thì đầu lưỡi liền líu lại, trán vã mồ hôi, Trường Canh cũng không lên tiếng, thong dong nhìn ông mà cười, nụ cười chẳng mảy may có vẻ u ám, trong veo như một thiếu niên, với chút bỡn cợt đúng mức.

Trương Phụng Hàm hiếm khi thấy y không trưng ra dáng vẻ lão luyện thành thục, định thần lại, bất đắc dĩ bật cười nói: “Điện hạ thật là…”

“Thế ta sẽ đi nói với hắn, ta rẽ phía trước là về nhà rồi, Phụng Hàm công cứ tự nhiên,” Trường Canh nhẹ nhàng nói, “Ta sẽ bảo Tiểu Cát tìm ngày tốt giờ lành, dập đầu trước ngài – đúng rồi, xem chừng trời sắp mưa, ngài theo ta đi lấy ô, phòng sẵn khi cần.”

Trương Phụng Hàm lão gàn dở khiến Lý Phong toác đầu này mỉm cười cáo biệt y, ánh mắt hiền lành nhìn mãi đến khi xe của Nhạn vương đi xa.

Trường Canh vừa đi thì trời quả nhiên như lời y nói, tí tách mưa lâm râm.

Phụng Hàm công xòe cây ô Trường Canh để lại, nhất thời có chút cảm khái, hơn nửa năm qua, binh hoang tiếp mã loạn, cho dù không được thái bình, nhưng chỉ cần nhìn mấy người trẻ tuổi này, ông liền cảm thấy cây cột lớn đỉnh thiên lập địa trên kim điện Đại Lương còn chưa đổ, còn có họ chống.

Thế gian kẻ thông minh tài trí đếm không xuể, song một người nếu quá thông minh, thì luôn thiếu vài phần huyết khí, có khuynh hướng bo bo giữ mình hơn, nhất định phải có người đại trí đại dũng chân chính dẫn đầu đứng ra, chống cây cột ấy, mới có thể tụ họ lại.

Người đi đằng trước định sẵn là lao tâm phí lực, cũng không nhất định có kết cục tốt, dù không đáng hơn cũng không còn… Nhưng muôn ngàn hạt cát, giả sử không có mấy tảng đá như vậy, chẳng phải đã sớm bị thiên thu vạn đại xô tan rồi sao?

Phụng Hàm công quay đầu lại, thấy một góc cuối hẻm có tăng bào trắng như tuyết lướt qua, ông liền thu lại nụ cười trên mặt, sải bước tới.

Tửu lâu trong hẻm không khí thế lịch sự như Khởi Diên lâu ngày xưa, mà giống một quán trà nhỏ tùy tiện hơn, nghèo hèn như Phụng Hàm công đi vào cũng thấy bình thường. Ông cụp ô lại, giũ sạch nước mưa, nghe thấy trên cầu thang gỗ bị người gõ nhẹ vài cái, ngẩng đầu lên thấy Liễu Nhiên đại sư tháo mũ xuống, đứng ở tầng hai hơi gật đầu chào mình, Phụng Hàm công hiểu ý, rảo bước tới.

Hai người một trước một sau đi vào phòng trong cùng, bên trong đã có một nam nhân trung niên chờ sẵn, nam tử nọ trạc bốn năm mươi tuổi, tướng mạo thường thường, ăn vận cũng không nổi lắm, nhưng trông rất hòa khí, giống như khóe mắt chân mày đều là tròn, song nếu có quan viên Hộ bộ ở đây, chắc sẽ rất giật mình – người này chính là Đỗ Vạn Toàn giàu nhất vùng Giang Nam.

Đỗ Vạn Toàn làm giàu ở Giang Nam, từng tự mình tổ kiến một thương đội đến Tây Dương, là cự cổ duy nhất của Đại Lương triều từng đến Tây Dương sau khi Vũ đế khai hải vận, cửu tử nhất sinh, lợi nhuận kếch xù, trở về được xưng là “Đỗ tài thần”.

Sau đó dời về Tây Bắc, được chọn làm hội trưởng thương hội con đường tơ lụa Trung Nguyên.

Từ khi An Định hầu không biết vì việc gì mà bị cưỡng chế phạt bổng phản tỉnh ở kinh thành, ngày về chưa rõ, đại thương nhân khứu giác nhạy bén này liền dẫn đầu triệu tập thành viên thương hội bắt đầu rút lui từng nhóm, sau đó thế cục Tây Vực rung chuyển cũng không ảnh hưởng quá nhiều đến người vô tội, có thể nói là chong chóng đo hướng gió của thần tài này dẫn đường rất kịp thời.

Không ai biết Đỗ Vạn Toàn có bao nhiêu tiền, đều nói hắn phú khả địch quốc – dĩ nhiên, với sự nghèo nàn của Đại Lương hiện giờ, có thể địch quốc cũng chẳng có gì là giỏi.

Một thần tài như vậy, hiện giờ lại cùng hòa thượng Hộ Quốc tự, lão cứng đầu Linh Xu viện tụ tập trong một tửu quán nhỏ khá đơn sơ.

Thấy Trương Phụng Hàm, Đỗ Vạn Toàn vội khách khí đứng dậy nhường thượng tọa, chắp tay nói: “Mời ngồi mời ngồi, ta và lão ca ca hơn chục năm rồi chưa gặp mặt, hiện giờ xem ra, ngài không thay đổi chút nào, phong thái càng hơn năm đó.”

Trương Phụng Hàm vừa chối từ vừa nói: “Nào có, già rồi.”

Đỗ Vạn Toàn nghiêm túc chắp tay nói: “Đỗ mỗ trước khi đến kinh thành đã bị thê nhi khuyên can, chỉ sợ thế cục kinh thành chưa ổn, nắm xương già sẽ phải bỏ lại tại đây, ta nói với họ, Phụng Hàm công chẳng lớn tuổi tài cao hơn ta à, mà khi nguy cấp tay không tấc sắt mặt không đổi sắc? Thương nhân con con ta đây, mặc dù không so được với loại quốc sĩ vô song này, nhưng nếu ngay cả đến gặp cũng không dám, thì thành cái gì?”

Đỗ tài thần lăn lộn thương trường nhiều năm, hòa khí phát tài, nói chuyện dị khúc đồng công với Nhạn vương điện hạ, đều thuộc về loại hai câu có thể làm người ta đỏ mặt còn làm người ta cảm thấy hưởng thụ, Trương Phụng Hàm ý thức được còn tiếp tục khách sáo với hắn, trước khi trời tối chưa chắc nói được chính sự, đành phải ngồi ở thủ vị.

Liễu Nhiên hòa thượng chắp tay, dùng thủ ngữ: “Đỗ tiên sinh gia đại nghiệp đại, trăm công nghìn việc, Phụng Hàm công lát nữa còn phải chạy về Linh Xu viện, chúng ta bớt nói linh tinh đi, hậu sinh vượt quyền, nhắc tới việc này trước.”

Nói đoạn, hắn lấy tràng hạt trong lòng ra, kéo nhẹ một cái, một chuỗi hạt châu liền rời ra, Liễu Nhiên bẻ hạt châu lớn nhất, lấy một đoạn gỗ rỗng cũ kỹ bên trong, xác ngoài mộc mạc, trong có vô số bánh răng tinh xảo, lẳng lặng bày ra.

Phụng Hàm công và Đỗ Vạn Toàn nhìn nhau một cái, không khách sáo nữa, đều lấy từ trong lòng ra một mẩu gỗ rỗng ruột tương tự, ba mẩu gỗ bày cạnh nhau, hút lẫn nhau, ở trên bàn tự trượt đi, bánh răng khớp lại, chớp mắt liền kín kẽ, hợp thành nửa trên của một tấm mộc bài, trên có chữ “lâm”.

“Lần trước mộc bài này hợp lại, là chuyện từ hơn hai trăm năm trước,” Đỗ Vạn Toàn thở dài, “Lần trước các tiền bối tổ tiên giao vật này cho Thái Tổ Hoàng đế, không chọn sai người, đổi lấy hai trăm năm thái bình thịnh thế, hiện giờ truyền đến tay thế hệ chúng ta, chỉ mong lần này chúng ta vẫn có thể chọn đúng… Hôm nay Liễu Nhiên đại sư triệu tập ‘Lâm Uyên’, chắc là có người để chọn rồi.”

Liễu Nhiên ra dấu: “Chung lão và người của Trần gia ở tiền tuyến, không thể đến, mấy hôm trước Chung lão nhờ người đưa ý kiến của mình và mộc bài đang bảo quản đến, chỗ Trần cô nương loạn, cũng hơi xa hơn, vẫn chưa thấy, nhưng ta đoán cũng chỉ tầm nửa ngày một ngày nữa thôi.”

Đỗ Vạn Toàn thoáng nhìn mộc bài Lâm Uyên trên bàn, ngồi ngay ngắn lại nghiêm nghị nói: “Mời đại sư nói.”

“A di đà Phật,” Liễu Nhiên chắp tay cúi đầu, “Có một người từ khi chiến loạn bắt đầu mượn Lâm Uyên các mộc điểu truyền thư, để lại một nước cờ sống cho kinh thành bị bao vây, nhận nhiệm vụ lúc lâm nguy, giết nội gian, tự mình thủ thành, kháng chỉ không nhận hoàng vị-“

Trương Phụng Hàm nghe đến đó, lập tức phụ họa: “Người đại sư nói ta đồng ý, ta ở trong triều tiếp xúc nhiều nhất với Nhạn vương điện hạ, y tuy còn trẻ, nhưng tài đức vẹn toàn, ta nguyện ý phó thác mảnh mộc bài của mình cho y – nói ra thật xấu hổ, lão già này ăn cơm nhàn bao nhiêu năm, đến lúc mấu chốt tác dụng gì cũng chẳng có, nghe thấy chiến báo tiền tuyến liền đần ra, vừa không ngờ quân Tây Dương có thể vây khốn kinh thành thật, cũng không nghĩ đến dùng mộc điểu truyền tin… Đỗ tiên sinh, ngươi nói sao?”

Hai người trong bàn đồng thời nhìn Đỗ Vạn Toàn, Đỗ Vạn Toàn nghĩ một chút, nhất thời không đáp gì, khéo léo nói: “Nhạn vương điện hạ thân phận cao quý, ta chưa từng tiếp xúc, nhưng nghe nói vị điện hạ kia từng sư thừa Chung lão tiên sinh, còn có giao tình với người của Trần gia, hai vị ấy chắc hẳn hiểu y hơn, chi bằng chờ họ một chút?”

Liễu Nhiên lấy từ trong lòng ra một con chim gỗ, bụng chim có một tờ giấy niêm phong cực mảnh, vẫn còn y nguyên.

“Đây là của Chung lão,” Liễu Nhiên nói, “Bần tăng chưa mở ra, mời.”

Đỗ Vạn Toàn xoa tay, hơi ngượng ngùng nói: “Đỗ mỗ không khách khí nữa.”

Nói xong hắn cẩn thận gỡ niêm phong, nạy bụng chim, lấy mảnh mộc bài thứ tư ra.

Mảnh này ghép vào, chữ “Uyên” liền hợp lại hơn một nửa, chỉ còn một góc, dưới mộc bài còn chặn một tờ giấy Hải Văn đến từ Chung Thiền.

Trương Phụng Hàm nói: “Chung lão tay cầm tay dạy Nhạn vương điện hạ phái binh bố trận, công phu cưỡi ngựa bắn cung, đó là tình cảm thế nào, liệu có…”

Ông đột nhiên dừng lại, chỉ thấy Đỗ Vạn Toàn bày tờ giấy Hải Văn của Chung Thiền tướng quân trên bàn, trên tờ giấy kia viết rằng: “Người này có tài năng an thiên hạ, nhưng ấu niên quá nhấp nhô, thiếu thời tuy có thể nói là nhân hậu, trung niên về sau vị tất có thể như trước, lại có ẩn hoạn ‘Ô Nhĩ Cốt’, mong chư quân cẩn thận.”
Bình Luận (0)
Comment