“Phù chính.” Bác sĩ Tạ Uyển Oánh lập tức có phán đoán của riêng mình.
Đừng nghĩ nhiều như vậy. Bác sĩ Tạ cũng không muốn suy nghĩ nhiều, chỉ tập trung vào một hướng.
Lời khai sáng của chị Ôn đã định hướng tư duy của cô, chính là muốn cô tập trung vào một hướng đi đến cùng.
Vì vậy, lối tư duy lâm sàng thẳng thắn này không thể nói là không tốt, mà là khá tốt, không làm phức tạp hóa vấn đề, có lợi cho việc tránh bị rối.
Tây y nhiều năm nay càng ngày càng coi trọng đường mòn lâm sàng có thể xem như một hình thức tư duy thẳng thắn, vì tổng kết nhiều bài học lâm sàng để rút ra kết luận.
Bác sĩ Tạ Uyển Oánh dùng gì để đưa ra hướng phù chính, chắc chắn không phải vì cô hiểu vọng, văn, vấn, thiết của trung y.
Trung y huyền diệu ở chỗ, cái gọi là vọng, văn, vấn, thiết bốn yếu tố khám bệnh đều phải dựa vào kinh nghiệm lâm sàng tích lũy của chính bản thân thầy thuốc trung y.
Bác sĩ Tạ Uyển Oánh chưa từng có tích lũy kỹ thuật trung y ở phương diện này, vậy bây giờ làm thế nào?
Phải biết rằng, không ít bác sĩ Tây y lâu năm học thêm kỹ thuật trung y rất thuận lợi, nhanh chóng nắm bắt được, nhanh hơn nhiều so với người mới học trung y.
Không biết vọng, văn, vấn, thiết cụ thể của kỹ thuật trung y là gì, nhưng những bác sĩ này sau khi đọc hiểu được logic lý luận trung y, vì ngày thường đã tích lũy được cảm giác chẩn bệnh cho người bệnh, việc chẩn đoán dương khí âm khí gì đó cũng không quá khó khăn.
Sư tỷ là người mà bác sĩ Tạ Uyển Oánh rất quen thuộc, gần như ngày nào cũng tiếp xúc, cô làm sao có thể không biết thể chất ngày thường của sư tỷ?
Chính khí trong trung y đặt vào Tây y có thể gọi là miễn dịch, sư tỷ có sức đề kháng không tệ.
Miễn dịch của người bệnh mạnh, nghĩa là bác sĩ chỉ cần tăng cường thêm một chút miễn dịch cho người bệnh rất có thể giúp người bệnh tự đẩy lùi tai họa.
Như vậy tốt hơn là bác sĩ dùng ngoại lực mạnh để can thiệp vào cơ thể con người để trừ tà.
Từ lý thuyết mà nói, trừ tà yêu cầu bác sĩ phải sử dụng lực can thiệp lớn hơn khi can thiệp vào cơ thể người bệnh.
Quan niệm logic của trung y như vậy có rất nhiều trong Tây y, ví dụ như tiêm vắc-xin phòng bệnh để cơ thể hình thành miễn dịch tăng cường, tốt hơn là sau này phải dùng thuốc mạnh để cứu người bệnh.
Bác sĩ lâu năm vẫn là bác sĩ lâu năm, nhanh chóng kết hợp tư duy trung y và Tây y để thông hiểu đạo lý, không hề có chút khó chịu nào.
Những người đứng xem càng nghe càng ngờ vực về bác sĩ Tạ Uyển Oánh nghĩ, Cô rốt cuộc có phải chỉ hiểu trung y hay không, hay là...?
Mỗi người như bác sĩ Mã, bác sĩ Trương đều đoán già đoán non.
Bác sĩ lâu năm làm việc quyết đoán dứt khoát không phải hành động l* m*ng, phân tích cụ thể có thể lý giải rõ ràng, có sự tự tin học thuật làm chỗ dựa thêm can đảm.
Bác sĩ Tạ Uyển Oánh thuộc loại nào đây?
“Người bệnh bị chứng hoảng sợ, trong trung y có rất nhiều huyệt vị có thể điều trị.” Bác sĩ Ôn Tử Hàm tiếp tục hướng dẫn qua điện thoại.
Nghe nói bốn huyệt vị điều trị phổ biến này ngay cả người dân bình thường cũng không xa lạ.
Huyệt vị đầu tiên là huyệt Bách Hội nằm ở đỉnh đầu, định vị là ở phía trước chân tóc lên năm tấc, trên đường giữa đỉnh đầu.
Huyệt Bách Hội là huyệt của mạch Đốc, phụ trách liên hệ giữa não và tủy sống. Chỉ cần nhìn vị trí của nó trên cơ thể con người là có thể đoán được nó có thể điều trị các bệnh về não.
Ở đây nhắc đến mạch Đốc, tiện thể nói thêm một chút.
Mạch Đốc không phải là mười hai kinh lạc mà chúng ta đã nói trước đây, nó là một trong kỳ kinh bát mạch ngoài mười hai kinh lạc, cùng thuộc hệ thống học thuật kinh lạc của trung y.
Kỳ kinh bát mạch được gọi là kỳ kinh bát mạch là vì nó không thuộc mười hai kinh lạc, không có quan hệ biểu lý với tạng phủ.
Đồng thời nó rất quan trọng trong kỹ thuật trung y, đặc biệt là đối với châm cứu, xoa bóp, vì nó liên kết giữa các kinh lạc.
Những người học Tây y đều biết, trên cơ thể người có nhiều mạch máu, thần kinh và bạch huyết giao nhau như pháo đài giao thông, có thể dùng điều này để so sánh với một số huyệt vị quan trọng trong kỳ kinh bát mạch của trung y.