Bách Yêu Phổ 5 - Sa La Song Thụ

Chương 19

4.

Đã là ngày thứ ba nàng ở lại thôn Long Vỹ, vậy mà vẫn chưa thể rời đi.

Trên đường đến đây, nàng cũng đã đi qua không ít thành trấn làng mạc, tuy chẳng nơi nào gọi là phồn hoa, nhưng cũng không đâu hoang vu như nơi này, cả thôn chỉ còn một hộ gia đình. Lão Hoắc mất rồi, giờ chỉ còn lại Hà Đông Lai và Mạc Tiểu Vận trông nom. Những căn nhà khác đều trống không. Nếu không nhờ nhà Lão Hoắc còn chút hơi người, nơi đây chẳng khác gì một ngôi làng ma bị quên lãng.

Hà Đông Lai kể, nửa tháng trước, Vương Đại Tuyền ở đầu thôn đã dắt cả gia đình rời đi, từ đó, họ cũng mất luôn người hàng xóm cuối cùng. Vương Đại Tuyền là người tốt, trước khi đi còn để lại ít lương thực cho họ. Khi ấy Lão Hoắc vẫn còn, tiễn người ra khỏi thôn, câu cuối cùng Vương Đại Tuyền nói với lão là: “Đừng ở lại nữa, nơi này thật sự chẳng còn gì.”

Dưới ánh nắng sớm, Lão Hoắc vẫy tay, mỉm cười chúc: “Thượng lộ bình an.”

Nàng, người đã làm “A Hảo tỷ” suốt ba ngày, lúc này đang đứng trước mảnh vườn rau sau nhà. Trong luống rau mọc lưa thưa mấy loại rau xanh chẳng biết tên, trông có vẻ héo hắt. Ba con gà đang nhẩn nha mổ đất ở mép vườn, hai đứa trẻ bận rộn gia cố ổ gà bên cạnh. Bọn chúng còn đặt tên cho lũ gà: Đại Tráng, Nhị Tráng, Tiểu Tráng, đó là kỳ vọng giản đơn nhất của chúng. Trong thế giới của chúng, trứng gà còn quý hơn cả vàng, mà thật ra chúng chẳng biết vàng là gì, chỉ biết thức ăn mới là tất cả.

Phía sau vườn là một con sông không rộng lắm, bên kia bờ là đồi núi phủ rừng cây, xa hơn nữa là vùng hoang mạc khô cằn, cuối cùng mờ mờ ẩn hiện là dãy núi tuyết chìm trong mây. Địa hình vùng biên giới của đế quốc vốn phức tạp hơn bất kỳ nơi nào, khiến con người ta khó mà có được cảm giác an toàn. Trong mọi ngóc ngách và bóng tối, dường như đều ẩn chứa nguy cơ không thể lường trước.

Lúc này, Hà Đông Lai và Mạc Tiểu Vận đang mang giỏ tre, cầm xẻng con, lần lượt kiểm tra mặt đất giữa ngôi nhà và bờ sông. Thỉnh thoảng, họ lại cúi người dùng xẻng chọc chọc xuống đất.

Họ đang kiểm tra cơ quan ngầm dưới đất, là những chiếc bẫy do chính tay Lão Hoắc chế tạo, còn ghê gớm hơn cả bẫy thú. Những bẫy này cần thay đổi vị trí định kỳ, tuyệt đối không để lộ quy luật. Chỉ có họ mới biết đường đi an toàn. Bọn trẻ dù chẳng hiểu vàng quý ra sao, nhưng lại rất rõ cách để bảo vệ mình trong một môi trường tồi tệ như thế này.

Bọn họ nói: bẫy không phải để phòng thú dữ, mà để phòng người, những kẻ còn tàn bạo hơn cả thú dữ.

Trước khi họ đến thôn Long Vỹ, binh sĩ vùng biên ải đã trải qua không biết bao nhiêu trận chiến lớn nhỏ. Nhưng lũ man di thèm khát lãnh thổ đế quốc thì ngày một mạnh, trong khi hậu phương lại thiếu tiếp viện. Sau nhiều lần cân nhắc được mất, khu vực vốn chẳng mấy quan trọng này đành bị buông bỏ.

Từ lúc ấy, thôn Long Vỹ và những làng trấn xung quanh bắt đầu suy tàn.

Mất đi sự bảo vệ vốn dĩ hiển nhiên, quân địch tràn vào như thác lũ. Gọi là quân đội, nhưng chẳng khác gì ăn cướp: cướp tiền, cướp lương, cướp người, chỉ cần thứ gì lọt vào mắt chúng, dù là một con chó, cũng không thoát khỏi. Không cướp được thì đốt, đó chỉ chuyện thường ngày. Ban đầu, dân làng không chịu khuất phục, còn tự lập dân đoàn để chiến đấu đến cùng, nhưng thực lực cách biệt quá xa. Vài năm ngắn ngủi, kết cục nhà tan cửa nát đã trở thành điều hiển nhiên, thế là chỉ còn một con đường: chạy trốn.

Người không trốn, chỉ còn lại Lão Hoắc.

Mạc Tiểu Vận kể: nàng và Hà Đông Lai từng đồng hành đi ngang qua thôn Long Vỹ, suýt thì chết rét giữa trận bão tuyết, chính Lão Hoắc đã nhặt họ về. Hai bát canh nóng cứu họ từ cõi chết quay lại.

Năm đó, tám đứa trẻ trong nhà Lão Hoắc, đứa lớn nhất mới bảy tuổi, đứa nhỏ nhất chỉ vừa mới biết đi. Một đám bé con, gầy còm như mèo hoang đói khát, chen chúc trước mặt hai người, vừa nuốt nước miếng vừa nhìn chằm chằm thức ăn trên tay họ, cả tám đứa đều là những đứa trẻ mồ côi mà Lão Hoắc nhặt được. Những năm ấy, người chết quá nhiều, người ly tán cũng quá nhiều. Kẻ chỉ lo thân mình, chẳng màng đến ai khác lại càng nhiều hơn. Đến mức... đi dọc đường cũng có thể “nhặt” được một đứa trẻ mất cha mẹ, dễ đến mức khiến người ta phải lạnh gáy.

Ân tình của hai bát canh nóng cũng là ân tình. Đằng nào cũng đang trong chuyến hành trình không biết khi nào mới tới đích, họ bèn quyết định ở lại thôn Long Vỹ. Dù sao thì việc Lão Hoắc phải chăm tám đứa trẻ một mình cũng rõ ràng là quá sức. Ban đầu, họ nghĩ sẽ đợi đến mùa xuân năm sau rồi đi. Nhưng xuân đến lại phải xới đất trồng rau, thế là lại nghĩ để mùa thu đi. Đến mùa thu thì lại phải lo sắm sửa áo ấm cho mấy đứa nhỏ, thôi thì để sang xuân năm sau nữa vậy… hoặc mùa thu sau nữa… cứ thế dây dưa thành hai năm.

Trong hai năm đó, điều khiến họ khổ sở nhất không phải là thời tiết khắc nghiệt hay thiếu thốn lương thực, mà là đám xâm lược không biết xấu hổ kia. Bọn chúng phần lớn to cao lực lưỡng, đầu tóc buộc thành kiểu quái dị, cưỡi ngựa, mang theo đao cong sắc bén làm vũ khí, càn quét cướp bóc khắp các thôn làng vốn đã khốn khổ vì chiến loạn, không hút cạn giọt máu cuối cùng thì không chịu dừng tay. Về phần đám người này, chúng là lũ cặn bã tách ra từ quân địch để vơ vét riêng hay là đám ô hợp nhân cơ hội chiến tranh mà cướp bóc, thực ra cũng không còn quan trọng nữa, bởi tai họa và tổn thương mà chúng gây ra đều giống nhau.

Những thứ bọn chúng cướp đi đã quá nhiều, vậy mà vẫn không thấy đủ. Về sau, cướp bóc dường như đã trở thành thói quen và thú vui của bọn chúng. Hình ảnh đám dân làng tay không tấc sắt run rẩy, bất lực lại là trò giải trí khiến chúng thích thú nhất.

Ban đầu mọi người cứ tưởng Lão Hoắc chỉ là một ông lão nông dân bình thường, cùng lắm chỉ khéo tay trong chuyện nấu cơm, may vá và trông trẻ, ai mà ngờ ông còn có võ nghệ. Dù đã có tuổi, ông vẫn có thể bật người một cái đá văng tên đầu sỏ mặt đen mập mạp từ trên ngựa xuống, thuận tay giật lấy đao hắn rồi đâm một nhát vào đùi khiến hắn gào khóc không ngớt, điều khiến Lão Hoắc nổi giận, là vì tên béo ấy lại dắt lũ tay chân quay lại thôn Long Vỹ “tìm vui”. Khi đó, quá nửa người trong thôn đã chạy đi, đồ đạc đáng giá cũng gần như không còn gì. Còn lại chỉ là mấy người già yếu, bệnh tật không đủ sức đi xa, hoặc như nhà Vương Đại Tuyền, những người còn lưỡng lự, luyến tiếc không nỡ rời bỏ quê nhà.

Bọn chúng định cướp vợ của Vương Đại Tuyền. Hắn và cha vợ quỳ rạp dưới vó ngựa, khóc lóc van xin. Cha vợ đem ra hết số hạt giống quý cuối cùng vẫn còn giấu kỹ, còn hứa khi thu hoạch xong sẽ dâng tất cả lương thực, chỉ mong giữ được sự bình an cho cả nhà. Tên đầu sỏ suy nghĩ một lát rồi nói: “Hai đứa mày quỳ xuống học chó sủa cho tao một trăm tiếng, tao sẽ tha cho người đàn bà này.”

Đó là nỗi nhục phải dùng đến đao mới có thể rửa được. Nhưng Vương Đại Tuyền dù nghiến nát răng cũng không rút đao. Thân hình gầy gò bé nhỏ của hắn bị gió cuốn lại thành một cục càng thêm nhỏ bé. Hắn chỉ biết trồng trọt, biết ra chợ chọn mảnh vải vừa rẻ vừa tốt để may áo cho vợ, biết chăm hoa gần chết đến khi nở rộ khoe sắc. Chuyện đánh nhau trong nửa đời bình yên mềm mỏng của hắn chưa từng có, thậm chí đến chó trong làng hắn cũng không đánh lại.

“Gâu… gâu… gâu…”

Danh dự không lớn hơn mạng sống, không có thực lực thì không chống cự được.

Cả bọn cười phá lên, tên béo cười đến nhe hết hàm răng vàng khè lởm chởm: “Ha ha ha! To hơn chút nữa! To nữa! Gọi ta là cha mày đi!”

Tiếng của Lão Hoắc vang lên át hẳn tất cả: “Gọi thằng cha ngươi?!” Ông giống như một con đại bàng đã đậu trên mặt đất rất lâu, đột nhiên vươn ra đôi cánh chưa từng già cỗi.

Trong cái rủi có cái may, là võ nghệ tên béo không xứng với vẻ ngoài hung hãn của hắn, hơn nữa hôm đó hắn chỉ mang theo ba tên tay chân.

Nhờ vào sự bùng nổ dũng mãnh của lão Hoắc, cộng thêm việc đám quen bắt nạt người khác khi rơi vào tình thế bị phản đòn thì hoảng loạn luống cuống, đám địch thua từ võ nghệ đến khí thế, cuối cùng chỉ có thể đỡ lấy tên đầu sỏ bị thương rồi cuống cuồng bỏ chạy. Tất nhiên lúc chạy đi không quên quay đầu buông vài lời đe dọa, nhưng cũng phải chạy xa rồi mới dám kêu lên.

Cả nhà Vương Đại Tuyền ôm lấy Lão Hoắc, vừa khóc vừa cảm ơn.

Sau đó mấy ngày, Lão Hoắc bận rộn hơn hẳn. Ông và lão thợ rèn què trong thôn dùng nguyên vật liệu ít ỏi còn lại để chế tạo mấy món mà ông hay gọi là “đồ chơi nhỏ”.

Chúng là cơ quan của Lão Hoắc. Ông nói sao thì lão thợ rèn làm vậy. Sau đó, ông dành trọn một ngày một đêm đem những thứ đó chôn theo đúng bố trí ở bên ngoài thôn.

Quả nhiên như dự liệu, đám địch nuốt không trôi cục tức đó nên sớm kéo trở lại. Vẫn là tên béo dẫn đầu, hắn vốn không chấp nhận được việc thân là một con voi lại bị một con kiến cắn đau. Lần này, hắn mang theo hơn chục người, còn nghĩ sẵn cách tra tấn ông già kia ra sao để không chết được.

Ngoài dự liệu, bọn chúng lại bị cắn thêm lần nữa… Trên con đường bọn chúng đã đi qua không biết bao lần, quen thuộc đến không thể quen thuộc hơn, vậy mà từ bao giờ lại xuất hiện những thứ bẫy ghê gớm như thế. Mấy thứ quái dị chưa từng thấy từ trong đất trồi lên ngoạm chặt những con ngựa không phòng bị của chúng. Chúng không chỉ là bẫy thú, khi bọn chúng bị hất văng khỏi lưng ngựa, hàng loạt mũi kim sắt sắc bén như mưa bắn tới. Dù áo giáp giúp che chắn được phần lớn, nhưng những chỗ không che được vẫn đủ khiến chúng gào khóc loạn xạ.

Lúc mang mớ bẫy còn chưa hoàn chỉnh về, Lão Hoắc còn căn dặn Hà Đông Lai phải dùng lá cây cỏ thích hạt châm bôi kín lên từng mũi kim. Loài cỏ này mọc ở bìa rừng bên kia sông, chỉ cần đụng vào lá đã thấy châm chích đau buốt. Thỉnh thoảng có con thú nào ngu ngốc ăn nhầm, chưa đi được ba bước đã toàn thân tê liệt, co giật trên đất, mặc người xử lý. Là Hà Đông Lai phát hiện ra loài cỏ đó, nàng nói cha mình là thợ săn giỏi nhất thế gian, từ nhỏ nàng đã thấy ông dùng nhựa cỏ này bôi lên mũi tên và lưỡi dao, hiệu quả gấp đôi.

Tóm lại, mấy chục tên đi trả thù một ông già, mà lại thất bại thêm lần nữa.

Hôm đó, bên ngoài thôn Long Vỹ người ngựa đổ nghiêng. Tên béo xui xẻo bị kim châm đến mức không động đậy nổi, nói chẳng ra hơi, chỉ có thể há hốc miệng chảy dãi, được mấy tên bị thương nhẹ dìu dắt, vừa rên vừa lết. Còn mấy đứa may mắn chưa bị thương thì căng thẳng đứng im tại chỗ, không dám manh động, ai biết được mảnh đất bị ức h**p lâu ngày này còn giấu bao nhiêu đòn hiểm đang chực chờ?

Lão Hoắc cầm dao thái rau đứng trong ánh tà dương, sẵn sàng đối đầu sống chết với chúng nếu cần.

Thế nhưng, bên kia không ai dám bước bước đầu tiên.

Khí thế là thứ rất kỳ lạ, chiến mã cao to, đao cong ánh bạc, vậy mà trước mái đầu bạc trắng và con dao thái rau của Lão Hoắc, bỗng chốc trở nên thấp bé hẳn đi.

Kẻ sợ chết và kẻ không sợ chết giằng co cho đến lúc hoàng hôn buông xuống, đối phương cuối cùng cũng quay đầu, chật vật rút lui.

Lần này, lý do bọn chúng đưa ra là: “Hôm nay không phải ngày lành.” Mấy thuộc hạ dưới trướng an ủi tên thủ lĩnh liên tục thất bại: “Không sao đâu, lần sau chúng ta mời vu sư xem ngày tốt rồi lại đến dạy dỗ bọn chúng!”

Đổ lỗi thất bại cho ông trời, ít ra cũng giữ lại được chút thể diện.

Chờ đến khi bóng dáng kẻ địch khuất hẳn, Lão Hoắc, người căng thẳng đến mức cả tóc tai như cũng dựng đứng lên mới hít sâu một hơi, bàn tay siết chặt con dao bếp rốt cuộc cũng có thể thả lỏng.

Thoạt nhìn thì là chiến thắng về khí thế, nhưng thực ra vẫn là một canh bạc. Ai mà dám chắc trong hai mươi tên kia không có một kẻ liều mạng chứ?

May mà thật sự không có.

Mấy cô gái nấp ở gần đó, nín thở dõi theo trận đối đầu, thấy tình hình đã qua mới vội vàng chạy đến đỡ lấy Lão Hoắc suýt nữa là ngã ngồi xuống đất.

Mồ hôi lạnh trên trán Lão Hoắc đến lúc này mới chịu lấm tấm rịn ra, đúng lúc đối phương vừa rút đi.

Một trận thắng trong gang tấc.

Câu đầu tiên sau khi ông lấy lại tinh thần là trách hai đứa con gái vì sao không nghe lời, không chịu ở yên trong mật thất, lại còn chạy ra ngoài, nếu bị thương thì tính sao?

Hà Đông Lai giơ con dao găm giấu bên người ra, nói: “Không thể để một ông lão như ông đơn độc đối đầu được. Tuy là nữ, nhưng ta là con gái thợ săn, dùng dao còn quen hơn dùng kim chỉ. Nếu bọn chúng thật sự xông vào, dù không thắng được, ta cũng phải kéo theo hai ba đứa chết chung.”

Mạc Tiểu Vận nói: “Tuy ta không giỏi đánh đấm, nhưng ít ra vẫn có thể giúp được đôi chút.”

Lão Hoắc vừa bực vừa buồn cười: “Nói hay lắm, vậy mà đến cái mái nhà cũng sửa không xong.”

Mật thất của Lão Hoắc nằm bên cạnh phòng bếp, ẩn trong căn buồng chứa đồ. Dọn lớp cỏ khô và mấy thứ lặt vặt bừa bộn ra, sẽ lộ ra một chiếc vòng đồng. Kéo vòng đồng lên, theo con dốc nghiêng đi xuống, là một thế giới hoàn toàn khác.

Từ khi kết oán với bọn người kia, mỗi khi có động tĩnh bất thường, việc đầu tiên Lão Hoắc làm là bảo tám đứa nhỏ chui vào mật thất trốn.

Hai cô gái luôn lấy làm lạ: một lão dân quê như Lão Hoắc, giỏi nắm đấm thì thôi đi, sao lại có thể đào được cái mật thất như thế?

Mật thất khá rộng, bên trong ngoài chút nước sạch và lương thực ra, còn chứa rất nhiều sách tre và một đống vũ khí giáp trụ hư hại. Lão Hoắc sắp xếp đống "đồng nát" đó rất chỉnh tề. Bên cạnh đống sách tre, trên giá gỗ có đặt một bộ giáp đen hoàn chỉnh nhưng chi chít vết xước.

Chỉ khi nhìn vào nó, ánh mắt Lão Hoắc, vốn đã được năm tháng mài mòn thành hiền hậu và nhẫn nại trong cuộc sống cơm rau mắm muối, mới bừng lên sự sắc bén và thâm trầm như bừng tỉnh từ cơn mộng. Nhưng ánh mắt ấy chỉ lóe lên trong khoảnh khắc, rồi lại chìm vào nỗi lo thường nhật: tối nay ăn gì.

Lão Hoắc kể: Tiểu Sơn thường nói nơi này là “tàng bảo các” trong truyền thuyết.

Con nít mà, chỉ cần đào cái hang, dựng cái lán là có thể gọi là “căn cứ bí mật”. Cả đống sắt vụn mà người lớn chỉ xem là đồ bỏ đi, lại trở thành báu vật trong mắt bọn trẻ.

Với Tiểu Sơn thuở nhỏ, những thanh đao thanh kiếm không còn chủ nhân kia là kho báu mà nó khao khát nhất. Nhưng Lão Hoắc chưa bao giờ cho nó. Ông nói: “Đây không phải đồ chơi, mà là những người đã vĩnh viễn không trở về, nhưng cũng vĩnh viễn không rời đi. Đợi con lớn rồi, con sẽ có kiếm và áo giáp của riêng mình.”

Khi ấy, Tiểu Sơn nào có hiểu nổi.

Cho đến nhiều năm sau, khi khoác lên mình bộ giáp vừa vặn, tay cầm thanh kiếm vấy máu, chiến đấu đến kiệt sức nơi chiến trường, hắn mới hiểu vì sao Lão Hoắc phải nhặt nhạnh từng mảnh giáp tàn kiếm gãy rải rác theo thời gian như thế.

Lúc ấy, thanh kiếm của hắn đã có vô số vết mẻ, bị kẻ địch ngạo mạn giẫm dưới chân. Hắn và những huynh đệ còn sống sót cuối cùng cũng đều bị giẫm dưới chân.

“Quỳ xuống! Đầu hàng! Tha chết cho các ngươi.”

Bọn man di nói tiếng đế quốc không sõi, phát âm ngô nghê đến buồn cười.

Hắn bật cười. Có lẽ vì xương sườn gãy nên đang cười lại ho ra một búng máu. Nhưng vẫn rất buồn cười.

Hắn vừa ho vừa cười: “Về đi, nơi này không phải đất của các ngươi. Ngay cả tiếng của chúng ta các ngươi còn nói không rành.”

Hắn gượng đứng dậy từ dưới chân bọn chúng, tuy tay bị trói sau lưng nhưng lưng vẫn thẳng.

Giọng hắn quả quyết mà ôn hòa, như lúc Lão Hoắc gọi hắn khi còn nhỏ: “Về ăn cơm đi.”

Tên cưỡi ngựa cao lớn khinh bỉ rút đao cong ra: “Giờ là đất của chúng ta rồi.”

Hắn lắc đầu: “Chúng ta sẽ không rời đi. Các ngươi sẽ không vượt qua được đâu.”

Một tràng cười vang lên. Đám man di cho rằng tên tù binh này chắc đầu đã bị thương, đang nói mê sảng.

Cùng lúc đó, ở thôn Long Vỹ, Lão Hoắc đang nhổ cỏ ngoài vườn rau, vừa hay nhận được thư nhà của Tiểu Sơn.

Chỉ vài dòng ngắn ngủi: “Địch mạnh ta yếu, nhưng một tấc đất cũng không thể nhường. Không lui, không hàng.”

Bức thư chắc đã đi rất lâu. Trong thời loạn như thế, có thể đến tay đã là điều may mắn.

Chữ của đứa nhỏ ấy vẫn đẹp như xưa. Nó học hành giỏi lắm, nếu không nhập ngũ cũng có thể làm được nhiều chuyện. Nhưng nó vẫn luôn nhớ đến thanh kiếm và bộ giáp của riêng mình.

Vậy trận chiến ấy là thắng hay thua? Phải chờ bao lâu nữa mới biết được kết cục?

Lão Hoắc cất thư, tiếp tục lúi húi trong vườn rau ngập trong ánh tà dương.

Dưới ánh nắng gay gắt, lưỡi đao cong phản chiếu ra ánh sáng chói mắt, mũi đao đã kề sát trán Tiểu Sơn.

“Ta hỏi lại các ngươi, đầu hàng hay không?!”

“Không đầu hàng!”

“Không đầu hàng!”

“Không đầu hàng!”

Khi mảnh ruộng rau của Lão Hoắc lại đón một mùa thu hoạch mới, có người mang theo thân mình mỏi mệt đến truyền tin cho ông: Tiểu Sơn đã tử trận.

Trong trận chiến ấy, kẻ địch không chỉ giết sạch những binh sĩ tiền tuyến kiên quyết không đầu hàng, mà còn thiêu xác họ thành tro bụi. Tiểu Sơn không thể trở về được nữa.

Người đưa tin trao cho Lão Hoắc một túi đất nhỏ, nói rằng Tiểu Sơn có thể nằm trong đó, ngoài ra họ không mang được gì về cả.

Mùa thu năm sau, vợ Lão Hoắc qua đời. Trước khi mất, bà còn thở than: “Nếu năm xưa ông không giết quá nhiều người, có khi Tiểu Sơn đã không đoản mệnh như vậy.” Bà ôm lấy bộ quần áo cũ của Tiểu Sơn, vừa cảm khái vừa cười khổ, rồi rời khỏi nhân thế.

Chuyện về Tiểu Sơn, Lão Hoắc vừa vá quần cho đám trẻ vừa kể cho hai nàng nghe. Vẻ mặt ông bình thản đến mức hai người suýt tưởng Tiểu Sơn không phải con ruột ông sinh ra.

Ngọn đèn dầu trên bàn chập chờn yếu ớt, hai người liếc nhìn nhau, ai cũng không tin Lão Hoắc từng “giết rất nhiều người”.

Đường kim mũi chỉ trong tay ông lướt qua miếng vá một cách thành thạo, làm việc tay chân như vậy đúng là thời điểm thích hợp để nói mấy chuyện dông dài.

“Bộ giáp đen trong mật thất kia là thứ ta từng mặc hồi trẻ.

Hồi đó thiên hạ đại loạn, các thế lực giao tranh, người sống kẻ chết. Ta giỏi bày binh bố trận và chế tạo ám khí, từng là người đứng đầu một đội quân, đánh thắng không ít trận, dĩ nhiên cũng đã giết không ít người.

Nhưng chủ soái của ta cuối cùng không thành đại nghiệp, chết nơi đất khách, binh lính dưới trướng thì tan tác khắp nơi. Có kẻ từng mời ta đầu quân, nhưng ta không phải hạng người ăn hai nhà, lòng nản chí, ta bèn đưa vợ về nơi xa ở ẩn, sống cuộc đời bình dị tại thôn Long Vỹ.

Có điều bản tính ta cẩn trọng, nên sớm đã đào xây mật thất này, một là để cất giữ bí kíp chế tạo cơ quan ám khí, hai là đề phòng kẻ thù tìm đến gây rắc rối. Nhưng bao năm trôi qua, kẻ thù ngày xưa có lẽ đã quên mất ta, hoặc có khi chính họ cũng quên luôn cả thù hận và sứ mệnh của mình rồi… thời gian thật là đáng gờm.

Vậy nên ta từng nghĩ cả nhà có thể an ổn sống ở Long Vỹ thôn đến cuối đời, nào ngờ vẫn không tránh khỏi vòng xoáy cũ. Giặc man tái xâm lấn, chiến hỏa lại nổi lên. Ta nay đã quá năm mươi, việc thường ngày ngoài trồng rau thu hoạch, sửa mái nhà, thì là nhặt những thanh kiếm gãy từ mảnh đất hoang tàn này về, đao vỡ và giáp trụ rách nát không còn chủ nhân. Đối với những kẻ từng liều mạng kháng chiến mãi mãi không thể trở về, chỉ có thể bị chôn vội trong những hố đất tạm bợ, thì những vật tàn dư này là phần thân thể cuối cùng họ để lại nơi thế gian…

Tất cả… đều là những người không chịu lùi bước. Ta gom nhặt chúng, đặt cạnh chiến giáp của mình, cảnh tượng ấy, giống như bạn cũ hội ngộ, dù chết vẫn còn tồn tại.”

Lão Hoắc chậm rãi kể như bất kỳ ông già lắm chuyện nào, nói mãi mà cái quần vẫn chưa vá xong. Ông thở dài: “Tiểu Lục cứ như con khỉ con, quần dày mấy cũng chẳng chịu nổi ba ngày. Nếu trời không lạnh, chắc nó đã tr*n tr**ng chạy khắp nơi rồi.”

Không có ai giật mình ngạc nhiên, cũng không ai vặn hỏi tới lui, hai người chỉ lặng lẽ lắng nghe, nhân tiện nhặt rau chuẩn bị cho bữa sáng mai.

Sau khi vá xong chiếc quần, Mạc Tiểu Vận bỗng hỏi: “Ông chưa từng nghĩ đến việc rời khỏi Long Vỹ thôn sao?”

Lão Hoắc ngẩng đầu, nhìn ra ô cửa sổ đóng khung bóng đêm vô tận, mỉm cười: “Dưới gốc cây ở góc vườn rau, có Nguyệt Hà và Tiểu Sơn. Ta và Nguyệt Hà bái đường thành thân ở thôn Long Vỹ, Tiểu Sơn cũng sinh ra tại đây. Quãng đời sau khi cởi bỏ chiến giáp của ta đều ở chốn này. Mảnh đất trước nhà trồng đầy hoa là do một tay Nguyệt Hà vun trồng. Ta bảo đất này không tốt, khó nuôi được hoa yếu ớt, bà ấy nói hoa nhà mình mệnh cứng. Ha ha, bà ấy lúc đó luôn cười tươi như thế, chẳng lo gì cả. Ồ, hồi đầu nuôi gà, chẳng có tí kinh nghiệm nào, qua một đêm gà chạy sạch, cả làng phải đến tìm giúp, khi đó Vương Đại Tuyền còn là thằng nhóc ch** n**c mũi, suýt nữa vì đuổi theo gà mà rớt xuống hố phân.

Thợ rèn khi chưa què, ngày nào cũng tươi cười, ngoài chuyện rèn sắt còn mê mấy món cơ quan lạ lẫm. Có năm nọ vào đêm giao thừa, ông ta cứ nhất quyết bắt mọi người đến xem ‘hoa sắt nở rộ’, không biết nhét cái gì vào hộp sắt, đốt bằng đuốc cả nửa ngày, hoa thì chẳng thấy, chỉ nghe hộp sắt “đùng” một tiếng nổ tung, khói đen và lửa vọt khắp nơi, không những hun đen mặt bao người đứng xem mà còn đốt sạch bộ râu mà lão Trương nuôi nửa đời. Cả đám vừa hét vừa chạy, rồi tức giận quay lại đánh cho thợ rèn một trận, bảo ông ta sau này chỉ được lo rèn, đừng có bày trò nữa, ha ha.

Còn nữa, cứ đến mùa thu hoạch là cả làng lại rộn ràng mấy hôm. Trưởng thôn cầm đầu mang rượu ngon thuốc tốt ra, người khác cũng mang mấy món bình thường chẳng dám ăn, cả làng tụ họp nơi bãi đất đầu thôn, dưới ánh sao ánh trăng và đống lửa, ăn uống cười đùa. Trưởng thôn chỉ cần uống nhiều là lại hát, giọng ông ta vừa the thé vừa ồm ồm như con lừa già, vô cùng khó nghe nhưng lại vui đáo để. Ông ta hát gì ta cũng quên rồi, hình như là… gió hiền nắng nhẹ, quốc thái dân an…”

Thời gian trôi nhanh thật, những người thân quen, những cảnh tượng quen thuộc, tự lúc nào đã dần dần biến mất khỏi thế gian này.

Lão Hoắc chưa từng nói nhiều như thế với họ. Lặng thinh một hồi lâu, Hà Đông Lai bèn hỏi: “Còn bọn trẻ? Chúng cũng không rời đi sao? Hoa do Nguyệt Hà trồng mệnh cứng, nhưng tám đứa nhỏ này thì chưa chắc.”

Lão Hoắc cẩn thận gấp chiếc quần vừa vá xong, nói: “Ta cũng từng nghĩ đến. Nhưng không có ai để gửi gắm. Trước kia có người trong thôn rời đi, ta cũng từng định nhờ họ đưa mấy đứa nhỏ nhất theo đến phương Nam, nhưng họ cũng rất miễn cưỡng. Không thể trách họ, sống sót thôi đã khó lắm rồi. Hơn nữa mấy đứa nhỏ này cũng bướng, khóc lóc ầm ĩ không chịu rời đi. Đành thôi, đành sống tới đâu hay tới đó vậy.”

Được rồi, kết quả của việc đi đến đâu tính đến đó, là bọn họ lại ở lại thôn Long Vỹ lâu thêm một thời gian nữa.

Suốt gần hai năm sống chung, đám trẻ con đã xem họ như tỷ tỷ ruột.

Lửa chiến nơi biên cương vẫn bùng lên từng đợt, bọn xâm lược ngày càng ngang ngược, muốn cướp đoạt mọi thứ không thuộc về chúng. Người trốn khỏi quê nhà ngày càng nhiều, từng mảnh đất vốn yên ổn sinh nhai lần lượt hoang phế, rút lui không ngừng đã trở thành cách duy nhất để giữ mạng.

Từ sau lần phản kích thành công của Lão Hoắc, lũ vô lại vừa ăn thiệt vừa sợ chết kia có lẽ đã bắt đầu e sợ trước những thứ thần bí dưới lòng đất, cũng có lẽ chúng đã hiểu ra, một nơi đã chẳng còn gì để vơ vét thì chẳng đáng liều mạng chỉ vì chút vui thú bắt nạt người.

Lão già cầm dao bếp ấy trông còn giống một tên điên chẳng sợ chết…

Tóm lại là, một khoảng thời gian dài sau đó, chúng không quay lại nữa.

Khi những khu vực khác lần lượt bị xâm chiếm, bị đổi tên thành những cái tên mà đám cướp kia thích, thôn Long Vỹ vẫn như con sói già đơn độc, tuy già yếu, không có viện trợ, luôn đối mặt với hiểm họa bị tiêu diệt bất cứ lúc nào, nhưng chưa từng lùi bước.

Chỉ là, người bằng lòng ở lại thôn thì ngày càng ít. Đến đầu thu năm nay, ngay cả nhà Vương Đại Tuyền cũng rời đi.

Thực ra hắn muốn đưa Tiểu Bát đi cùng. Vì sức ông chỉ đến thế thôi.

Thế nhưng Tiểu Bát lại cắn hắn một phát rồi chạy mất, đứa bé mới hơn ba tuổi ấy ôm chặt lấy chân Lão Hoắc, chết cũng không buông.

Nhìn bóng dáng cả nhà Vương Đại Tuyền khuất dần nơi cuối đường, Hà Đông Lai đứng tựa cửa thở dài, quay sang Mạc Tiểu Vận mỉm cười: “Chỉ còn nhà chúng ta thôi.”

Mạc Tiểu Vận gãi đầu, bỗng chồm lại thì thầm: “Hay là tìm cơ hội đánh ngất Lão Hoắc rồi đưa ông ấy đi nhé?”

Hà Đông Lai thế mà cũng suy nghĩ thật, song vẫn lắc đầu từ chối. Không nói đến chuyện hai nàng có đánh ngất nổi Lão Hoắc không, cứ cho là đánh ngất được, thì sau đó làm gì?

Một ông già, thêm tám đứa trẻ con, nói chi đến người, ngay cả chín con gà trong thời buổi này cũng khó nuôi, huống hồ là người.

Huống hồ, họ còn có nơi phải đến. Long Vỹ chỉ là điểm tạm dừng, cuối cùng vẫn phải rời đi.

Cho nên, mọi chuyện vẫn không có lời giải.

Nhưng nếu có thể cứ sống yên ổn, lặng lẽ như thế, cũng không phải chuyện xấu.

Chỉ là không ai ngờ, số mệnh lại nhanh chóng cho họ hiểu rằng, chỉ riêng hai chữ “bình yên”, với Lão Hoắc mà nó đã là món xa xỉ.

Bước ngoặt, đến từ một kẻ lạ mặt.

Đúng là chuyện hiếm thấy, Lão Hoắc mà cũng có khách đến thăm.

Ông gặp tên ăn mày ấy trên đường về thôn, phải xoay đi xoay lại dung mạo trong đầu mấy lượt, mới nhận ra đó là bạn thời nhỏ của Tiểu Sơn, Lư Trung Dũng.

Cả nhà Lư Trung Dũng từng sống cách nhà họ mấy căn, sau đó dọn đi. Hôm chia tay, Tiểu Sơn còn tặng Lư Trung Dũng một con dao gỗ tự tay làm, hai đứa nhỏ ôm nhau khóc sưng cả mũi vì sắp phải chia xa.

Có lẽ ông trời cũng động lòng, mấy năm sau lại để hai đứa gặp lại trong quân ngũ. Tiểu Sơn viết thư về nhà kể chuyện này, đến nét chữ cũng mang theo niềm vui, Lão Hoắc và vợ nghe vậy thì mừng lắm, thời buổi chiến loạn, có thêm huynh đệ cùng chiến đấu là chuyện tốt.

Nhưng, cái mối duyên nối lại ấy lại không duy trì được bao lâu.

Lão Hoắc cứ ngỡ Lư Trung Dũng đã mất trong trận chiến sinh tử kia, thế nên khi thấy thanh niên tàn tạ ấy sống sờ sờ đứng trước mặt, ông đã bật khóc vì mừng, nếu Tiểu Sơn còn sống, giờ chắc cũng cao ngang hắn ta rồi.

Lư Trung Dũng cũng khóc không thành tiếng, quỳ trước mặt ông tự tát mình: “Tại con vô dụng, không bảo vệ được Tiểu Sơn…”

Lão Hoắc sao có thể trách hắn ta chứ? Ông chỉ lôi hết đồ ăn trong nhà ra chất trước mặt hắn, giục hắn mau ăn đi đã.

Lư Trung Dũng vừa ngấu nghiến vừa kể, mình làm sao sống sót trong trận chiến ấy, mấy năm nay lưu lạc ra sao, cơ duyên thế nào mà quay lại thôn Long Vỹ. Ban đầu chỉ muốn ghé nhìn một cái rồi đi, không ngờ lại thấy Lão Hoắc vẫn còn ở đây.

Lời lẽ chân thành, Lão Hoắc nghe mà thấy chua xót, bèn không ngừng gắp đồ ăn cho cậu ta.

Chỉ có Mạc Tiểu Vận là không ưa nổi người này.

Khi vào bếp phụ nấu cơm, nàng thì thầm với Hà Đông Lai: “Ánh mắt tên ăn mày kia không đứng đắn.”

“Ta bưng đồ ăn ra là hắn cứ len lén liếc ta.”

Hà Đông Lai nói nàng đa nghi, người ta đói gần chết rồi, còn lòng dạ đâu mà nhìn con gái?

Mạc Tiểu Vận hừ khẽ: “Tài quan sát con mồi ngươi hơn ta, nhưng nhìn người thì thua ta một bậc.”

Thực tế rất nhanh đã chứng minh, cảm giác của Mạc Tiểu Vận không hề sai.

Rạng sáng hôm đó, họ bị một trận ẩu đả dữ dội đánh thức. Khi chạy tới nhà kho, chỉ thấy Lão Hoắc đã gục trong vũng máu, ngực bị cắm một con dao găm khắc hoa văn kỳ dị, trên mặt còn vương bột phấn màu sắc quái dị.

Còn tên Lư Trung Dũng ban ngày khóc lóc rối rít kia, giờ đang ra sức kéo cái vòng đồng trên nền đất.

Họ sững người tại chỗ.

Họ từng nghĩ, Lão Hoắc sớm muộn cũng sẽ chết, hoặc vì già yếu, bệnh tật, hoặc cùng kẻ địch liều mạng mà chết.

Nhưng chẳng ai ngờ, ông lại chết vào một đêm không đề phòng gì, chết trong tay người mà ông xem như con cái.

Nếu Lư Trung Dũng không lén dùng loại phấn gây bỏng mắt ấy, hắn vốn không đánh nổi Lão Hoắc.

Vấn đề là, trong đôi mắt không còn che giấu chút nào của hắn, thứ hắn nhắm đến, lại là mật thất.

Nhưng mật thất đó... ngoài đống sắt vụn ra thì có gì chứ?

Không có chút đồ gì đáng giá, hắn muốn gì chứ?

Khi nhìn thấy bọn họ, hắn chẳng hề hoảng hốt, thậm chí còn lộ ra nụ cười ph*ng đ*ng đến hạ lưu. Ngay cả Lão Hoắc cũng chết dưới tay hắn, hai cô nhóc thì có thể giở được trò gì chứ?

Nhưng hai cô nhóc ấy, thật sự lại có “pháp bảo”.

Hà Đông Lai ra tay trí mạng với hắn, con dao bếp quen tay không ít lần sượt qua đầu hắn. Có lẽ sức không mạnh bằng hắn, nhưng cơn giận cực độ đã bù đắp lại tất cả.

Hắn không ngờ một cô gái gầy yếu như thế lại có thể dùng dao thành thạo và tàn nhẫn đến vậy, càng không ngờ Hà Đông Lai từng bao lần giúp cha xử lý thịt, thật sự có thể một dao chém rơi đầu dã thú. Nếu công phu của hắn không phải dạng vừa, e là đã bị chém đứt tay gãy chân từ lâu rồi. Nhưng hắn tự nhận mình vẫn sẽ thắng, chỉ cần vài chiêu nữa, thể lực của Hà Đông Lai sẽ giảm dần, chắc chắn bại trận. Hắn thậm chí còn nghĩ, lát nữa nếu phải giết cô bé có đôi mày thanh tú này cũng thật đáng tiếc.

Ban đầu, phán đoán của hắn vốn không sai, nếu hiện trường chỉ có mình Hà Đông Lai, thế nhưng, một làn bột mịn bất ngờ phun lên người hắn, mùi lạ theo làn khói mảnh bay lên, chui thẳng vào mũi hắn. Ngứa ngáy đôi chút, nhưng cái này là gì đây? Loại độc phấn gây hoa mắt? Trả thù nhanh vậy sao? Nhưng hắn thấy mắt vẫn sáng, thậm chí còn thấy rõ Mạc Tiểu Vận, người đã tung bột, nhanh như mèo nhảy lùi ra xa, rồi nhân lúc hắn ngây người kéo Hà Đông Lai lùi lại thêm mấy bước.

Hừ, mấy con nhóc nhà Lão Hoắc ngây thơ thật, chỉ với chút trò vặt thế này mà cũng mơ đánh bại hắn ư? Đúng là muốn chết.

Khi hắn đang trong cơn sát ý mãnh liệt, cơn ngứa rát quái dị bỗng lan rộng khắp cơ thể, từ tóc đến tận đầu ngón chân, đau ngứa đến tận tim gan, từng kinh mạch run rẩy không kiểm soát nổi. Mắt hắn đảo xuống nhìn cơ thể mình, đến thở cũng ngừng lại vì kinh hoàng, khắp người hắn không biết từ khi nào đã phủ đầy những sinh vật trong suốt, trông như sâu non. Chúng đang điên cuồng chui vào thân thể hắn, từ tay đến mặt đã có vài con thành công, những con trên quần áo thì vẫn cắn xé không ngừng. Hắn gào thét nhảy dựng lên, phát điên mà đập loạn xạ khắp người.

Hà Đông Lai lập tức nhân cơ hội cầm dao xông lên định kết liễu hắn, không ngờ hắn điên quá mạnh, lại đẩy được nàng ra rồi phá cửa sổ chạy trốn.

Hà Đông Lai muốn đuổi theo, nhưng bị Mạc Tiểu Vận kéo lại. Nàng nói: “Đừng đuổi chó cùng rứt giậu.”

Đêm đó, bọn họ thoát chết trong gang tấc. Nhưng Lão Hoắc thì không qua khỏi. Ngoài đôi mắt bị bỏng nặng, con dao ngắn đâm trúng ông cũng có độc.

Lão Hoắc từ chối đi khám. Đến thị trấn gần nhất cũng phải mất một hai ngày, lại còn bắt hai cô gái kéo xe chở đi, nếu chết dọc đường thì càng phiền phức. Hai nàng không chịu, cứ nhất quyết muốn đưa ông đi. Nhưng ông gượng cười, nói: “Độc này rất mạnh, đã không còn thuốc cứu. Nửa đời ta sống cùng ám khí bẫy rập, cũng chẳng ít lần rắc độc lên vũ khí. Những chiến thắng không đường đường chính chính tuy không nhiều, nhưng cũng không phải chưa từng có. Giờ chết nơi đây, chẳng oan. Các con đừng quá buồn. Chỉ là từ nay về sau, tám đứa nhỏ kia xin giao cho hai ngươi, cũng là bất đắc dĩ. Mong hai con tận lực mà làm, vận mệnh khó lường, nếu có sơ suất, cũng đừng tự trách.”

Nắm lấy bàn tay càng lúc càng lạnh của ông, lòng Hà Đông Lai như bị tảng đá chẹn lại, giận dữ lẫn đau buồn đều chìm sâu trong lòng, chẳng thể nhúc nhích. Trong đầu nàng cứ hiện lên cảnh đêm đông hai năm trước, khi Lão Hoắc tươi cười bưng bát canh nóng đến cho họ mãi.

Mạc Tiểu Vận cố sức xoa tay ông, vừa làm vừa khóc nức nở.

“Lũ tiểu nhân chắc chắn sẽ quay lại, các con mau rời khỏi đây, tuyệt đối đừng nghĩ đến chuyện báo thù, ta không cần. Hãy đặt ta lên sườn dốc cao nhất trước làng, lúc các con rời đi, ta có thể nhìn thấy…”

“Các con nói trên đời có thật sự tồn tại ma quỷ không? Có thì hay quá… ta sẽ biến thành con quỷ hung thần ác sát, canh giữ nơi này đêm ngày, ai muốn đuổi ta đi, ta cứ không đi. Thôn Long Vỹ là nhà ta, không thể để người khác cướp… Các con gái à, cứ yên tâm rời đi, ta sẽ luôn ở đây…”

“Mùa đông phải nấu canh nóng, hoa sắp nở rồi, Nguyệt Hạ nói không được tưới nhiều nước… Tiểu Sơn lại đi bắt sâu rồi, thằng nhóc đó hôm nay vẫn chưa đọc sách… trời ạ, trưởng thôn lại đang hát nữa, giọng như con lừa ấy…”

Lời của Lão Hoắc càng lúc càng lộn xộn, gió thu ngoài cửa sổ lạnh lùng luồn vào, cuối cùng cuốn theo hơi thở cuối cùng của ông.

Mùa thu đúng là luôn khiến người ta buồn hơn bất cứ mùa nào khác. 

 
Bình Luận (0)
Comment