Biết
rằng hội ngộ không dài mãi[21]
[21]
Trích Giá cô thiên - Đương nhật giai kỳ thước ngộ truyền của Án Kỷ Đạo. Dịch
thơ: Điệp Luyến Hoa. Nguyên văn Hán Việt: Tình tri thử hội vô trường kế - ND.
Tôi đứng lặng lẽ trong Nghi Nguyên điện.
Nơi này tôi đã tới quá nhiều lần rồi, do đó vô cùng quen thuộc, nhưng cũng vì
thế mà trong lòng bất giác sinh ra mấy tia cảm khái khó mà dùng lời để miêu tả.
Tôi dường như đang sợ hãi, sự sợ hãi đó bắt nguồn từ việc một bí mật vốn bị ẩn
giấu nhiều năm nay vừa hé lộ ra một góc nhỏ. Tôi không biết, cũng không dám
nghĩ, lỡ như bí mật đó thật sự bị vạch trần thì sẽ dẫn đến một cơn biến cố ghê
gớm đến chừng nào.
Tôi khẽ cất tiếng hỏi Lý Trường: “Hoàng thượng
hình như đang rất giận thì phải?”
Lý Trường lắc đầu, đáp: “Vừa rồi thấy nương
nương bị như vậy nô tài cũng vô cùng sợ hãi, nhưng không ngờ lục Vương gia lại
xả thân cứu nương nương.” Y đưa mắt liếc qua phía tôi, dè dặt nói: “Có lẽ Hoàng
thượng đang giận bản thân mình, bởi người không thể cứu được nương nương mà
phải nhờ tới người khác.”
Tôi bất giác thở phào một hơi, Lý Trường
thì thở dài, nói tiếp: “Nô tài đã già rồi, nhiều lúc chẳng thể nào đoán được
tâm tư của Hoàng thượng nữa. Nương nương phải chú ý bảo trọng đấy.”
Tôi khẽ gật đầu, lặng lẽ ngồi bên cửa sổ
lắng nghe tiếng gió thổi vù vù, cảm giác chẳng khác nào tiếng thiên quân vạn mã
lao đi dồn dập.
Bầu không khí trong điện có chút ngột ngạt,
đó là một sự ngột ngạt từ nơi đáy lòng truyền ra, khiến người ta vô cùng khó
chịu. Tôi dần dần có cảm giác không thở nổi nữa, liền đứng dậy mở cửa sổ, nhưng
rồi lại nghe thấy từ bên ngoài vang vọng những tiếng ve sầu, thật chẳng khác
nào một cơn mưa rào, vô cùng đáng ghét. Trong lúc chờ đợi, tôi bất giác cảm thấy
buồn ngủ, liền mơ màng nhắm mắt lại, nhưng những mối tâm sự cứ liên tục hiện
lên trong lòng khiến tôi càng mỏi mệt hơn.
Chẳng biết đã qua bao lâu, khi tôi mở mắt
ra thì trời đã sâm sẩm tối rồi, màn đêm mờ mịt không ngừng kéo đến khiến người
ta chẳng có chỗ nào để né tránh. Trong một góc điện u ám, nơi mà ánh sáng không
thể chiếu tới được, một cái bóng cao lớn màu đen đang đứng trong lặng lẽ, chẳng
khác gì bức tượng. Hình như đã lâu lắm rồi tôi không chăm chú nhìn vào bóng
lưng của y như vậy, thành ra y trong ký ức và y của bây giờ thật chẳng giống
nhau chút nào, cứ như hai con người khác biệt. Sau giây lát tôi mới giật mình
tỉnh táo trở lại, vội đứng dậy, nói: “Hoàng thượng tới đây từ khi nào vậy?”
Y quay lưng về phía tôi, cất giọng hững hờ:
“Trẫm thấy nàng đang ngủ, do đó mới không đánh thức nàng.” Hơi dừng một chút, y
lại nói tiếp: “Nàng ngủ không được ngon lắm thì phải.”
Tôi gượng cười, nói: “Thần thiếp nhát gan,
mãi đến bây giờ vẫn còn chưa hết sợ vì chuyện hồi chiều.” Thấy y không nói gì,
tôi chỉ biết đứng nguyên chỗ cũ, nói tiếp: “Trinh Phi muội muội không sao chứ?”
Y chỉ đáp lại bằng một giọng hững hờ khó mà
nghe ra được là mừng hay giận: “Trinh Nhất Phu nhân vẫn ổn, trẫm đã ở bên nàng
ấy suốt cả buổi chiều.”
“Trinh Nhất Phu nhân?” Tôi hơi sững người,
rất nhanh sau đó đã hiểu ra, bèn khẽ mỉm cười. “Muội ấy đã xả thân vì Hoàng
thượng, được phong thưởng cũng là đúng thôi, vậy mới không uổng một tấm tình si
của muội ấy với Hoàng thượng.”
Trong hậu cung Đại Chu vốn có hai vị phu
nhân, nhưng từ triều Long Khánh trở về sau chỉ còn lập một để tỏ sự vinh hiển.
Hiện giờ Huyền Lăng đưa Yến Nghi lên ngang hàng với Hồ Uẩn Dung đủ thấy y coi
trọng nàng ta tới mức nào. Tôi thoáng có chút mừng vui, đối với Yến Nghi mà
nói, đây rõ ràng là một niềm an ủi rất lớn.
“Một tấm tình si?” Huyền Lăng cười nhạt một
tiếng, vung tay nói. “Tình si vô cùng đáng quý, trẫm tất nhiên không thể phụ
lòng nàng ấy rồi.”
Tôi thấy giọng y có vẻ khác thường, nên
không dám nói gì thêm, chỉ lặng yên đứng đó.
Sự tĩnh lặng lúc này khiến người ta cảm
thấy sợ hãi. Bao lâu nay tôi chưa từng cảm thấy sự tĩnh lặng giữa mình và y lại
có thể trở nên gượng gạo đến chừng này, làm tôi vô cùng khó xử. Tôi cúi xuống,
dường như ngoài cúi đầu thì chẳng có việc gì khác để làm. Hôm nay tôi đi một
đôi giày màu đỏ làm bằng vải đoạn, bên trên thêu hình phượng hoàng, vì đang mùa
hè nên đó là loại vải đoạn rất mềm và mỏng, áp sát vào chân mang lại cảm giác
vô cùng thoải mái. Sau khi nhìn một lúc lâu, tôi bỗng thấy hơi hoa mắt, cặp
phượng hoàng trên đôi giày tưởng chừng như đang vỗ cánh bay lên, sau khi lượn
quanh mấy vòng lại sà xuống mổ vào ngón chân tôi hết nhát này tới nhát khác làm
tôi đau nhói.
Y khẽ “ừm” một tiếng, vẫy tay gọi tôi lại.
“Qua đây.” Giọng của y dứt khoát, lạnh lùng, chẳng còn chút thân thiết nào của ngày
xưa. Tới lúc này tôi mới hiểu ra, vì sự căng thẳng trong lòng nên tôi mới càng
thêm mỏi mệt. Tôi chậm rãi bước tới đứng bên cạnh y, đó là một tư thế vô cùng
thân mật, quan hệ giữa chúng tôi tựa hồ chưa từng đổi khác.
Tôi với y đứng kề vai nhau một lát, làn gió
đêm mang theo mùi thơm ngọt ngào của hoa lá luồn qua cửa sổ thổi vào, chẳng cho
ai phân bua gì đã xộc thẳng vào đầu vào mặt người ta. Y đột ngột quay đầu lại,
đưa tay chụp lấy mặt tôi, cúi xuống hôn lên trán tôi. Tôi nhất thời lúng túng
chẳng biết phải làm sao, trong cơn hoảng loạn liền khẽ ngăn cản theo bản năng.
Y càng lúc càng dùng sức mạnh hơn, dường như muốn ấn thứ gì đó xuống vậy, làm
hai bờ má tôi đau đến bỏng rát.
Một hồi lâu sau y mới chậm rãi buông tôi
ra, vẻ mặt vô cùng hờ hững, dường như tôi chẳng phải là người mà vừa rồi y còn
muốn bảo vệ. Y lạnh lùng nhìn tôi, hỏi: “Chuyện bắt đầu từ bao giờ vậy?”
Tôi ngẩng lên, có thể nhìn thấy rõ ràng nơi
đáy mắt y thấp thoáng những tia sát cơ lạnh lẽo. Tôi khẽ hít vào một hơi, nói:
“Xin thứ cho thần thiếp ngu muội, thần thiếp quả thực không rõ Hoàng thượng
đang nói tới chuyện gì.”
Y hơi nhếch khóe môi tạo thành một đường
cong lạnh lẽo. “Nàng thông minh như thế, lẽ nào thật sự không biết ư?”
Lòng tôi lúc này vô cùng thấp thỏm, trái
tim đập thình thịch liên hồi, mồm miệng thì khô khốc chẳng nói nổi lời nào.
Huyền Lăng nhìn tôi chằm chặp, đột nhiên khẽ thở ra một hơi, đưa tay vuốt ve bờ
má tôi vẻ đầy trìu mến. Tôi bất giác rùng mình một cái theo bản năng, không
biết y định làm gì, cứ đứng đờ người ra đó. Y nhìn tôi rồi chậm rãi nói: “Hoàn
Hoàn, bấy lâu nay trẫm vẫn luôn rất mực sủng ái nàng, nhưng lúc này đây, trẫm
thật hận khuôn mặt này của nàng biết bao nhiêu.” Nhìn thẳng vào đôi mắt đầy vẻ
hoang mang của tôi, trong mắt y bừng lên những tia căm phẫn và bất lực. “Hoàn
Hoàn, có người kể với trẫm câu chuyện về Minh Phi...”
Tôi hơi sững ra, mãi tới lúc này mới giật
mình tỉnh táo trở lại, cơ hồ cho rằng mình đã đoán nhầm. Trong khoảnh khắc sững
sờ đó, có một làn gió đêm nhẹ nhàng thổi sát qua sống lưng tôi, tôi liền cảm
thấy lạnh, rồi chợt phát hiện mình đã tuôn đầy mồ hôi lạnh tự lúc nào. Có điều
sự lạnh lẽo ấy vẫn không cách nào xua đi được sự chấn động trong lòng, tôi nhìn
Huyền Lăng, khẽ nói: “Là Ma Cách...”
Y chậm rãi ngoảnh mặt đi khiến tôi không
thể nhìn thấy thần sắc y, chỉ thấy đôi tay chắp sau lưng y đang nắm chặt lại
thành quyền. Trong điện lúc này vô cùng yên tĩnh, tôi gần như có thể nghe rõ
những tiếng “rắc rắc” vọng ra từ mấy đốt ngón tay y, thế nhưng giọng y vẫn
chẳng có gì khác biệt so với lúc thường ngày: “Vừa rồi Ma Cách đặc biệt tới gặp
trẫm, yêu cầu trẫm để nàng đi hòa thân!” Nơi đáy mắt y thấp thoáng một tia băng
giá, còn kèm theo vẻ chán ghét. “Rốt cuộc hắn đã bắt đầu để ý tới nàng từ khi
nào vậy?” Y đưa mắt liếc tôi, giọng nói mang vẻ âm u tột bậc. “Khuôn mặt này
của nàng thu hút trẫm như thế, ắt cũng sẽ thu hút người khác. Trẫm thực không
nên để hắn nhìn thấy nàng!”
Toàn thân chấn động, tôi ngàn vạn lần không
ngờ được Ma Cách lại đưa ra lời thỉnh cầu như thế. Sau một thoáng ngẩn ngơ, tôi
vội vàng quỳ xuống, rơm rớm nước mắt, nói: “Thần thiếp là phi tần của thiên tử,
sao có thể hạ mình đi hòa thân được, Ma Cách thực quá hoang đường!”
“Trẫm nào phải không biết điều ấy!” Huyền
Lăng hậm hực nói. “Trẫm đã dùng những lời vừa rồi của nàng để chặn họng hắn, ai
ngờ hắn lại lôi ra điển cố Hán Nguyên Đế, dùng Minh Phi Chiêu Quân để so sánh
với nàng, yêu cầu trẫm chấp nhận lời thỉnh cầu của hắn.”
Tôi chợt nhớ tới câu nói kia của Ma Cách:
“Do đó, Thục phi phải nhớ lấy, Thục phi đã giết thê tử của ta thì nhất định
phải đền cho ta một thê tử khác.” Lúc này tôi kinh hãi tới tột cùng, không ngờ
y lại thực hiện lời nói của mình nhanh đến thế, bèn đưa tay tới nắm chặt lấy
góc áo Huyền Lăng. “Minh Phi xuất tái là nỗi đau lớn nhất trong đời Nguyên Đế,
huống chi thần thiếp đã là mẹ của bốn đứa con rồi, nếu thật sự làm theo yêu cầu
của hắn, sau này các vị Hoàng tử và Công chúa làm sao ngẩng mặt làm người được
đây!”
“Hắn nói với trẫm, phong tục của Hách Hách
là con cái kế thừa mọi thứ của cha, ngay đến thứ mẫu cũng có thể tiếp nhận chứ
đừng nói gì tới nàng.” Đầu ngón tay Huyền Lăng run lên lẩy bẩy, giống hệt như
giọng nói run run khó giấu của y lúc này. “Với tính tình của Ma Cách, dù bệnh
dịch đang lan tràn trong quân cũng chẳng chịu tùy tiện cúi đầu. Đại Chu tuy nhất
thời có thể dùng bệnh dịch để áp chế hắn nhưng khó ai có thể đảm bảo rằng hắn
sẽ không thể tìm ra phương thuốc trị bệnh, hơn nữa chiến sự kéo dài tới bây giờ
đã làm nguyên khí của Đại Chu tổn thương rất nặng rồi. Trẫm vừa hỏi bộ Hộ, được
biết bây giờ tập hợp tất cả lương thảo lại cũng chỉ đủ dùng cho đại quân trong
thời gian ba tới năm tháng, hai bên cứ tiếp tục giằng co thế này thì sẽ có trăm
cái hại mà không có cái lợi nào. Ma Cách đã nói rõ với trẫm là chỉ cần đồng ý
để nàng làm Yên thị của Hách Hách, lại đưa cho hắn phương thuốc chữa trị bệnh
dịch, đại quân Hách Hách sẽ lập tức rút về, kể từ nay về sau, Đại Chu mỗi năm
chỉ cần giao nộp ba ngàn gánh lương thảo cùng mười vạn lạng bạc thì hắn sẽ
không gây chiến nữa.”
Y dừng lại không nói tiếp nữa, chỉ nhìn
chằm chằm vào tôi bằng ánh mắt âm u tột độ. Màn đêm giống như một tấm vải đen
khổng lồ và mềm mại phủ xuống nhân gian, sớm đã tới thời gian thắp đèn, thế
nhưng vì không có ý chỉ của Huyền Lăng nên không có ai dám đi vào thắp đèn. Tôi
chỉ yên lặng không nói gì, trong lòng trào dâng một nỗi chua chát khó mà dùng
lời để miêu tả, thế nhưng chẳng rõ vì sao, đôi mắt tôi lại khô cạn, không thể
chảy ra một giọt nước mắt nào. Bóng tối xung quanh làm tôi trở nên đờ đẫn và tê
dại, tôi bèn cầm lấy một cây bùi nhùi mang đi thắp sáng ngọn nến được cắm trên
chiếc đế hình con hạc làm bằng đồng. Ánh nến màu vàng cam dần dần sáng lên và
không ngớt đung đưa, hệt như một trái tim yếu ớt đang nhẹ nhàng lay động.
Giữa ánh nến lờ mờ, tôi bỗng phát hiện
khuôn mặt mà mình đã nhìn suốt mười mấy năm nay sao lại xa lạ đến thế. Có điều,
vẻ xa lạ này hình như tôi đã từng nhìn thấy ở đâu đó rồi, hóa ra, trong đêm tôi
rời cung thuở nào, y cũng từng để lộ ra vẻ mặt giống hệt như vậy.
Y vẫn lặng im không nói gì, chỉ chờ tôi mở
miệng.
Lời của y đã tới nước này rồi, hà tất phải
ép y nói ra những lời bạc bẽo hơn làm gì nữa. Thôi thôi, xét cho cùng, một thân
vinh hoa phú quý này đều là do y ban cho.
Tôi chỉnh sửa lại xiêm y, trịnh trọng quỳ
xuống. “Thần thiếp thân là thục phi của Đại Chu, bấy lâu nay luôn được Hoàng
thượng sủng ái, lòng thực vô cùng bất an, không biết nên báo đáp thế nào mới
phải. Nay đã tới lúc thần thiếp báo đền ân đức của Hoàng thượng rồi, thần thiếp
không dám ích kỷ, mọi việc đều xin nghe Hoàng thượng sai khiến.”
Y dường như đã thở phào một hơi, lại đưa
tay lên che mặt, nói: “Trẫm là vua một nước, mọi việc... mọi việc nàng hãy tự
mình làm chủ đi.”
Trái tim bỗng không còn nặng nề nữa, tựa
như một sợi dây đàn vốn bị kéo căng đột ngột đứt lìa, trở nên vô cùng nhẹ nhõm,
tôi rốt cuộc đã ý thức được rõ ràng rằng y là một con người bạc bẽo tới mức
nào.
Trong khoảnh khắc cúi đầu xuống, tôi chợt
khẽ mỉm cười, cười chính bản thân mình. Tôi nào phải không biết là y bạc bẽo,
thế mà vẫn ôm một tia hy vọng rằng y sẽ vì những đứa bé mà giữ tôi lại. Giang
sơn mỹ nhân bên nào nặng bên nào nhẹ, tôi vốn không nên trông chờ vào y mới
phải.
Cái gọi là ân ái sủng hạnh trong chốn hậu
cung làm sao mà so được với tiền đồ của giang sơn, sự an nguy của xã tắc, nếu
tôi thật sự mở lời cầu xin y xót thương thì thực là không biết tự lượng sức
mình.
Cố nén nỗi giá lạnh trong lòng, tôi chậm
rãi nói: “Thần thiếp không dám quên ơn.”
Một làn gió mạnh vùn vụt bay vào thổi bay
đi âm cuối trong lời nói của tôi, làm sống lưng tôi càng thêm lạnh giá. Một
giọng nói quen thuộc mang vẻ kiên định hiếm có bất ngờ vang lên: “Thục phi
nương nương xin hãy suy nghĩ kĩ, không thể như vậy được! Nương nương làm vậy có
thể nói là không tiếc thân mình, nhưng chỉ e sẽ đẩy hoàng huynh vào cảnh bất
nghĩa.”
Lý Trường nôn nóng tới nỗi mồ hôi tuôn ra
đầy đầu, vội vàng đi theo sau lưng y. “Hoàng thượng còn chưa tuyên triệu, Vương
gia không thể đi vào được.”
Tôi đứng dậy, dùng lý trí ép mình phải bình
tĩnh. “Lục Vương gia quá lo rồi.” Khóe môi tôi hơi nhếch lên để lộ một tia lạnh
lùng. “Chuyện này là do bản cung tự nguyện, Hoàng thượng không hề cưỡng ép bản
cung.”
Đối mặt với sự bình tĩnh ấy của tôi, y cung
tay nói: “Nương nương tất nhiên không muốn làm hoàng huynh khó xử, nhưng một
khi nương nương đi hòa thân, Hoàng thượng sẽ giống như Hán Nguyên Đế, vĩnh viễn
bị người đời sau chê cười.”
Huyền Lăng khẽ thở dài một tiếng, ánh mắt
nhìn tôi chan chứa vẻ không đành lòng. “Trẫm và Thục phi làm phu thê đã mười
mấy năm, về sau chỉ còn hình đơn bóng chiếc, những lúc nhìn thấy Lung Nguyệt,
Linh Tê và Hàm Nhi, trẫm há lại chẳng đau lòng...”
Trong lời của Huyền Lăng chứa chan tình
cảm. Huyền Thanh đưa mắt liếc sang tôi, thoáng lộ vẻ chấn động, ngay sau đó vội
vàng ngoảnh đầu qua hướng khác. “Thục phi đã sinh được ba người con cho hoàng
huynh, địa vị tôn quý tột cùng, nếu để Thục phi đi hòa thân, sau này nếu các vị
Hoàng tử và Công chúa níu áo hoàng huynh hỏi về tung tích mẫu phi, hoàng huynh
sẽ trả lời như thế nào? Hách Hách ở xa ngoài ngàn dặm, sau này dù hoàng huynh
có nhớ Thục phi đến mấy thì e là cũng chẳng còn cơ hội gặp lại nữa rồi.”
Lý Trường lúc này đã nghe ra được nguồn
cơn, bất giác mặt mày tái nhợt, tay cầm cây phất trần cười trừ, nói: “Hoàng
thượng thương yêu Thục phi nương nương như thế, tất nhiên không muốn để nương
nương phải tới đất Hồ, sau này không còn ngày gặp mặt. Nếu Hách Hách thật sự
muốn hòa thân, sao Hoàng thượng không chọn lấy một nữ tử tài mạo song toàn
trong tông thất rồi phong làm công chúa để gả cho Ma Cách? Như thế thực có thể
nói là lưỡng toàn kỳ mỹ, vừa bảo vệ được nương nương lại vừa không làm Ma Cách
mất mặt.”
Dưới ánh nến âm u, sắc mặt Huyền Lăng trông
âm u tột độ. “Ngươi phải biết rằng tình cảm là một thứ rất khó thay đổi. Ma
Cách đã đưa ra yêu cầu như thế thì ắt phải đạt được mục đích mới chịu thôi,
ngươi cho là nếu để người khác đi hòa thân thì hắn có thể hài lòng mà lui binh
được sao?”
Lý Trường sợ đến nỗi không dám nói gì thêm,
Huyền Lăng lạnh lùng nói tiếp: “Nơi này không có việc gì của ngươi, mau lui
xuống đi.” Lý Trường vội đưa tay lên lau mồ hôi, khom người lui ra ngoài.
Huyền Thanh hơi cau mày, nói: “Bất kể là nữ
tử tông thất hay là Thục phi nương nương thì cũng đều là hy sinh nữ tử để bảo
vệ quốc gia, có gì khác biệt đâu? Lỡ như Hách Hách lấy đó làm lệ, năm nào cũng
yêu cầu hòa thân, vậy thì mặt mũi của Đại Chu biết phải để vào đâu? Thần đệ cho
rằng như thế không ổn.”
Huyền Lăng nhướng mày lộ rõ vẻ tức giận.
“Hắn nhất định muốn có Thục phi. Chỉ có trẫm là chẳng biết gì, thậm chí cả việc
hắn bắt đầu chú ý tới Thục phi từ khi nào cũng không biết rõ, cho nên hôm nay
mới phải mất mặt và rơi vào cảnh tiến thoái lưỡng nan như vậy.”
Hơi thở của Huyền Thanh dần trở nên dồn
dập, chẳng còn vẻ ôn hòa điềm đạm của ngày xưa. Y cố hết sức điều chỉnh hơi thở
của mình, vén áo quỳ xuống, nói: “Hoàng huynh, chúng ta đâu phải là đánh không
lại Hách Hách.”
Huyền Lăng chăm chú nhìn y, thoáng lộ vẻ bi
thương. “Lục đệ, đệ cho rằng trẫm đành lòng để Thục phi đi ư? Chúng ta không
phải là không thể đánh, mà là không thể đánh mãi như thế được. Hách Hách mà
không thu dã tâm về, dù nhất thời bị đánh lui thì sau này cũng sẽ quay lại, Đại
Chu sẽ chẳng bao giờ được yên ổn.” Y khẽ hít một hơi, lộ vẻ buồn bã nói tiếp:
“Tề Bất Trì giờ đã chết rồi, đệ cho rằng Đại Chu còn bao nhiêu tướng lĩnh có
thể dùng đây?”
“Sử xanh nhà Hán chép, kế vụng ấy hòa thân.
Xã tắc vì minh chủ, an nguy gửi nữ nhân. Phấn son dù có đẹp, binh lửa dễ gì
ngăn. Khanh tướng từ thiên cổ, ai người giúp thánh quân[22]? Việc
dùng nữ tử để giữ yên xã tắc thế này quả thực là không ổn. Nếu hoàng huynh
không chê thần đệ vô dụng, thần đệ xin nguyện lòng dẫn binh xuất quan, không
đẩy lùi Hách Hách quyết không về triều.”
[22]
Vịnh sử của Nhung Dục. Dịch thơ: Cao Tự Thanh. Nguyên văn Hán Việt: Hán gia
thanh sử thượng, kế chuyết thị hòa thân. Xã tắc y minh chủ, an nguy thác phụ
nhân. Khởi năng tương ngọc mạo, tiện nghĩ tĩnh Hồ trần. Địa hạ thiên niên cốt,
thùy vi phụ tá thần - ND.