Trên Núi Có Chuyện Gì? - Uông Nhạ Nhạ

Chương 11

Đầu hạ cỏ cây xanh rờn, núi đồi phủ kín màu xanh biếc. Cảnh vật giữa đất trời dường như đậm hơn, không còn sự dịu dàng của mùa xuân mà thay bằng sức sống bồng bột, mạnh mẽ.

Uông Tễ đội mũ rơm, đang dựng giàn cho dàn dây leo ở mảnh vườn phía sau.

Mướp hương đã vươn dài, đậu cove và đậu đũa cũng lớn nhanh như thổi, cần sớm dựng giàn cho chúng leo lên mà ra hoa, kết trái. Trên đất, cà tím và ớt cay xanh mướt, cây cà chua sau khi được tỉa cành đã bắt đầu trĩu quả.

Giàn leo được làm từ những cây trúc mà hôm qua anh lên núi chặt về, sau khi tỉa bớt lá, chỉ còn lại những thân trúc chắc chắn, vừa vặn cho việc dựng giàn.

Dọn dẹp xong mảnh vườn, Uông Tễ hái thêm vài cây xà lách và một mớ rau dền đỏ. Cầm theo giỏ tre và chiếc cuốc, anh thong thả bước về nhà.

Từ xa anh đã thấy cổng sân nhà mình mở. Anh tháo mũ rơm, vừa đi vừa phe phẩy trong tay, nhẩn nha tiến lại gần.

Cây anh đào giữa sân đang độ sai quả, những chùm trái đỏ mọng xen giữa tán lá xanh mướt, đẹp đến mê người. Dưới tán cây, Phù Tô ngồi lặng lẽ.

Bên cạnh hắn là chiếc bàn đá mà Uông Tễ mới khiêng về không lâu, đặt ngay dưới bóng mát, nhìn thôi cũng thấy mát. Hắn ngồi dựa trên chiếc ghế gỗ kiểu cũ, đôi chân khẽ đẩy làm ghế phát ra tiếng kẽo kẹt nhẹ nhàng.

Phù Tô ngửa mặt nhìn đàn chim đang chuyền cành, mổ những quả anh đào chín. Trên bàn còn đặt một đĩa trái cây, cả người lẫn chim đang hưởng thụ bữa tiệc ngọt ngào dưới bóng cây yên tĩnh.

Khung cảnh ấy khiến lòng người lắng dịu, cả thời gian như ngừng lại giữa tiếng chim ríu rít.

Uông Tễ đứng ở ngoài cổng, im lặng ngắm cảnh một lúc. Đến khi Phù Tô cúi xuống, tay đưa một quả anh đào lên miệng, ánh mắt hai người vô tình chạm nhau.

Cây trúc trong tay Uông Tễ rơi xuống đất, khiến đàn chim vỗ cánh bay tán loạn.

Phù Tô khẽ cong khóe môi, ngón tay chỉ về phía cây anh đào: “Chim bay hết rồi.”

Uông Tễ nhặt cây trúc, đẩy cổng bước vào, theo anh là một cơn gió nhẹ. Anh than thở: “Tôi mồ hôi như tắm ngoài vườn để trồng dưa, trồng đậu, còn anh thì ngồi ăn anh đào, nằm ghế hưởng thụ. Tôi đúng là chẳng phải ông chủ gì, y như nô bộc vậy.”

Phù Tô bật cười, từ ghế đứng lên, rót cho Uông Tễ một ly trà đã nguội sẵn trên bàn đá: “Vừa ướp lạnh, uống thử xem.”

Uông Tễ đặt giỏ rau vào góc sân, ngả người lên ghế nằm. Nhận lấy ly trà từ tay Phù Tô, anh uống một hơi hết nửa ly, cảm giác dễ chịu tràn khắp người: “Thoải mái thật.”

Trán anh lấm tấm mồ hôi, in hằn một vệt đỏ vì mũ rơm thít chặt.

Phù Tô bước đến chiếc dây phơi, lấy xuống một chiếc khăn lông, nhúng vào nước giếng rồi vắt khô. Hắn mang khăn đến, đặt lên trán Uông Tễ: “Lau đi.”

Uông Tễ cầm khăn, lau mặt, mỉm cười: “Mát lạnh quá.”

Sau khi lau xong, anh tiện tay đưa lại khăn cho Phù Tô. Hắn cầm lấy, giũ nhẹ rồi treo trở lại dây phơi. Quay sang, hắn hỏi: “Thế nào, giờ có phải cảm thấy giống nô bộc được tôn làm ông chủ chưa?”

Uông Tễ vừa nhai trái anh đào chua ngọt, vừa cười thành tiếng.

Việc để Uông Tễ làm lụng còn Phù Tô nhàn hạ ở nhà thật ra không phải lỗi của hắn. Phù Tô giỏi nhiều thứ, nhưng riêng việc làm vườn thì tuyệt nhiên không biết gì cả.

Phù Tô từng rất nhiệt tình giúp Uông Tễ bón phân cho vườn rau, nhưng lần đó lại chẳng mấy thuận lợi. Hắn không biết canh lượng phân cho đúng, rắc quá tay, khiến những cây non yếu ớt vừa mới vươn lên từ mưa xuân đã bị héo rũ trong những ngày hè nắng gắt.

Để bảo vệ khu vườn quý giá của mình, Uông Tễ đành phải khách khí ngăn Phù Tô không bén mảng đến gần nữa.

Gió từ núi thổi về mát rượi, ánh nắng len qua những kẽ lá, chiếu loang lổ trên bức tường trắng. Hai người ngồi dưới bóng cây, tận hưởng khoảnh khắc tĩnh lặng. Đám chim chóc ban nãy vì hoảng sợ bay đi giờ đã quay lại, tiếp tục chuyền cành, rỉa những trái anh đào căng mọng, rỉ nước ngọt lịm.

Đến giờ trưa, Uông Tễ hỏi: “Muốn ăn gì?”

Phù Tô không chút do dự: “Cơm lập hạ.”

Uông Tễ nhìn hắn, ngạc nhiên: “Cơm lập hạ? Giờ đã qua lập hạ lâu lắm rồi, còn ăn gì nữa?”

Phù Tô cười nhạt: “Vậy thì ăn cơm gạo nếp đậu Hà Lan.”

Uông Tễ bật cười bất đắc dĩ.

Ở đây, món cơm lập hạ chính là cơm gạo nếp đậu Hà Lan. Mùa lập hạ, đậu Hà Lan vào vụ, hạt đậu bên trong quả mập mạp, căng tròn, mang màu xanh non mát mắt. Người ta lột hạt đậu, đem nấu cùng gạo nếp và thịt khô. Khi cơm chín, mùi đậu thơm mát hòa quyện với hương thịt và gạo nếp dẻo ngọt, vừa mở nắp nồi đã tỏa hương thơm lừng khó cưỡng.

Phù Tô lần đầu tiên ăn cơm lập hạ ở nhà thím Uông, lập tức bị hương vị quyến rũ. Hắn mê mẩn món cơm đến mức không chỉ yêu thích cơm gạo nếp đậu Hà Lan mà còn rất thích lớp cơm cháy giòn rụm dưới đáy nồi.

Món ăn không quá cầu kỳ, nguyên liệu cũng đơn giản, nhưng Uông Tễ vẫn lắc đầu, hỏi đùa: “Dạo này ăn liên tục vài bữa rồi, dạ dày anh chịu nổi à?”

Phù Tô cười đáp: “Tôi ăn xong mỗi lần đều chạy bộ thêm một tiếng. Không sao đâu.”

“Thôi được,” Uông Tễ cười xòa, uống nốt ly trà cuối cùng rồi đứng dậy, “Vậy nhóm lửa đi, để tôi nấu cơm gạo nếp cho.”

Phù Tô nhanh nhẹn chuẩn bị lửa bếp, trong khi Uông Tễ đem gạo nếp đi ngâm nước, rồi xách giỏ qua nhà thím Uông hái đậu Hà Lan.

Thím Uông đang lúi húi trong vườn, thấy anh lại ghé, liền hỏi: “Bây lại làm cơm gạo nếp à? Món ấy ngon thì ngon thiệt, mà khó tiêu lắm.”

Uông Tễ vừa cúi xuống hái đậu vừa cười đáp: “Ăn rồi nghiện thím ạ.”

Thím Uông bật cười. Thím biết Uông Tễ không mấy chuộng gạo nếp, chắc là do Phù Tô đòi ăn. Thím trêu: “Thằng nhóc Phù ấy, cái chi cũng ăn được, cái chi cũng thấy ngon.”

Sau khi hái xong đậu Hà Lan, hai người cùng ngồi trong sân lột vỏ. Khi Uông Tễ đang lột đậu, ánh mắt anh lơ đãng nhìn về góc tường, nơi cắm hai cây trúc mà anh từng mang từ núi về, chợt nảy ra ý tưởng.

“Hôm nay làm cơm gạo nếp, tôi sẽ thử sáng tạo xem sao.”

Một hạt đậu Hà Lan lăn khỏi tay Phù Tô, rơi xuống nền xi măng. Hắn cẩn thận nhặt lên, tò mò hỏi: “Cách sáng tạo gì cơ?” 

Cái phiên bản “chất phác” ban đầu đã đủ làm hắn ấn tượng, giờ lại nghe nói còn có cải tiến, hắn không khỏi ngạc nhiên.

Uông Tễ không trả lời, chỉ đưa nốt số đậu còn lại cho Phù Tô rồi cầm lưỡi hái, đi thẳng lên núi.

Trên núi, những cây trúc xanh mướt mọc thành từng bụi lớn. Uông Tễ lướt qua những cây trúc nhỏ, tìm đến một cây trúc to hơn, mọc gần cột điện. Sau khi ngắm nghía kỹ, anh vung lưỡi hái, chặt một đoạn mang về.

Thấy anh khiêng cây trúc về sân, Phù Tô lập tức đoán ra: “Làm cơm lam phải không?”

Uông Tễ liếc hắn, nhướng mày: “Biết thì biết thôi, nhưng nói ra làm gì? Còn kinh ngạc với bất ngờ gì nữa!”

Phù Tô khựng lại một giây, rồi nhanh nhẹn đỡ lấy cây trúc từ vai Uông Tễ: “Nấu cơm thôi mà phải chặt cả cây trúc to thế này? Nhìn cồng kềnh muốn chết.”

Hai người nhìn nhau trong thoáng chốc. Cuối cùng, Uông Tễ phá lên cười, cười đến mức bả vai rung lên bần bật.

Trúc được cắt thành từng ống đều nhau. Phù Tô mang ống trúc ra ao ngâm nước muối, kỳ cọ sạch sẽ. Trong khi đó, Uông Tễ bắt đầu chuẩn bị nguyên liệu.

Mỡ heo được thắng trong chảo, thịt khô thái nhỏ và đậu Hà Lan cho vào đảo đều. Mỡ heo chính là “linh hồn” của món cơm gạo nếp, giúp hương vị trở nên béo ngậy hơn. Sáng nay khi qua nhà thím Uông hái đậu, Uông Tễ đã tiện tay xin bà một miếng mỡ nhỏ.

Anh thêm một chút muối và gia vị để khử mùi, xào cho đến khi đậu và thịt chuyển màu thơm lừng, sau đó trút gạo nếp đã ngâm sẵn vào chảo. Gạo được đảo đều cho đến khi thấm mỡ và hơi dẻo, lúc đó Uông Tễ gọi Phù Tô mang ống trúc vào.

Mỗi ống trúc được đổ thêm một chút nước, rồi múc hỗn hợp gạo nếp, thịt, đậu Hà Lan vào, nén chặt. Các ống trúc lần lượt được xếp vào nồi lớn để chưng. Khói bếp bốc lên cuồn cuộn, thoảng trong gió là hương thơm ngọt ngào của gạo nếp hòa lẫn với mùi trúc non.

Khi Uông Tễ mở nắp nồi, luồng hơi nóng ùa ra, mang theo hương thơm ngây ngất khiến Phù Tô không khỏi nuốt nước bọt.

Đợi cơm lam nguội bớt, Uông Tễ tranh thủ rửa sạch rau dền và rau xà lách vừa hái từ sáng. Rau dền được xào sơ với chút dầu, còn rau xà lách thì để ăn sống. Những lá xà lách tự trồng non mượt, ngọt thanh, ăn kèm rất hợp.

Họ vẫn ăn cơm ở sân như mọi khi. Phòng bếp của Uông Tễ dường như chỉ là để nấu nướng, còn bàn ăn lại không mấy khi được dùng tới.

Khi cơm lam được bưng ra bàn, Phù Tô cố tình làm vẻ kinh ngạc, nhướng mày trêu: “Hóa ra anh chặt cây trúc là để làm cơm lam? Sáng tạo quá đi! Ai mà nghĩ ra được cơ chứ?”

Vừa nói, hắn vừa nhịn cười, khiến Uông Tễ đang cầm đũa không kịp phòng bị, giật mình suýt làm rơi xuống đất.

Phù Tô nhanh tay lẹ mắt, đỡ lấy đôi đũa rồi đưa lại cho anh, cười đầy vẻ đắc ý.

Hương thơm của gạo nếp hòa cùng mùi thịt khô đậm đà, đậu Hà Lan ngọt bùi và thoang thoảng mùi trúc non khiến từng đũa cơm lam trở thành một trải nghiệm vị giác đầy quyến rũ. Cơm dẻo mềm, mỗi lần cắn lại thêm một tầng hương vấn vương trong miệng.

Phù Tô ăn liền một hơi hết sạch cả ống trúc đầu tiên. Hắn có vẻ đặc biệt yêu thích món này, trái ngược với Uông Tễ. Sau hai ống cơm, Uông Tễ đã thấy ngấy, bèn chuyển sang nhai rau xà lách tươi giòn, từng miếng giòn xốp như để cân bằng lại vị giác.

Ăn xong, hai người dọn dẹp chén đũa. Uông Tễ vừa lau tay vừa nói: “Nằm ngoài sân nghỉ một lát rồi đi hái dâu tằm.”

Chiều nay, họ có kế hoạch ghé một vườn dâu ở gần huyện thành.

Ở Vân Lĩnh, do địa thế cao, trên núi không có cây dâu tằm. Tối qua trước khi đi ngủ, Uông Tễ tình cờ xem được một video tự ủ rượu dâu tằm, cảm thấy hứng thú. Anh tìm kiếm thông tin và phát hiện gần huyện thành có một vườn dâu cho hái thoải mái. Uông Tễ lập tức nhắn tin rủ Phù Tô đi, vừa để có bạn đồng hành, vừa có cớ “mượn” xe của hắn, lại tiện thể giúp hắn ra ngoài thư giãn, đỡ buồn khi cứ mãi loanh quanh trên núi.

Phù Tô liếc nhìn chiếc ghế nằm duy nhất trong sân, nói:v“Sân nhà cậu có mỗi cái ghế nằm, chia cho tôi một nửa đi?”

Uông Tễ bật cười: “Anh không sợ nóng hả? Đợi tí, để tôi lên lầu dọn cái sofa đơn xuống cho anh.”

“Được luôn.”

Vào buổi trưa đầu hạ, dưới bóng cây anh đào, hai người mỗi người một góc nghỉ ngơi. Phù Tô nằm dài trên chiếc sofa đơn, Uông Tễ ngả người trên ghế nằm, cả hai dùng mũ rơm che mặt để chắn bớt ánh nắng.

Uông Tễ cất giọng lười nhác: “Hôm nào phải xuống chợ tìm thợ mộc đóng thêm một cái ghế nằm nữa. Nhà hai người mà có mỗi một cái, cứ phải tranh nhau.”

Phù Tô đáp qua giọng buồn ngủ: “Vậy tôi cũng đóng một cái để ngoài vườn. Vài hôm nữa buổi tối trời mát, có thể nằm hóng gió.”

“Chỉ đóng một cái thôi? Lại tranh à?”

“Thì hai cái.”



Hai người trò chuyện một lúc rồi dần thiếp đi, tiếng cười nói lặng dần chỉ còn lại tiếng gió thổi qua kẽ lá. Cái ghế nằm lâu lâu lại phát ra tiếng “kẽo kẹt” khe khẽ.

Trong không gian yên bình ấy, lá cây anh đào xào xạc lay động theo gió, những chùm quả đỏ mọng cũng lắc lư nhè nhẹ. Ve sầu đang ẩn mình trong đất chờ ngày lột xác, chuẩn bị ngân lên khúc ca đầu tiên báo hiệu mùa hè giữa núi rừng sắp đến.
Bình Luận (0)
Comment