Sông nước mênh mông hoang sơ, núi xanh nguy nga, trời đã về chiều, cây cổ thụ trên đỉnh núi ánh lên ráng tàn, vài đám mây lững lờ trôi ở dãy núi xa.
Thư sinh đầu đội khăn vuông mặc một chiếc áo vải xanh đầy vết vá, cưỡi lừa đi trên đường núi gập ghềnh. Con lừa không được khỏe mạnh lắm, y lại càng gầy đến đáng thương, da mặt vàng vọt vì nhiều ngày không có đồ ăn cho vào bụng.
Thư sinh đáng thương này họ Tần, tên Bán Sơn, là một tú tài của phủ Lai Châu, trước đó không lâu trong nhà gặp tai họa, đã tiêu hết số tiền dành dụm ít ỏi. Y không thể tự nuôi sống mình, đành phải mượn một chút lộ phí, đi phủ Chân Định huyện Vô Cực nương nhờ thân thích.
Nhìn thấy mặt trời sắp lặn, trước khi trời tối đến thôn phía trước thì không thể kịp, Tần Bán Sơn liền nghỉ ngơi dưới một gốc cây tùng lớn.
Ban đêm ánh trăng sáng ngời, chiếu lên một mặt vách đá cách đó không xa, tựa như kết tầng sương bạc. Chợt nghe răng rắc một tiếng, từ giữa vách đá nứt ra, hiện ra một lỗ hổng rộng bằng bánh xe, mơ hồ lộ ra ánh sáng.
Tần Bán Sơn đang ngạc nhiên nhìn, một nữ tử cầm đèn lụa màu đỏ thẫm, khoan thai đi ra từ trong vách đá.
Chỉ thấy khuôn mặt nàng điểm nốt chu sa, tóc mai xanh chồng chất mây, xiêm áo đỏ phản chiếu ánh trăng, gió đêm cuốn ống tay áo mỏng như cánh ve của nàng lên, thật giống Chức Nữ xuống Dao Đài, Hằng Nga rời Nguyệt Cung.
Tần Bán Sơn ngây dại, ánh mắt nữ tử kia vừa chuyển, nhìn về phía y. Trong lòng Tần Bán Sơn biết nàng tuyệt không phải người tầm thường, có lẽ là yêu tinh quỷ quái hút tinh khí người ta, mình vốn nên chạy trốn, nhưng dưới chân như mọc rễ, nửa bước cũng không nhúc nhích được, trơ mắt nhìn nàng nhẹ nhàng di chuyển liên tục, đi tới trước mặt.
Tim y đập thình thịch, ngừng thở, không ngờ có mùi thơm nhè nhẹ bay vào xoang mũi, khiến cho người ta xương yếu gân mềm.
Đôi mắt sáng của nữ tử nhìn y từ trên xuống dưới, nói: “Xin hỏi công tử họ Tần?”
Thanh âm của nàng thanh thúy ngọt ngào, giống như gõ băng kết ngọc¹ vậy. Tần Bán Sơn giật mình, nói: “Sao cô nương biết bần sĩ họ Tần?”
[1] gõ băng kết ngọc: âm thanh trong trẻo, giống như tiếng gõ ngọc thạch và khối băng.
Nữ tử nói: “Ta không chỉ biết ngươi họ Tần, còn biết ngươi tên là Tần Bán Sơn, là tú tài phủ Lai Châu, muốn đi phủ Chân Định huyện Vô Cực nương nhờ thân thích.”
Tần Bán Sơn ngạc nhiên, nghĩ lại, nàng không phải người tầm thường, biết những thứ này cũng không kỳ quái, chắp tay vái một cái thật sâu, nói: “Tiên cô thật sự là thần cơ diệu toán², không gì không biết.”
[2] thần cơ diệu toán: ám chỉ việc tính toán như thần.
Nữ tử thản nhiên cười, hơi cúi đầu, nghịch nghịch chiếc vòng vàng trên cổ tay, dáng vẻ có chút thẹn thùng, nhẹ giọng nói: “Tần công tử, thật ra thì ta muốn hỏi ngươi mượn một thứ, mong rằng ngươi đừng keo kiệt.”
Tần Bán Sơn nói: “Bần sĩ nghèo rớt mồng tơi, thân không có vật gì, không biết tiên cô muốn mượn cái gì?”
Nữ tử yếu ớt thở dài, nói: “Trượng phu Tang Trọng là Ngũ trưởng lão phái Thanh Đô, ngày trước bực bội với ta, rời nhà trốn đi, gặp ở huyện Vô Cực. Ta muốn đi tìm hắn, khuôn mặt lại gây cản trở, cho nên muốn mượn thân thể công tử dùng một chút.”
Canh tư, phía đông nổi lên màu trắng bạc, một người một lừa đi trong sương sớm mờ mịt, rừng thông hai bên um tùm ngậm khói. Ánh mặt trời dần lên cao, sương mù tản đi, nhìn từ xa tựa như một bức tranh sơn thủy màu vàng.
“Tang trưởng lão, chuyện là như vậy.”
Bảo Tri Huyền đặt chén trà trong tay lên bàn gỗ hoa lê, trên vách tường phía sau treo một cuộn trang sơn thủy của Triệu Đại Niên, góc trên bên trái đề thơ: Sơn trùng thủy phúc bích tham sai, hoa tiếu oanh đề nhị nguyệt thì.
Vô hạn Giang Nam hảo phong cảnh, nhất diện mô tả nhất hồi tư³.
[3] dịch nghĩa: Trùng điệp núi sông xanh lại xanh, hoa cười oanh hót lúc tháng hai. Phong cảnh Giang Nam đẹp vô cùng, một nét vẽ theo một hồi nhớ.
Tang Trọng nhìn bức tranh màu sắc xanh vàng rực rỡ, họa bằng khí thế khoáng đạt này, nghe Bảo Tri Huyền rủ rỉ nói: “Đậu tướng công của huyện lân cận năm nay hơn bốn mươi tuổi, dưới gối chỉ có một nữ tử. Vị tiểu thư này sinh ra đã xinh đẹp, thông minh lanh lợi, nhưng không may cơ thể yếu nhiều bệnh, từ nhỏ đã dùng thuốc làm cơm ăn. Đậu tướng công và phu nhân không nỡ cho nàng ấy xuất giá, liền gọi tế tử⁴ đến ở rể. Ai ngờ cô gia này tính mệnh còn mỏng hơn cả tiểu thư, không quá hai năm, chết đuối mà mất.”
[4] tế tử: con rể
Nói tới đây, Bảo Tri Huyền thở dài một tiếng, gã ta và Đậu lão gia có chút giao tình, đã gặp qua cô gia Đậu gia vài lần, thanh niên dáng vẻ đường đường, thật sự đáng tiếc.
Trong lòng Tang Trọng nghĩ Đậu lão gia này không có con trai thì thôi, tuyển tế tử còn đoản mệnh, duyên phận con cái thật sự là mỏng manh.
Trên mặt hắn không có biểu tình gì, Bảo Tri Huyền nhìn hắn, nghĩ thầm suy cho cùng cũng là thần tiên, sinh lão bệnh tử của người bình thường, đối với bọn họ mà nói, chỉ là mây khói lướt qua mà thôi.
Bảo Tri Huyền nói tiếp: “Sau khi cô gia chết, Đậu tiểu thư bệnh càng nặng, sáng sớm mùng chín tháng này buông tay nhân gian, đến ngày cúng tuần thì chuyện lạ tới.”
Ngày cúng tuần của Đậu tiểu thư là mười sáu, sáng sớm, mưa phùn lất phất, sắc trời tối tăm, trên đường không có ai. Một phụ nhân ngồi kiệu đi tới Đậu gia, tự xưng là Đậu tiểu thư, muốn gặp lão gia và phu nhân.
Nàng ta cầm một chiếc ô giấy dầu, mặc áo vải màu chàm, váy vải trắng, dáng người cao gầy, tướng mạo trưởng thành, vải xanh quấn đầu, giống như là người nghèo khổ đi ra ngoài, hoàn toàn khác với Đậu tiểu thư.
Người canh cửa vốn nên coi nàng ta như kẻ điên mà đuổi đi, nhưng giọng nói của nàng ta giống Đậu tiểu thư như đúc, lời nói và thần thái cũng cực kỳ giống nhau, giống như bị hồn phách Đậu tiểu thư nhập vào người, người canh cửa ngây dại.
Đậu lão gia và phu nhân nghe người ta thông báo, rất ngạc nhiên, bảo nàng ta vào.
Phụ nhân này đi tới đại sảnh, thấy bọn họ, trong mắt liền rơi lệ, khóc sướt mướt nói: “Phụ thân, mẫu thân, nữ nhi chưa tròn chữ hiếu, không nỡ rời đi, hồn phách bám vào trên người Đổng thị này, mong phụ thân mẫu thân chớ chê bai, chỉ coi nữ nhi còn sống mới tốt.”
Những lời này, thật giống những lời Đậu tiểu thư sẽ nói ra, Đậu lão gia và phu nhân hai mặt nhìn nhau, lấy chuyện trong nhà hỏi nàng ta, từng chuyện từng chuyện, mọi chuyện, nàng ta đều biết.
“Tang trưởng lão, ngươi nói việc này có kỳ quái hay không?” Bảo Tri Huyền cũng là nghe người ta nói, cũng chưa từng tận mắt nhìn thấy, lúc này cầm một nắm râu, vẻ mặt không thể tưởng tượng nổi.
Tang Trọng vẫn thản nhiên nói: “Đổng thị tự xưng là Đậu tiểu thư này, vốn là ai?”
Bảo Tri Huyền nói: “Là một người hát rong, trượng phu của nàng ta đã chết một năm trước, trong nhà nghèo rớt mồng tơi.”
Tang Trọng hỏi: “Nàng ta đã từng gặp Đậu tiểu thư chưa?”
Bảo Tri Huyền nói: “Chắc là chưa từng gặp qua, Tang trưởng lão, ta biết ngươi hoài nghi nàng ta quen biết Đậu tiểu thư, cố ý bắt chước Đậu tiểu thư, lừa Đậu tướng công và phu nhân nhận nàng ta làm nữ nhi, từ nay về sau có cuộc sống giàu sang. Nhưng người Đậu gia tới nói, chuyện lão gia và phu nhân hỏi, người ngoài tuyệt đối không thể biết, chỉ sợ thật sự là hồn phách tiểu thư nhập vào người, nghe nói ngươi ở đây, xin ngươi nhất định phải đi qua xem một chút.”
Tang Trọng gật đầu, nói: “Vậy ngày mai bần đạo sẽ đi.”
Mi Bảo Tri Huyền giãn ra, nói: “Như vậy thì quá tốt rồi, đa tạ trưởng lão, ta ở nha môn Thanh Thủy này cũng không có gì nhiều, chỉ có một ít rượu chay, mời trưởng lão tạm uống một chút.”
Rời khỏi huyện nha, sắc trời đã tối, Tang Trọng không cần người tiễn, tự mình cầm đèn, không nhanh không chậm đi về phía chỗ ở.
Hắn đi tới huyện Vô Cực, đã hơn mười ngày, bách tính của huyện Vô Cực đều biết, trong huyện có một vị đạo sĩ họ Tang mới đến, nghe nói là phái Thanh Thành, không đúng, không phải hai chữ này, Thanh⁵ Thành, cũng không đúng, Thanh Đô, đúng rồi, hình như là trưởng lão phái Thanh Đô .
[5] 青 và 清 đều là Thanh, từ đồng âm khác nghĩa.
Cuối cùng là phái Thanh Thành, hay là phái Thanh Đô, hỏi về những môn phái tu tiên rời xa hồng trần này, không ăn khói lửa nhân gian, dân chúng cũng không biết rõ bọn họ, chỉ biết là vị Tang trưởng lão này một chút cũng không già, hắn môi hồng răng trắng, đầu đầy tóc đen, ngày thường đeo khăn ung dung tự tại, trong lúc đi lại lay động theo chiều gió, hiển nhiên là một thiếu niên tuấn tú.
Mới đầu hắn bày sạp xem bói ở trên đường, kiêm bán cao dán, tất cả mọi người đều cho rằng thiếu niên không đáng tin cậy, nhìn một chút rồi đi qua. Chợt có phụ nhân thấy hắn tốt, liền muốn chiếu cố đến chuyện làm ăn của hắn, mua cho hắn một quẻ, mới phát hiện quẻ của hắn cực linh.
Sau đó lại có người mua thuốc của hắn, bệnh nan y kinh niên, một thiếp thuốc vào bụng, ngày hôm sau liền có khởi sắc. Cái này thật ghê gớm, người cầu thuốc chen chúc tới, có cẩm y ủng đen, cầm bạc trắng bóng, hắn lại khinh thường, có người quần áo tả tơi, chỉ lấy ra được mấy văn tiền, hắn lại tươi cười đón tiếp.
Cũng không phải tính tình hắn cổ quái, mà là thần tiên trị bệnh cứu người, cũng chú ý nhân quả. Những gia đình giàu có khi nam bá nữ kia, cứu những người đó chẳng phải là tạo nghiệp à?
Rất nhiều phụ nhân yêu thích dung nhan của hắn, nghe nói hắn có dáng vẻ này, liền lộ ra vui mừng, hoặc là tìm hắn xem bói, hoặc là đi tới đi lui xung quanh quầy hàng, liếc mắt đưa tình. Bởi vậy thanh danh truyền ra ngoài, Tang Trọng liền không bày sạp nữa, đợi đám người tự tới cửa.
Nơi hắn ở là một gian nho nhỏ của miếu Quan Thánh, ngày xưa vắng ngắt, gần đây ngưỡng cửa đều bị đạp phá.
Miếu nhỏ lâu năm không tu sửa, sơn loang lổ khắp nơi, mạng nhện phủ đầy bụi, xà nhà phần lớn bị sâu mọt ăn, nóc nhà cũng có nhiều lỗ hổng. Hậu viện có ba gian phòng, tình trạng gian giữa tốt nhất, người coi miếu ở đây, tây sương phòng tồi tàn nhất, vẫn trống không.
Tang Trọng ở đông sương phòng, lúc vừa tới, người coi miếu không biết thân phận của hắn, thái độ hết sức lãnh đạm, sau đó thấy hắn có bản lĩnh, mới cung cung kính kính chắp tay dâng trà, thỉnh làm sư môn của lão.
Biết được hắn đúng là trưởng lão của phái Thanh Đô, một tòa thái sơn to như vậy, hai mắt trợn tròn kinh hãi, ngay lập tức muốn quỳ xuống, lại bị Tang Trọng ngăn cản. Người coi miếu nói tha tội liên tục bảy tám lần, còn nơm nớp lo sợ, hết sức lo sợ.
Sau đó hầu hạ hắn còn tận tâm hơn hầu hạ Quan lão gia, lúc này ở trong phòng thấy hắn đã trở lại, vội vàng đốt đèn lồng đi ra, tươi cười tiến lên đón, hỏi han ân cần.
Tang Trọng thấy sương phòng phía tây có ánh sáng, xuyên qua lỗ thủng trên giấy cửa sổ, nhìn bóng người trong phòng, nói: “Trong phòng này là ai?"