Có lẽ đó chỉ là phép tắc tiếp khách của Chu Thừa Ý với tư cách là quản lý cửa hàng,
nhưng rơi vào tai Ngu Cốc Thu lại khiến cô hơi rùng mình. Cô không kìm được mà nghĩ: trong mấy lời nịnh hót kia liệu có ẩn ý gì không? Chẳng lẽ… anh ta biết được điều gì rồi ư?
Không thể nào.
Ngay cả Hứa Quỳnh còn chẳng nhận ra cô, Chu Thừa Ý lại càng không thể biết được.
Ngu Cốc Thu không chắc mình có phải đã lộ ra biểu cảm co giật nào không, vì Chu Thừa Ý nhìn cô, vẻ mặt rõ ràng thoáng qua kinh ngạc, rồi đến lúng túng, kế đó là im lặng, cuối cùng đành thật thà hỏi: “Cô hôm nay đến xem gì thế? Có cần tôi giúp giới thiệu vài món không?”
Lúc này Ngu Cốc Thu mới sực nhớ ra là vẫn chưa xem qua máy massage, nhưng thực ra cô chỉ đến đây để thăm dò trước. Trong lòng cô đã tính sẵn, nếu ở nhà Thang Tuấn Niên không có máy massage, thì lần sau sẽ đưa anh đến đây cùng.
“Không cần, cảm ơn.”
Cô bước ra được hai bước, lại quay đầu lại: “Đúng rồi, quản lý Chu.”
Chu Thừa Ý tươi cười nhìn sang.
“Xin hỏi anh có mặt ở cửa hàng mỗi ngày sao?”
Anh ta đáp nhẹ nhàng: “Ừ! Thông thường thì thứ Tư tôi sẽ nghỉ, nếu cô đến, nhớ đừng trúng đúng hôm đó nhé.”
“Được rồi.” Nhất định là sẽ trúng hôm đó.
Ngu Cốc Thu nặn ra nụ cười gượng gạo: “Tạm biệt.”
–
Ngu Cốc Thu đến cửa hàng điện máy không phải là nhất thời nổi hứng, bởi cô đang chọn quà sinh nhật cho Thang Tuấn Niên.
Sinh nhật của anh sắp đến rồi, ngày 22 tháng 12, trước đêm Giáng Sinh hai ngày,
một ngày rất dễ nhớ. Nhưng thế cũng chưa đủ để khiến người ta nhớ suốt mười năm.
Nếu trong đời cô chưa từng trải qua ngày 22 tháng 12 mười năm trước, có lẽ giờ đây cô cũng chẳng nhớ nổi.
Hôm ấy là ngày mọi người đến hội trường tập duyệt cho buổi biểu diễn chào năm mới. Từng lớp một đều tham gia, lớp của họ diễn một vở kịch chẳng có gì mới mẻ, điểm sáng duy nhất chính là Thang Tuấn Niên.
Anh được bầu chọn với số phiếu áp đảo để đóng vai hoàng tử. Dù bộ lễ phục kia để tiết kiệm chi phí mà mua loại rẻ nhất, lại còn hơi không vừa, nhưng khoác lên người anh thì liền biến đổi hẳn, hàng nhái bỗng chốc mang khí chất khác, khiến người ta lầm tưởng nó là món báu vật thật sự lưu truyền từ một quý tộc sa sút thời Trung cổ.
Còn về phần cô, ngay cả vai quần chúng cũng chẳng tới lượt, chỉ đứng ở góc khuất nhất kéo màn vải mà thôi.
Đó là kết quả của việc cô chủ động xin đảm nhận công việc này. Cô không muốn lên sân khấu biểu diễn, không thích cảm giác chờ đợi người khác nhìn về phía mình, rồi cuối cùng lại hụt hẫng khi chẳng ai thật sự nhìn thấy. Nếu đã thế, chi bằng đừng lên sân khấu còn hơn.
Thế nhưng, cô lại muốn có thêm chút tiếp xúc với Thang Tuấn Niên. Những buổi tập dượt thường sẽ chiếm khá nhiều thời gian, vậy nên việc xin vào hậu trường trở thành lựa chọn tốt nhất.
Tính toán thì nghe có vẻ hoàn hảo, nhưng đến khi thật sự bước vào giai đoạn tập dượt, hai người lại chẳng hề có chút giao tiếp nào.
Cô đã bỏ sót một điều vô cùng quan trọng, trong những buổi tập bình thường căn bản không cần kéo màn, phải đến ngày tổng duyệt mới có việc cho cô làm.
Khó khăn lắm mới chờ được đến ngày tổng duyệt, cuối cùng cũng có thể xem như khổ tận cam lai. Mà trùng hợp thay, hôm ấy lại đúng là sinh nhật của Thang Tuấn Niên.
Trước đó cô còn băn khoăn không biết nên tặng quà thế nào, bây giờ thì thật đúng là thiên thời địa lợi nhân hòa, cô nghĩ lần này chắc có thể nhân cơ hội mà trao quà rồi.
Thực tế thì quả thật đã có cơ hội, chỉ là không riêng mình cô.
Nữ chính của vở kịch chủ động đề nghị tạo một bất ngờ cho Thang Tuấn Niên, mọi người đều đồng ý, gom hết quà của từng người lại. Cảnh cuối cùng là màn Thang Tuấn Niên một mình chào khán giả, mọi người sẽ lợi dụng lúc ấy chạy ra sau cánh gà, chuẩn bị sẵn bánh kem và quà tặng.
Nhưng trong đó không có Ngu Cốc Thu.
Dù cô cũng góp một món quà, nhưng không thể tham gia cùng họ, vì cô chính là người kéo màn, người được giao trọng trách giữ bí mật với Thang Tuấn Niên. Họ còn vỗ vai cô, bảo: “Nhiệm vụ của cậu rất quan trọng đấy.”
Mọi việc tiến hành rất suôn sẻ. Khi màn cuối kết thúc, cô ra sức kéo dây cho tấm màn khép lại, mồ hôi túa đầy trán.
Bên ngoài màn vang lên tiếng sột soạt, nữ chính gọi tên Thang Tuấn Niên, kéo tấm màn ra, lôi anh đi ra ngoài. Chờ đón anh là tiếng hô vang đồng thanh: “Chúc mừng sinh nhật!”
Lúc này, Ngu Cốc Thu mà bước ra thì đã không hợp lúc nữa. Cô len lén vén một góc màn lên, nhìn thấy nữ chính nâng chiếc bánh kem cô đã đặt, cất giọng hát bài “Chúc mừng sinh nhật”, thấy từng người chỉ tay vào đống quà kia, nói rằng trong đó có phần của mình.
Cô thấy Thang Tuấn Niên cảm kích nhận lấy bánh, ánh mắt lần lượt nhìn từng người, dịu dàng nói lời cảm ơn.
Anh thổi tắt nến, nhắm mắt lại, nhanh chóng cầu một điều ước, rồi cắt chiếc bánh sinh nhật ra.
Chiếc bánh không lớn lắm, mà số bạn tham gia diễn kịch thì lại nhiều. Cắt ra vừa khít, miễn cưỡng mới đủ, nhưng dù sao cũng đủ cả. Mọi chuyện đều rất viên mãn, Ngu Cốc Thu nhìn họ chuyền tay nhau từng chiếc đĩa bánh, vui vẻ ăn uống, không còn sót lại lấy một miếng.
Cô nhẹ nhàng buông tấm màn xuống.
Lò sưởi trong hội trường bật rất to, Ngu Cốc Thu đứng sau tấm màn không một bóng người, đưa tay lau đi giọt mồ hôi vừa lăn xuống trán.
“Ngu Cốc Thu?”
Đúng lúc ấy, cô nghe thấy có người gọi tên mình.
Người vừa được bao quanh giữa ánh đèn và tiếng chúc tụng khi nãy, giờ lại thò đầu vào góc tấm màn, nhìn về phía cô. Ngu Cốc Thu sững người, hơi luống cuống quay người sang bên, không muốn để Thang Tuấn Niên thấy dáng vẻ mình mồ hôi nhễ nhại, nên cũng chẳng dám nhìn thẳng vào anh, chỉ lúng túng hỏi:
“Có chuyện gì sao?”
“Mình thấy món quà cậu tặng rồi.” Trong tay anh là một chiếc hộp quà trông chẳng có gì nổi bật, chính là món quà cô đã lẫn vào đống quà chung, chưa từng có cơ hội trao tận tay anh. “Vẫn chưa kịp nói lời cảm ơn.”
“…Không có gì.”
“Còn nữa, cho cậu bánh này.”
Thì ra trong tay kia của anh vẫn còn cầm một miếng bánh ngọt.
Ngu Cốc Thu vừa định nói chẳng phải bánh đã chia hết rồi sao, ánh mắt lại dừng trên chiếc đĩa trong tay anh, miếng bánh ấy lớn hơn hẳn phần của người khác, trên mặt còn cắm tấm bảng nhỏ ghi dòng chữ “Chúc mừng sinh nhật” chỉ dành cho nhân vật chính.
Anh mang phần bánh vốn thuộc về mình, đưa cho cô.
Khi ấy, Ngu Cốc Thu vẫn nghĩ đó là điểm đặc biệt nơi Thang Tuấn Niên, rằng anh luôn có thể chú ý đến người kéo màn lặng lẽ phía sau, giống như khi kiểm phiếu cũng có thể phát hiện có một phiếu chưa bầu, nên tình nguyện nhường phần của mình để bù vào.
Nhưng bây giờ nhìn lại, có lẽ không chỉ vì sau tấm màn còn sót lại một người, mà là vì người bị sót lại ấy, chính là cô.
Tiếc rằng khi ấy, cô chẳng hề biết đến chút nỗi niềm sâu trong lòng anh, nên dù thế nào cũng không chịu nhận. Cô không muốn để nhân vật chính của ngày hôm đó phải nhịn ăn bánh, huống hồ người ấy lại là chàng trai cô thích.
Cô mím môi, nói mình đang giảm cân, rồi nhìn anh ngẩn người một lúc, lặng lẽ cầm miếng bánh rời đi. Tấm màn dày nặng lại buông xuống, và ngăn cách họ suốt mười năm.
Nghĩ đến đây, nơi lồng ngực cô trào dâng một nỗi tiếc nuối khó tả. Chàng hoàng tử năm nào vẫn khoác lên mình bộ đồ xám giản dị, giờ liệu còn ai sẽ vây quanh, cùng anh mua bánh, hát mừng sinh nhật nữa không?
Chắc là không rồi.
Nhưng cô gái từng ẩn mình sau cánh gà năm ấy, vẫn sẽ dốc sức kéo mở tấm màn, đến lượt mình bước ra sân khấu, đứng trước mặt anh, tự tay trao món quà của chính mình, cô nhất định sẽ làm được.
Trên chuyến tàu điện đang lắc lư, Ngu Cốc Thu gửi tin nhắn cho Thang Tuấn Niên.
“Tôi hỏi anh cái này nhé, nhà anh có máy massage không?”
Thang Tuấn Niên hơi ngạc nhiên vì câu hỏi bất ngờ, nhưng vẫn thành thật trả lời: “Không có.”
Ngu Cốc Thu giả vờ thở dài: “Ồ… Tôi định mua một cái, muốn hỏi thử ý kiến anh. Anh không có cũng không sao, nhưng anh có thể bớt chút thời gian đi cùng tôi mua được không? Dù gì anh cũng rành về massage mà. Cửa hàng ngay gần Thanh Thân đó!”
Lời đã nói đến mức ấy rồi, Thang Tuấn Niên chẳng có lý do gì để từ chối. Chỉ là chuyện nhỏ, vấn đề còn lại là sắp xếp thời gian. Cô tính rõ ràng muốn đi vào thứ Tư, nhưng trớ trêu thay, cả tuần này lẫn tuần sau Thang Tuấn Niên đều phải trực một ngày. Đến tuần sau nữa thì đã qua sinh nhật anh mất rồi.
Ngu Cốc Thu ngửa mặt than dài một tiếng, xem ra không tránh được chuyện phải chạm mặt Chu Thừa Ý. Người ta nói “oan gia ngõ hẹp”, lời của cổ nhân quả thật chẳng sai.
Thế nhưng, đôi khi con đường gặp “oan gia” còn hẹp hơn cô tưởng, gần như chỉ là một thanh thăng bằng, mà cô chỉ có một mình, khó lòng giữ vững.
Ngu Cốc Thu mở điện thoại, lật tới lịch ghi chú. Trên đó hiện dòng nhắc nhở mới nhất: hai ngày nữa, lại có một người khác cũng sinh nhật.
Đó là Dung Chi Lan, người vừa mới nhập viện.
Và ngày hôm đó, Ngu Cốc Thu đã trực tiếp nhìn thấy cả bốn người trong gia đình họ.
Viện dưỡng lão thường tổ chức tiệc sinh nhật cho các cụ vào đúng ngày sinh của họ. Gọi là tiệc sinh nhật, nhưng thật ra cũng đơn giản thôi, trong bữa ăn chỉ thêm một bát mì trường thọ, rồi các hộ lý cùng nhau hát bài chúc mừng sinh nhật.
Sinh nhật của Dung Chi Lan cũng không ngoại lệ. Hôm ấy sức khỏe bà khá tốt, nhớ rõ hôm nay là sinh nhật mình, cũng không nhận nhầm ai, vui vẻ ăn hết một bát mì trường thọ.
Sau đó, Ngu Cốc Thu dẫn bà về phòng nghỉ trưa. Vừa mở cửa, pháo giấy nhỏ liền nổ tung trên đầu bà.
Người cầm pháo giấy, Ngu Cốc Thu chưa từng gặp bao giờ, nhưng chỉ trong khoảnh khắc, cô liền nhớ ra, cô từng thấy người này trên Moments của Hứa Quỳnh, trong tấm hình mặc váy cưới.
Đó là con gái của Hứa Quỳnh.
Cô ấy đang mang thai, bụng đã rất lớn, bị dọa một trận nên vội vàng đưa tay vỗ ngực, lẩm bẩm: “Trời ơi, sao lại là cô vào trước, tôi cứ tưởng là bà ngoại cơ!”
Hứa Quỳnh hoảng hốt kêu lên: “Đã bảo con phải cẩn thận một chút rồi, đang có thai mà còn bất cẩn thế!”
Chu Thừa Ý trong tay cũng cầm pháo giấy, từ phía sau ló đầu ra: “Đúng đó! Rõ ràng là chị không nhìn kỹ mà còn trách người ta, nhìn em đi, điềm tĩnh biết bao! Này, bà ngoại——”
Lúc này, Dung Chi Lan vừa bước vào phòng, cuối cùng cũng nhận được loạt pháo giấy đúng dịp.
Có điều Chu Thừa Ý vẫn bị mắng, Hứa Quỳnh khẽ gõ một cái lên đầu anh ta: “Lát nữa đống dây kim tuyến đầy sàn này để con dọn, đừng khiến Tiểu Cốc phải làm thêm việc.”
Dung Chi Lan cười ha ha: “Các con đều đến cả rồi à!”
Hai người đàn ông trung niên tóc đã lốm đốm bạc cũng ôm hoa tươi bước vào, cười nói: “Mẹ ăn sinh nhật mà, chúng con nhất định phải có mặt chứ.”
Lúc ấy, những dải kim tuyến bắn nhầm vẫn còn vướng trên tóc Ngu Cốc Thu.
Cô đứng nguyên ở cửa, chưa kịp bước vào, sau lưng dựa vào bộ tản nhiệt đang tỏa hơi nóng, khiến lưng cô nóng ran. Cô tiện tay lau mồ hôi nơi thái dương, không hay biết những sợi kim tuyến kia vẫn buồn cười đậu trên tóc, biến cô thành một món đồ trang trí xinh đẹp, lặng lẽ đứng ở góc phòng.
Ngu Cốc Thu mồ hôi ướt đẫm, cô thầm nghĩ, vì sao cuộc đời cô lúc nào cũng như bị nung trong ngọn lửa rực nóng, luôn kẹt trong một góc nhỏ vừa hẹp vừa bức bối như thế này.
Luôn có một tấm màn chắn trước mặt, hữu hình hoặc vô hình, cô không biết mình nên làm gì: là xông ra, hay trốn đi.
Nếu chọn xông ra, thì chẳng có ai dạy cô phải làm sao, chẳng ai từng dạy cả. Cô đành dựa vào tưởng tượng, tưởng tượng cảnh đón chờ mình sẽ là áy náy, nước mắt, và một cái ôm. Hoặc nếu cần dùng những từ chính xác hơn: là chút áy náy nhạt nhòa, giọt nước mắt giả tạo, cái ôm gượng gạo.
Trước khi mồ hôi tuôn ra dữ dội hơn, Ngu Cốc Thu lựa chọn bình tĩnh rời khỏi căn phòng. Cô tự nhủ mình vẫn là người chiến thắng, vì bình tĩnh chính là dáng vẻ kiêu hãnh nhất, dù rằng trước mắt cô, vẫn chỉ là võ đài trống trơn chẳng có ai.
–
Giờ nghỉ trưa kết thúc, Ngu Cốc Thu điều chỉnh lại cảm xúc rồi quay lại phòng của Dung Chi Lan.
Cả nhà bốn người kia đã đi rồi, những bó hoa họ mang đến vẫn chất đống bên đầu giường. Trong phòng không có lọ hoa, cô đặc biệt chạy đến phòng trực để lấy một cái mang về. Khi bước vào, Dung Chi Lan đang chuẩn bị lên giường nằm, bà ngoái đầu nhìn cô, cằn nhằn: “Vừa nãy chẳng phải con đi rồi sao, sao lại quay lại nữa, quên đồ à? Cái tật đãng trí này của con bao giờ mới sửa được hả?”
Ngu Cốc Thu sững lại một thoáng, cô lập tức hiểu ra, Dung Chi Lan lại phát bệnh, nhận nhầm cô thành một trong bốn người khi nãy.
Cô cố nén cảm giác ngờ ngợ, thuận theo lời bà mà đáp: “Còn một cái lọ hoa quên chưa mang đến cho mẹ.”
“Ờ, để đó đi, để đó đi.”
Dung Chi Lan ngồi bên mép giường, miệng vẫn lẩm bẩm lặp đi lặp lại.
Ngu Cốc Thu đặt lọ hoa xuống đầu giường, hỏi bà muốn tự cắm hoa hay để cô giúp, nhưng Dung Chi Lan không trả lời, chỉ nhìn chằm chằm vào mặt cô.
Bà nhìn hồi lâu, rồi bỗng cau mày đầy khó hiểu:
“Quỳnh Quỳnh à, sao vết thương trên mặt con khỏi rồi thế, vừa nãy mẹ còn không nhận ra đấy!”
Quỳnh Quỳnh… hóa ra Dung Chi Lan đã nhận nhầm cô thành con gái mình.
Chẳng lẽ họ thật sự có nét giống nhau ư? Cô chưa từng thấy dung mạo bà ấy trước khi bị hủy dung, có lẽ… cũng có thể.
Ngu Cốc Thu thấy cay đắng đến chua xót, duyên phận mẹ con giữa hai người họ, rốt cuộc chỉ tồn tại ở đây, trong một phút lẫn lộn của một bà lão đã lãng trí.
“Dạ, mặt con đỡ nhiều rồi, mẹ yên tâm đi.”
Cô lựa lời dịu dàng mà an ủi.
Dung Chi Lan ngẩn người, chậm rãi đứng dậy bước đến trước mặt cô, đầu ngón tay khẽ chạm vào nửa bên mặt nhẵn mịn không còn vết sẹo, thở dài nói: “Mẹ cứ lo mặt con cả đời này sẽ chẳng lành được. Con vốn là đứa thích làm đẹp, nếu mặt có sẹo thì nửa đời sau biết làm sao…?”
Ngu Cốc Thu chỉ mỉm cười, không biết nên đáp thế nào.
“Con thật sự không nên chắn thay đứa nhỏ đó,” Dung Chi Lan lại nói, “Nước nóng ấy không đến mức chết người, cùng lắm cũng chỉ thêm vài vết sẹo thôi. Con gái thì không nên bị vậy, nhưng con bé đó thì đầy người đều là sẹo rồi, gả đi cũng chẳng ai chê được nữa, làm sao mà gả không đi chứ.” Bà buông tay xuống, trong giọng vẫn vương chút oán trách: “Ngược lại, con lại hại chính mình, nửa đời này chẳng ngẩng đầu lên nổi.”
Ngu Cốc Thu bàng hoàng hỏi lại: “Chắn thay đứa nhỏ đó…?”
Dung Chi Lan hiểu nhầm vẻ mặt cô, khẽ nói: “Quên đi là được rồi, quên đi là được rồi, là mẹ không nên nhắc lại. Đứa con gả đi rồi cũng như gáo nước hắt đi… là phải quên thôi.”
Bà lẩm bẩm, ánh mắt dừng lại trên chiếc lọ hoa trống trơn, còn hoa vẫn nằm tản mác ở nơi khác.
–
Thang Tuấn Niên nhận được cuộc gọi của Ngu Cốc Thu khi anh đang ở trung tâm huấn luyện chó dẫn đường, tham dự buổi hướng dẫn về việc “nghỉ hưu” của chúng.
“Từ hôm nay trở đi, khối lượng công việc của Phi Phi sẽ được giảm dần, nó sẽ không còn dẫn anh đi trên những tuyến đường phức tạp nữa. Nó cần học cách sống như một ‘chú chó cưng’, được người khác v**t v*, ăn vặt một chút, chơi bóng một chút.”
“Vậy có nghĩa là… khi đang đi đường, tôi có thể dừng lại và v**t v* nó sao…?”
“Đúng vậy, để nó dần nhận ra rằng đây không còn là công việc nữa. Còn về phần anh, có thể khi tạm thời rời xa chó dẫn đường, phải dựa vào gậy dò đường sẽ thấy không quen, nhưng…”
Thang Tuấn Niên nhẹ giọng cắt lời: “Không đâu, tôi đã bắt đầu làm quen với việc đó rồi.”
“Ồ… vậy thì tốt quá.” Nhân viên gãi đầu, có chút ngượng ngùng nói: “Tôi đang định trao đổi với anh về chuyện chú chó dẫn đường tiếp theo, có lẽ trong chốc lát vẫn chưa thể sắp xếp phù hợp được…
Thang Tuấn Niên lại mỉm cười, cắt ngang lời họ.
“Thật ra tôi cũng đang định nói chuyện này, không cần phải tốn công tìm cho tôi một con chó dẫn đường mới nữa.”
“Ơ?”
“Tôi từng có Phi Phi là đủ rồi, với tôi, nó là con chó dẫn đường duy nhất.” Anh lại sửa giọng, “Phải nói rằng, trong quãng đời đã qua, nó là người bạn tốt duy nhất của tôi.”
Vốn dĩ Phi Phi là một chú chó rất yên tĩnh trong công việc, chỉ khi gặp nguy hiểm mới phát ra tiếng, vậy mà lúc này nó bỗng kêu khẽ một tiếng.
Nhân viên giật mình, khóe mắt chợt thấy một chiếc nắp chai lăn lông lốc qua, dừng lại ngay gần chỗ đứng của Thang Tuấn Niên.
Người làm rơi vội vàng chạy đến nhặt lên, nhân viên thở phào, lắc đầu cười: “Vừa rồi tôi còn tưởng Phi Phi đang đáp lại lời anh, hóa ra là có vật cản. Nó đúng là một con chó dẫn đường thông minh thật đấy.”
“Đương nhiên rồi, nó là giỏi nhất.” Trên gương mặt Thang Tuấn Niên hiện lên vẻ tự hào.
Nhân viên bật cười gượng, trong lòng muốn nói, so với bạn bè, anh còn giống một ông bố cưng chiều con mình hơn.
Anh ta nén lại, rồi nhắc khẽ: “Lúc này, anh có thể thử v**t v* nó đi.”
“…Có thể sao?”
“Có thể.”
Thang Tuấn Niên thoáng bối rối.
Anh từ từ ngồi xuống, men theo sợi dây từng chút một mà lần mò, cuối cùng chạm được vào lớp lông mềm mại. Hơi ấm từ thân thể chú chó truyền sang lòng bàn tay anh. Động tác của anh vẫn còn dè dặt, một lần, hai lần, rồi dần dần trở nên tự nhiên hơn. Bàn tay ấy như thể lần đầu tiên học được cách v**t v*.
Phi Phi trông có vẻ khó hiểu, thân thể khẽ nhún một cái, chiếc đuôi lại bắt đầu ve vẩy, đầu lưỡi thè ra, nghiêng đầu nhìn người chủ đang nhẹ nhàng v**t v* mình.
Thang Tuấn Niên khẽ dừng tay, bàn tay lơ lửng giữa không trung, do dự không biết nên tiếp tục hay dừng lại.
Nhân viên hướng dẫn nhẹ giọng nói: “Không sao đâu, chỉ là nó hơi bối rối một chút… anh cứ tiếp tục đi.”
Thang Tuấn Niên lại nhẹ nhàng đặt tay lên lưng Phi Phi, nhưng nó vẫn bất an.
Với nó, sự v**t v* đồng nghĩa với sai lệch. Trong lúc làm việc, nó phải sống trong im lặng tuyệt đối, điều ấy đã khắc sâu suốt quãng đời ngắn ngủi của nó. Nó không thể giống những chú chó cưng khác mà được người ta khen ngợi, vì “đôi mắt” không thể quá phấn khích; chỉ cần chớp mắt nhanh hơn một chút, cả thế giới sẽ trở nên mờ nhòe.
Vì thế, giữa họ là sự nương tựa, mà gần gũi lại ít ỏi vô cùng. Phần lớn thời gian, họ chỉ kết nối bằng một sợi dây, cùng nhau đi qua những con phố dài, đi qua những tòa nhà cao tầng, đi qua cô độc, đi đến tận cùng của ngày tháng.
Trong ngày đếm ngược cho cuộc chia ly của họ, Thang Tuấn Niên đặt bàn tay xuống, cuối cùng không còn phải lo rằng sự chạm vào của mình sẽ khiến nó rối loạn nữa. Anh có thể khen ngợi nó, như bao chú chó khác, rằng làm tốt rồi thì được thưởng, có một bàn tay ấm áp vuốt nhẹ qua trán nó.
“Cảm ơn nhé.” Anh cẩn trọng nói.
Ngay sau đó, điện thoại vang lên. Anh không cần nghe cũng biết là ai ——
Chỉ là cô vốn dĩ chẳng bao giờ tự gọi, thường chỉ gửi tin nhắn thoại.
Anh thấy lạ rồi nhấc máy, giọng Ngu Cốc Thu ở đầu bên kia vang lên, rời rạc và thẫn thờ: “Có thể… gặp anh một lúc được không?”
Nghe thấy giọng cô khác hẳn thường ngày, Thang Tuấn Niên bỗng có cảm giác, như thể trước mặt anh là một chú chó nhỏ khác, cũng cần được anh dịu dàng v**t v*.
Anh hạ giọng, nói thật khẽ: “Cô đang ở đâu?”