Ngày 15 tháng 10 năm 1640
Washington D.C.
Tổng thống Lee nhấp một ngụm trà Qua Toyne vừa được nhập khẩu, gật đầu ra hiệu cho Bộ trưởng Quốc phòng Robert Hill, người đang đi cùng Đô đốc Hải quân Daniel Faraday.
Nhận được tín hiệu bắt đầu báo cáo, Hill đặt tách trà xuống và tóm lược tình hình đang diễn biến tại Mu:
"Thưa Tổng thống, Đế quốc Gra Valkas vừa hoàn tất cuộc chinh phạt khu vực Alue. Toàn bộ vùng đất nằm phía tây nam dãy núi Malmund – ngoại trừ đồng cỏ Malmund ở phía tây bắc và đồng bằng Oster phía đông – đều đã rơi vào tay quân đội Gra Valkas."
Hill trình bày bản báo cáo một cách điềm tĩnh, đúng phong thái của một quan chức cấp cao, dù bản chất thông tin chẳng lấy gì làm khả quan. Tuy vậy, ông vẫn trình bày như thể việc mất Alue là một kết quả đã được dự đoán trước.
"Gra Valkan tiến hơi chậm hơn kỳ vọng," Lee nhận xét. Thật ra, ông và nội các đã chuẩn bị sẵn cho điều này; những tổn thất ở Alue và Kielseki chỉ là những quân cờ đầu tiên trong chuỗi phản ứng dây chuyền mà ông thiết kế. Lee thở dài. Ông ước mình có thể can thiệp sớm hơn, nhưng con đường ông đang đi rất mong manh – đó là con đường vừa tối ưu hóa lợi ích cho Mu, vừa đảm bảo không kéo nước Mỹ vào một cuộc chiến quá sớm.
Gạt bỏ cảm xúc tiêu cực, ông hỏi tiếp:
"Vậy các mặt trận khác thì sao? Có trụ được không?"
Hill trả lời:
"Nhờ sự hy sinh của lực lượng Mu ở Căn cứ Dawson, chúng ta có thể xem dãy núi Malmund giờ là rào chắn không thể xuyên thủng. Khoảng thời gian mà họ cầm cự đủ để quân Mu hoàn thiện hệ thống phòng ngự, đồng thời chúng ta cũng kịp chuyển vũ khí sang. Gra Valkan không còn khả năng vượt qua thung lũng Malmund nữa. Các mặt trận khác thì Gra Valkan vẫn đang dần ép sát, nhưng lực lượng Mu vẫn chủ yếu dùng vũ khí nội địa nên chưa thể so bì. Các lô hàng viện trợ của ta hiện tại chưa đủ để cân bằng ưu thế về quân số bên phía Gra Valkan."
Lee nghĩ thầm: Mọi chuyện đúng theo kế hoạch.
Khoảng dừng này là lớp vỏ bọc cần thiết để duy trì dòng lợi nhuận khổng lồ cho ngành công nghiệp quân sự Mỹ thông qua việc xuất khẩu vũ khí ngày càng nhiều. Liệu đó là sự ngụy biện cho lương tâm hay là lựa chọn khôn ngoan, ông không rõ – nhưng rõ ràng chiến lược này đang phát huy hiệu quả.
Nếu Mỹ nhảy vào chiến tranh quá sớm, dư luận sẽ phản ứng tiêu cực. Nếu làm ngơ, Mỹ sẽ đánh mất bàn đạp chiến lược ở bán cầu Tây. Vì thế, bán vũ khí là phương án trung dung lý tưởng – vừa không phải chiến đấu, vừa không mất lợi thế địa chính trị.
Giờ đây, chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi công chúng Mỹ đủ ủng hộ để chính thức tham chiến mà không gây hậu quả chính trị cho chính quyền ông.
"Hiểu rồi," Lee gật đầu. "Vậy đến lúc tăng tốc chuyển hàng rồi, đúng không?"
"Chính xác, thưa Tổng thống. Nhưng..." Hill ngập ngừng, vẻ lo lắng hiện rõ. "Mu sẽ lấy đâu ra tiền mà mua?"
Một nụ cười đầy ẩn ý hiện lên trên gương mặt Lee.
"Ngân khố của họ không đủ, nhưng tài nguyên thiên nhiên thì chắc chắn có. Để phần tính toán và thương lượng cho Bộ trưởng Heiden. Giờ ta bàn chuyện hậu cần. Anh đề xuất cung cấp những gì cho Mu?"
Hill rà soát lại kho vũ khí của Mu và so sánh với trang bị của Gra Valkas:
"Vũ khí bộ binh hiện đại vẫn còn hiếm, tôi đề xuất tăng mạnh số lượng súng bộ binh – loại dễ sản xuất và vận chuyển. Ngoài ra, có thể bán các xe tăng Abrams cũ, tăng viện các hệ thống pháo và tên lửa chống tăng. Đặc biệt, nên đẩy mạnh sản xuất tổ hợp cơ động VAMPIRE và bán hệ thống THAAD để nâng cao khả năng đánh chặn tên lửa và máy b** n*m b*m của Mu."
Lee khựng lại. Câu nói đó gợi nhớ về dòng tên lửa Angreifer của Gra Valkas – loại vũ khí có đặc tính gần giống tên lửa V-2 của Đức Quốc xã, nhưng còn vượt trội hơn nhiều do có yếu tố ma thuật. Dù hệ thống phòng thủ Mỹ có thể đánh chặn phần lớn, nhưng việc có nhiều bệ phóng tại Leifor là điều đáng báo động. Nếu những quả Angreifer được trang bị đầu đạn hạt nhân, hậu quả sẽ là thảm họa.
Không muốn để kịch bản đó xảy ra, Lee đồng thuận:
"Ưu tiên triển khai THAAD. Mong rằng nhiệm vụ của nó chỉ là bắn hạ máy bay, chứ không phải tên lửa hạt nhân."
"Vâng, thưa Tổng thống," Hill đáp. "Về vận chuyển, chúng tôi đã thuê được hàng loạt tàu hàng. Vũ khí có thể chuyển thoải mái, nhưng vấn đề là an toàn. Đô đốc Faraday?"
Faraday gật đầu với Hill rồi quay sang Lee:
"Chúng tôi có hạm đội khu trục thuộc Hạm đội 7 tuần tra hành lang vận chuyển, nhưng khu vực từ căn cứ ở Vestal đến cảng Mu quá rộng. Và hoạt động của tàu ngầm Gra Valkas đang gia tăng. Có khả năng họ sẽ tổ chức một cuộc tập kích vào các đoàn tàu vận tải. Với lực lượng hiện tại, rất khó để bảo vệ tất cả tàu hàng."
Ông đặt tập tài liệu lên bàn cà phê:
"Đây là kế hoạch tôi đề xuất: tái cơ cấu hạm đội, điều thêm lực lượng về phía tây. Không như trên Trái Đất, ta không cần lo mặt đông, còn phía bắc cũng rất yên ả."
Lee đọc lướt tài liệu:
"Hạm đội 2 và 4 giữ vai trò phòng thủ, còn lại dồn hết về phía tây?"
"Đúng vậy, thưa Tổng thống," Faraday xác nhận. "Khi căn cứ Vestal hoàn thiện, đó sẽ là tổng hành dinh của Hạm đội 7. Hạm đội 5 sẽ tiến xa hơn nữa về phía tây, hiện đang tìm nơi đặt căn cứ. Hạm đội 3 và 6 sẽ đến Rodenius và Philades để giám sát và kiềm chế Đế quốc Annonrial."
Lee chợt nhớ đến thỏa thuận với Annonrial: Mỹ được phép mở rộng ảnh hưởng ở quần đảo Columbian để đổi lấy hai beacon Ravernal phát hiện tại Calamique và Esperanto. Nhưng chẳng ai đảm bảo Annonrial sẽ giữ lời.
"Nghe hợp lý. Bên Annonrial có động tĩnh gì không?"
Hill lắc đầu:
"Vệ tinh chưa ghi nhận gì bất thường. Nhưng ai biết họ đang âm mưu gì sau cánh cửa đóng kín."
***
Magicaregia, Đế quốc Annonrial
Trụ sở Cơ quan Quản lý Phục Sinh
"À," một người đàn ông áo choàng trắng nở nụ cười nhẹ với nhà ngoại giao râu dài vừa bước vào. "Đại sứ Krunch, vinh hạnh được tiếp đón."
"Tôi mang đến tin mừng cho ông, Giám đốc Zamuras," Krunch đáp.
Zamuras nhướng mày, khóe miệng cong lên đầy hứng thú.
"Ồ? Tôi lắng nghe đây, thưa Đại sứ."
"Người Mỹ sẽ gửi cho chúng ta hai beacon hồi sinh – một từ Calamique và một từ Esperanto."
Zamuras bật cười điên dại:
"Ha! Không ngờ chúng ta lại sở hữu được beacon, bất chấp thất bại của Mauli Hanmann và Darkshield Blancmar! Ha ha ha! Đây đúng là tin tốt!"
Rồi ông chợt cau mày, tò mò hỏi: "Làm sao ông thuyết phục được người Mỹ nhường lại beacon?"
"Tôi ký thỏa thuận tại Hội nghị Lãnh đạo Thế giới: chúng ta giữ thái độ trung lập trong chiến tranh Gra Valkas và để họ mở rộng ảnh hưởng đến quần đảo Columbian phía đông đế quốc."
Zamuras nghi ngờ: "Người Mỹ thật sự không biết beacon dùng để làm gì à?"
Krunch bình thản:
"Tôi cho rằng họ biết rất rõ. Họ chỉ giả vờ trì hoãn để có thêm thời gian nghiên cứu."
"Hừm, lũ khỉ không phép thuật đó làm sao hiểu nổi công nghệ của tổ tiên ta," Zamuras khinh khỉnh nói.
Krunch thầm nghĩ lòng kiêu ngạo của Zamuras thật nguy hiểm – nhưng ông không muốn tranh luận với cấp trên. "Vâng, đúng vậy," ông chỉ gật đầu phụ họa.
"Hoàng đế sẽ rất hài lòng với tin tức này. Nhưng tôi có một yêu cầu nữa."
"Xin cứ nói, Giám đốc."
"Beacon ở Quila vẫn chưa lấy được. Một số nhóm thu thập của tôi đã mất tích. Có thể ông đàm phán để Mỹ nhường luôn beacon đó không?"
Krunch bối rối – Annonrial đã nhượng bộ khá nhiều. Nếu đòi hỏi thêm, họ có thể bị Mỹ coi là mối đe dọa. Nhưng ông vẫn cúi đầu:
"Tôi... sẽ trình bày lại với cấp trên."
"Tôi rất cảm kích. Dĩ nhiên, hòa bình luôn được ưu tiên. Nhưng nếu họ đòi hỏi quá đáng, tôi sẽ không ngại dùng vũ lực."
Lời này khiến Krunch lạnh sống lưng. Một trận đụng độ nhỏ giữa đặc nhiệm gần lãnh thổ Mỹ có thể thổi bùng chiến tranh toàn diện.
"Tôi hiểu. Nhưng xin Giám đốc nhớ: quan hệ với Mỹ đang ở trạng thái rất mong manh. Nếu không thành công ở Quila, tôi khuyên nên từ bỏ và tập trung vào beacon ở Gahara – hoặc các beacon đang nằm dưới đáy biển gần Mu."
Zamuras im lặng, ánh mắt xuyên thấu Krunch như muốn lột da. Krunch toát mồ hôi – sợ rằng mình đã nói quá giới hạn. Nhưng rồi...
"Ông nói có lý. Gahara thì ít ảnh hưởng Mỹ hơn, đúng chứ?"
"Đúng vậy, Mỹ chủ yếu dồn lực vào lục địa Grameus. Gahara không có tài nguyên đáng giá."
"Tốt. Trong lúc ông đàm phán về Quila, tôi sẽ phái đội đến Gahara. Chúng ta sẽ lấy beacon ngay dưới mũi họ mà họ không hay biết."
Zamuras nở nụ cười hiểm độc.
==+==
Tác giả: DrDoritosMD
Công cụ dịch: Chat GPT