Túy Kim Trản - Cửu Thập Lục

Chương 131

Sau một hồi lâu trầm mặc, Định Tây hầu cuối cùng cũng nhớ ra.

Làm quan cùng triều nhiều năm, ông và Kim Thái sư tự nhiên cũng từng giao hảo không ít lần.

Không dám nói là chưa từng có lúc bất đồng quan điểm, nhưng tất cả đều chỉ tranh luận về sự vụ chứ không nhằm vào con người.

Xét về nhân phẩm và tính cách, Kim Thái sư cùng Kim gia đều là những bậc chính trực.

Kim Thái sư và phu nhân sinh được không ít con cái, cháu chắt cũng đông đúc.

Không ít quan viên trong kinh thành ghen tị với ông ta, một phần là vì địa vị tam công cao quý, lời nói có sức nặng trong triều đình; phần khác lại vì con cháu đông đúc, ai nấy đều thành đạt.

Định Tây hầu tất nhiên cũng vậy.

Ông dựa vào tước vị tổ tiên để bước vào triều đình, nhưng suốt bao năm qua vẫn luôn mong mỏi được Thánh thượng ưu ái hơn.

Về chuyện con cháu thành tài, hai người con trai của ông rõ ràng không phải loại có năng lực xuất chúng, còn đám cháu thì càng không đáng nhắc tới.

Khi Kim gia suy bại, A Chí mới chỉ ba bốn tuổi, chẳng thể bàn đến chuyện tương lai.

Kim Thái sư hiếm khi nhắc đến chuyện dạy dỗ con cháu, nhưng lại thường xuyên nhắc về tiểu tôn nữ của mình.

Tính ra tuổi tác, Định Tây hầu thầm nghĩ, có lẽ chính là A Vi cô nương trước mắt đây.

“Ta nhớ không nhầm thì…”

Ông lần tìm trong ký ức cũ, mơ hồ nhớ ra vài điều, “Khi ấy ngươi không ở trong kinh, phải không?

Kim Thái sư có một người con trai từng bị điều ra ngoài nhậm chức, đúng không?”

“Đúng vậy,”

A Vi khẽ gật đầu, đáp lời điềm tĩnh, “Phụ thân ta khi ấy là tri châu Trung Châu.”

Định Tây hầu hỏi tiếp: “Ngươi làm sao trốn được?

Bao năm qua lại thế nào?”

A Vi đáp:
“Cô mẫu của ta nhận ra có điều bất thường, lập tức sai ma ma cưỡi ngựa ngày đêm chạy đến Trung Châu báo tin.

Phụ thân ta biết không thể trốn thoát, mẫu thân lại vừa bị sảy thai, sức khỏe nguy kịch, nên chỉ kịp giao ta cho ma ma bế đi.

Chúng ta chạy thẳng về phía nam, tránh xa kinh thành, ẩn danh mai tích, may mắn không gặp phải chuyện nguy hiểm đến tính mạng.

Nhờ sự chăm sóc của ma ma, ta đã lớn lên.

Sau này chúng ta sống ở đất Thục, hơn hai năm trước nghe tin nhà họ Dư gặp biến cố, mới gom đủ dũng khí tìm về nương tựa.

May mà đã về.

Ngày thứ hai sau khi gặp lại mẫu thân, A Vi tỷ tỷ qua đời.

Từ đó, ta trở thành Dư Như Vi.

Văn ma ma vốn không mang họ Văn, bà ấy họ Hoa.”

Định Tây hầu đưa tay ôm lấy ngực.

A Vi kể lại rất đơn giản, nhưng những năm tháng ấy chắc chắn không hề êm ả như lời nàng nói.

Bao nhiêu khổ cực, chỉ có chủ tớ hai người họ mới thấu hiểu hết được.

A Niệm cũng vậy.

Khi đứa con gái duy nhất qua đời, nỗi đau và sự sụp đổ của nàng không cần nói ra cũng có thể thấy được qua căn bệnh thần trí bất ổn kéo dài đến tận bây giờ.

Có thể viết nên bức “thư cầu cứu” giả mạo, có thể bỏ ra hai năm trời để từ đất Thục quay lại kinh thành, A Niệm sống được đến ngày hôm nay chính là nhờ vào một hơi tàn chưa dứt.

Mà người luôn kề bên, chống đỡ tinh thần cho nàng, chính là A Vi.

A Vi nhìn Định Tây hầu, tiếp tục nói:

“Ngài có lẽ không biết, hai mẫu thân của ta từng là khuê trung chi giao.

Khi ở kinh thành, nữ nhi của ngài mang tiếng xấu, chỉ có một người bạn thân duy nhất.

Sau khi đến Trung Châu nhậm chức, mẫu thân ta từng đưa ta đến đất Thục thăm hỏi.

Bao năm xa xứ, từ đầu chí cuối, người duy nhất từng đến nhà họ Dư thăm nom là mẫu thân ta.

Hơn hai năm trước, khi ta đến trang viên, tình trạng của hai mẹ con họ đã không ổn.

Mẫu thân thì thần trí mơ hồ, bệnh tình nghiêm trọng, ranh giới giữa thật và giả trở nên mơ hồ với bà.

A Vi tỷ tỷ thì bệnh nặng lâu ngày không khỏi, hôm đó là lúc bệnh tình bùng phát dữ dội trước khi lìa đời.

Tỷ ấy cứ không ngừng nhắc đi nhắc lại rằng không thể yên lòng vì mẫu thân, vì những năm tháng qua mẫu thân đã quá vất vả để báo thù cho mình.

Vậy mà dù đã như thế, cho dù đã cách biệt bao năm, cho dù ta không còn là đứa trẻ mà bà từng gặp, mẫu thân vẫn nhận ra ta, nhận ra ta là A Vi của Kim gia.”

Nói đến đây, vành mắt A Vi đỏ hoe.

Nàng mím môi, cố nén cảm xúc, rồi nói tiếp:
“Ngài đừng nhìn bà ấy bây giờ vẫn còn phát bệnh mà lo.

So với trước kia, tình trạng của bà đã tốt hơn rất nhiều.

Khi ấy bà còn chịu đựng được, bây giờ cũng sẽ vượt qua được.”

Định Tây hầu liên tục gật đầu đáp lời, nhất thời không biết nói gì ngoài việc phụ họa rằng A Niệm sẽ sớm khỏe lại.

Căn phòng lại chìm vào im lặng.

Tâm trạng như sóng trào cuộn dâng ba lần của Định Tây hầu dần lắng xuống, nhưng rồi đột nhiên ông lại nhớ ra một chuyện.

A Vi là cô nhi của Kim gia.

Người cứu nàng là ma ma do cô mẫu sắp xếp.

Mà cô mẫu ấy chính là phu nhân của Phùng Chính Bân.

Như vậy, mọi nghi vấn bấy lâu lập tức có lời giải đáp.

Không lạ gì khi Phùng Chính Bân uống trà hoa quả lại nôn mửa.

Hắn đâu phải chê mùi vị, hắn là lo lắng, là sợ hãi!

Không lạ gì khi A Vi thỉnh cầu Quận vương mở quan tài của phu nhân Kim gia, bởi nguyên nhân cái chết của bà ấy quá quan trọng đối với nàng.

Không lạ gì…

“Vậy nên,” giọng nói của Định Tây hầu khẽ run lên, âm thanh hạ thấp đến mức gần như thì thầm, “Cái chết của Phùng Chính Bân…”

A Vi nhìn thẳng vào mắt Định Tây hầu, hỏi:
“Ngài muốn tố cáo ta sao?”

Hơi thở của Định Tây hầu chợt nghẹn lại, vội vàng xua tay, lặp đi lặp lại:
“Không… không phải…”

Kẻ lớn kia, tay đã nhuốm đầy máu.
Người nhỏ trước mặt này, e rằng cũng chẳng phải hạng hiền lành gì.

Có thể cùng dìu dắt nhau đi đến hôm nay, làm sao họ có thể bất đồng trong chuyện báo thù?
Nhưng Định Tây hầu làm sao có thể tố cáo được?

“Ngươi yên tâm,” ông ngồi thẳng người, trịnh trọng hứa hẹn:
“Ta sẽ không nói gì cả, một lời cũng không.”

Cái chết của Phùng Chính Bân, thân phận thật sự của A Vi, tất cả sẽ chôn sâu trong lòng ông.

Phủ Định Tây hầu và nhà họ Phùng không có quan hệ gì, còn A Vi chính là cháu ngoại ruột của ông!

Đúng lúc ấy, Văn ma ma thò nửa người ra từ trong phòng ngủ:
“Cô phu nhân tỉnh rồi.”

A Vi vội đứng dậy đi vào.

Định Tây hầu cũng theo sau, nhìn thấy Lục Niệm đã ngồi dậy trên giường, ông liền gọi:
“A Niệm.”

Lục Niệm nhấc mí mắt nhìn ông một cái, ánh mắt lạnh nhạt, rõ ràng không muốn để ý đến ông.

Định Tây hầu có rất nhiều điều muốn nói với nàng, nhưng nghĩ đến sức khỏe và tâm trạng của nàng, ông lại nuốt hết vào trong.

A Vi ngồi xuống bên giường, nắm lấy tay Lục Niệm, xác nhận tay nàng không lạnh cũng không nóng, lúc này mới yên tâm phần nào.

“Sớm hơn con nghĩ đấy.”

Nàng mỉm cười nói.

Lục Niệm đáp:
“Không ngủ sâu được, cứ mơ mãi, nhưng cảm thấy tinh thần khá hơn rồi.”

“Chỉ là trước kia căng thẳng quá thôi,”

A Vi nhẹ nhàng nói, “Cũng giống như chuẩn bị tiệc vậy, ban đầu lo không mua được thịt cá tươi ngon, sau đó lại sợ bếp không đủ lửa, rồi lo khách ít thức ăn thừa nhiều, lại sợ khách đông thì không đủ phần.

Cuối cùng bữa tiệc kết thúc, dọn dẹp xong xuôi, thả lỏng rồi thì toàn thân ê ẩm đau nhức.”

Lục Niệm bật cười.

A Vi lại nói tiếp:
“Bánh long nhãn đã làm xong rồi, bây giờ người có muốn ăn không?”

“Ăn đi,”

Lục Niệm gật đầu, “Ta đang thấy đói đây.”

Nghe vậy, Văn ma ma định đi lấy bánh.

Định Tây hầu như bừng tỉnh, bước nhanh vài bước, tranh lấy đĩa bánh rồi mang về, cẩn thận dâng lên trước mặt Lục Niệm, vẻ mặt đầy lấy lòng.

Lục Niệm cầm lấy một miếng, Định Tây hầu không khỏi thở phào nhẹ nhõm.

Vỏ bánh long nhãn dễ vụn, để tránh rơi vãi lên giường, ông còn khéo léo cầm đĩa đỡ phía dưới.

Lục Niệm ăn liền ba miếng, sau đó mới cầm chén trà súc miệng.

Lúc này A Vi mới nói về kế hoạch tiếp theo:
“Trước tiên chúng ta sẽ ra trang viên ở mấy ngày, sau đó chuyển đến gần Tây Nhai.”

Lục Niệm không phản đối, chỉ nói:
“Vậy mai đi từ đường trước, ta muốn thắp hương cho mẫu thân đàng hoàng.”

Mọi chuyện cứ thế định đoạt.

Màn đêm buông xuống, Xuân Huy viên lại yên bình như chưa từng có biến cố gì.

Tang thị và Liễu nương tử đều ghé thăm, xác nhận Lục Niệm không có gì đáng ngại mới an tâm rời đi.

Lục Tuấn trằn trọc tới sáng, Định Tây hầu thì một đêm không ngủ.

Đợi trời sáng, Lục Niệm và A Vi cùng đến từ đường.

Nàng cẩn thận lau chùi bài vị của Bạch thị, dâng hương rồi đứng lặng trước linh vị, không nói một lời nào.

Một lúc lâu sau, Lục Niệm khẽ nhướng mày, bất chợt mỉm cười.

Nàng xoay người rời khỏi từ đường tối tăm, ngoài sân đã rực rỡ ánh nắng.

Lục Niệm nắm tay A Vi, nói:
“Đi thôi, chúng ta ra trang viên.”

Nửa năm trước, khi hai mẹ con họ trở lại kinh, hành lý chẳng có bao nhiêu.

Sau đó dần dần mua sắm thêm, mới có chút dáng vẻ của một mái nhà.

Thanh Âm không đi cùng ra trang viên.

Đợi tìm được nhà mới, nàng sẽ phụ trách chuyển đồ đạc cần thiết tới đó, sắp xếp ổn thỏa từ trong ra ngoài.

Những món không mang đi thì cùng Diêu ma ma kiểm kê, đưa vào kho cất giữ.

Lục Tuấn nghe xong kế hoạch ấy thì ngây người.

Tang thị khuyên hắn:
“Chỉ cần đại cô nương sống thoải mái tự do là được rồi.

Cứ ở mãi trong hầu phủ để nghe chửi mắng hay đánh đập của chàng à?”

Lục Tuấn im bặt, không nói thêm gì.

A Vi và Lục Niệm nói đi là đi.

Ra trang viên cũng không cần mang theo nhiều đồ đạc, chỉ mang những vật dụng cần thiết bên người.

Lục Niệm cẩn thận bọc chiếc bình sứ bằng vải, đặt vào chiếc rương nhỏ vừa vặn rồi ôm lên xe ngựa.

Phùng Thái phụng mệnh đi tìm nhà ở gần Tây Nhai.

Yêu cầu không ít, nhưng hầu phủ trả giá hào phóng nên nhanh chóng tìm được nơi ưng ý.

Thanh Âm đã đến xem qua, dọn dẹp sạch sẽ rồi mới chuyển hành lý đến.

Đồ đạc cần bày biện đều đã sắp xếp ổn thỏa, bàn thờ cũng không quên bài trí cẩn thận.

Chỉ mất hai ba ngày, nơi ấy đã có thể dọn vào ở.

Theo ý A Vi, chỉ mang theo Thanh Âm và Mao bà tử trông coi bếp núc.

Những người còn lại, Tang thị đều đã sắp xếp chỗ mới.

Chỉ dặn Diêu ma ma mỗi mười ngày đến Xuân Huy viên quét dọn một lần, khi nào đại cô nương muốn quay về ở thì cứ về.

Thế là Xuân Huy viên, sau nửa năm rộn ràng, lại trở nên vắng lặng.

Cuối xuân, hoa nở rực rỡ.

Gặp ngày nghỉ ngơi, Định Tây hầu chậm rãi bước đến Xuân Huy viên.

Cổng viện đã khóa.

Ông lười đi xin chìa khóa từ Tang thị, liền trèo tường vào.

Khi đáp xuống đất, ông phải đứng yên một lúc lâu mới xua tan được cảm giác tê mỏi nơi đầu gối.

Già rồi.

Ông thầm nghĩ.

Khi còn trẻ, bức tường này có là gì đâu?
Ông thực sự không còn là một tráng niên nữa.

Ông đã già rồi, con cái đều trưởng thành, nhưng lại chẳng có lấy một chút cảm giác nhẹ nhõm.

Ông biết A Niệm và A Vi mấy ngày nay ở trang viên sống rất tốt.

A Niệm không tái phát bệnh, ăn uống đều do A Vi chăm lo, người quản trang báo lại rằng: “Tâm trạng Cô phu nhân rất tốt, ăn uống cũng ngon miệng.”

Người đó còn nói, A Niệm học cưỡi ngựa rất nhanh, tư thế cũng đã ra dáng lắm rồi.

Nghe vậy, Định Tây hầu bỗng thấy lòng xao xuyến, muốn lén đến đồng cỏ ở trang viên để từ xa nhìn một chút, nhưng lại sợ A Niệm chán ghét mình.

“Haizz…”

Định Tây hầu thở dài một tiếng.

Xuân Huy viên trống vắng không một bóng người, tựa như những náo nhiệt trước đây chỉ là ảo ảnh thoáng qua, sớm tan biến như hoa trong gương, trăng dưới nước.

Ông đẩy cửa chính bước vào.

Trên bàn thờ không còn chiếc bình sứ, hương án và đồ cúng đều đã được dọn đi, chỉ còn lại chiếc ghế bập bênh lớn vẫn để nơi góc phòng.

Định Tây hầu dứt khoát khiêng nó ra sân, bắt chước dáng vẻ thường ngày của Lục Niệm, ngả người nằm xuống.

Ánh nắng xuân dịu dàng chiếu rọi, không quá gay gắt nhưng cũng đủ để khiến người ta thấy mơ màng.

Ông từng chứng kiến Xuân Huy viên rộn ràng biết bao.

Tiếng cười vui vẻ, bầu không khí đầm ấm.

Bạch thị hoạt bát, những nha hoàn, ma ma bên cạnh bà cũng đều tươi cười rạng rỡ.

Hai đứa trẻ lớn lên trong tiếng cười, những phiền muộn chỉ là những chuyện vụn vặt khiến người ta vừa buồn cười vừa thương.

Huống hồ gì khi đó, A Niệm và A Tuấn vẫn còn nhỏ lắm.

Chúng khóc thì khóc to, mà cười cũng thật giòn giã.

Khi ấy, A Niệm rất thân thiết với ông.
Ông làm trống lắc tay cho con gái, bế nó cưỡi ngựa lớn, hứa sẽ mua cho nó thật nhiều món ngon, lại nói sẽ may cho nó những bộ y phục đẹp, rồi dẫn nó đi gặp thật nhiều bạn bè mới.

Nhưng rồi…

Ông quên mất A Niệm thích ăn món điểm tâm nào, thậm chí không biết con bé ghét ăn trứng chần nước.

Cưỡi ngựa ư?

Giờ đây A Niệm mới bắt đầu học cưỡi ngựa.

A Niệm cũng chẳng có nhiều bạn thân, dù có quần áo đẹp và trang sức quý giá, nhưng người bạn mà con bé thật lòng yêu quý cũng chỉ có một.

Ba mươi năm trôi qua, A Niệm đã trưởng thành, nhưng cũng đã mắc bệnh.

Con bé vẫn cười lớn đầy thoải mái, nhưng dáng vẻ khi phát bệnh lại khắc sâu vào tâm trí Định Tây hầu, không thể nào xóa nhòa.

Con bé không còn gần gũi với người nhà, mà lại chăm sóc Liễu nương tử vì nàng ấy hiểu con bé; ủng hộ thê tử của A Tuấn vì nàng ấy cảm thông với con bé.

Con bé nương tựa vào A Vi, hai kẻ đáng thương ấy không đắm chìm trong đau khổ mà dìu dắt nhau đi qua máu lửa để tìm con đường sống.

Định Tây hầu hít sâu một hơi.

Ông nhớ lại từng khoảnh khắc nhỏ nhặt trong nửa năm qua.

Họ không phải mẹ con ruột thịt, nhưng tình cảm lại thân thiết hơn nhiều mối quan hệ mẹ con khác.

Khi A Niệm phát bệnh, không nhận ra ai, đánh đập mọi người, A Vi sợ Nàng làm tổn thương chính mình nên dùng tay chắn giữa hàm răng nghiến chặt của Nàng, để lại đầy vết máu.

Đợi A Niệm tỉnh táo lại, Nàng ôm chặt A Vi, khóc nức nở xin lỗi, cả hai cùng nghẹn ngào trong nước mắt.

Họ cùng nhau vào nha môn, A Niệm miệng nói “lấy đức phục người”, A Vi dịu dàng khoác tay Nàng, nói đủ thứ chuyện ăn uống để xoa dịu cơn sóng lòng đang dâng trào.

Họ cùng nhau đập phá Thu Bích viên, A Vi đưa đồ, A Niệm ném, phối hợp ăn ý như đã luyện tập từ lâu.

Con gái ruột của A Niệm đã mất.

A Vi của nhà họ Dư, giờ đây nằm trong chiếc bình sứ ấy.

Vì vậy, vào đêm Giao thừa, A Niệm tự tay bày mâm cỗ cúng trên bàn thờ.

Mười sáu chiếc bánh bao, tượng trưng cho tuổi mười sáu mà con gái nàng chưa kịp chạm tới.

Định Tây hầu chưa từng gặp đứa trẻ ấy, không biết dung mạo hay tính cách ra sao.

Ông chỉ kịp quen biết A Vi của hiện tại.

Đứa trẻ cũng đã trải qua khổ đau ấy, gọi ông một tiếng “ngoại tổ phụ”.

A Vi nấu ăn rất ngon, ông từng thưởng thức qua nhiều món nàng làm.

Cay có, ngọt có.

A Vi từng mang trà hoa quả tự tay nấu đến Thiên Bộ Lang, cũng từng đích thân chuẩn bị bàn tiệc thịnh soạn mừng sinh nhật ông.

Thành thật mà nói, A Vi làm tất cả những điều ấy không phải vì tình thân sâu đậm, ông chỉ là một “ngoại tổ phụ hờ” trong mắt nàng.

Thế nhưng vào thời điểm ấy, ông thực sự cảm thấy hạnh phúc.

Bây giờ nghĩ lại, lòng ông vẫn tràn đầy niềm vui.

Ông ngả lưng mạnh hơn một chút, chiếc ghế bập bênh kêu kẽo kẹt, lắc lư qua lại.

Rõ ràng là ánh nắng xuân ấm áp, nhưng sao ông lại cảm thấy cô đơn đến vậy?

Vì tiền đồ, vì sủng ái của Hoàng thượng, cả cuộc đời ông đều đặt trọng tâm nơi triều chính.

Giờ đây mấy chục năm trôi qua trong chớp mắt, cuối cùng chỉ còn lại Xuân Huy viên vắng lặng, thê lương như tiết thu.

Đột nhiên, Định Tây hầu nhớ lại lời A Vi từng nói:

“Thân phận cao quý như ngài, chẳng lẽ muốn có một kết cục cô độc, bị tất cả mọi người quay lưng sao?”

Câu nói ấy cứ vang vọng bên tai ông, từng chữ như nhát búa nện thẳng vào tim, khiến lòng ông run rẩy không yên.

Không biết từ lúc nào, trước mắt ông trở nên mơ hồ.

Định Tây hầu đưa tay lên, lau mạnh một cái, lòng bàn tay ướt đẫm.

Cảm xúc càng lúc càng khó kiềm chế.

Ở Xuân Huy viên trống trải này, ông không cần phải gượng ép bản thân nữa.

Hai tay ôm lấy mặt, ông bật khóc nức nở, nước mắt già nua lăn dài không dứt.

Bình Luận (0)
Comment