"Cái gì, Dự vương bị ám sát?" Trương hoàng hậu đột ngột đứng bật dậy.
Bà không hề do dự, chỉ ra ngoài quát lớn: "Mau, gọi thái tử phi đến gặp bản cung!"
Chẳng mấy chốc, thái tử phi Lý thị đã tới. Trương hoàng hậu sai người canh giữ ngoài trướng, rồi quay sang nói với Lý thị: "Bản cung chẳng phải đã nói, không được ra tay trong kỳ Thu săn sao?"
Lý thị vội vàng nói: "Thần thiếp... thần thiếp không biết gì cả."
Trương hoàng hậu giận dữ chỉ tay vào nàng ta: "Ngươi không thể nào không biết! Ngươi xúi giục thái tử xem Dự vương là quả hồng mềm thì thôi đi, năm xưa trong lần Thu săn trước đã làm ra chuyện đó, giờ lại tái diễn, ngươi coi bá quan văn võ là mù hết rồi à?!"
Lý thị run sợ, vội vàng khai hết mọi chuyện: "Mẫu hậu, lần này thật sự không phải thần thiếp sắp đặt. Là điện hạ... sau khi phái người hành sự xong mới cho thần thiếp hay."
"Điện hạ nói, nếu Dự vương chết được, thì có bại lộ cũng chẳng sao. Nhưng ai ngờ hắn mệnh lớn, vậy mà còn sống, lần này... lần này đúng là gây họa lớn rồi, phải làm sao đây?"
Trương hoàng hậu nhắm mắt lại, nỗi giận đau đáu cuồn cuộn trong lòng.
Mười mấy năm trước, khi còn là thanh niên, thái tử vẫn vô danh tiểu tốt, chẳng ai biết đến. Nếu cả đời hắn cứ vậy, e rằng cũng chẳng phạm lỗi lớn.
Thế nhưng sau này, hắn một bước lên trời, trở thành thái tử, người chỉ dưới một người mà trên muôn người. Từ đó, lòng hắn cũng ngông cuồng theo, tuyệt đối không chịu buông tay, đến mức dám công khai hành động, ngang ngược vô pháp.
Im lặng một lát, Trương hoàng hậu nói: "Gọi đứa nghiệt tử ấy tới đây, cùng bản cung đến gặp bệ hạ!"
...
Tin tức Dự vương bị ám sát nhanh chóng lan truyền khắp nơi, khiến cả triều đình xôn xao.
Từ quan văn đến quan võ đều vô cùng phẫn nộ: "Cách đây năm năm, Dự vương đã bị ám sát trong kỳ Thu săn, giờ lại nữa. Tiên đế linh thiêng trên trời, sao có thể yên nghỉ?"
"Tiên đế đem giang sơn giao cho bệ hạ, bệ hạ đối đãi Dự vương như ruột thịt, điều này ai ai cũng biết. Vậy mà giờ có kẻ dám làm chuyện nghịch thiên này, chẳng phải đang xem thường tiên đế và bệ hạ hay sao?"
"Tiên đế nhân hậu, mà Dự vương thì hết lần này đến lần khác bị hại, thực là..."
...
Người đời nói: Một triều vua, một triều thần. Nhưng thời tiên đế lại khác, người tài lớp lớp, chính sự trong sạch. Vả lại, trước khi lên ngôi, Vạn Tuyên đế chỉ là một phiên vương nhỏ bé, không có thế lực riêng, muốn cai trị một đất nước to lớn như Đại Thịnh, phải dựa vào bề tôi của tiên đế.
Mười mấy năm trôi qua, triều đình dần thay máu, người xưa có người cáo lão hồi hương, có người bị biếm truất, có người bị tống vào ngục.
Nhưng cũng có người thăng lên Nội các, có người trấn giữ trọng địa Kinh Kỳ, có người làm trấn thủ một phương.
Các đại thần đều trung thành tận tụy với hoàng quyền, hết lòng phò tá Vạn Tuyên đế, là vì ngài là dòng dõi chính thống đã được tiên đế tế trời cáo tổ.
Nhưng nay thái tử không có con nối dõi, hoàn chính về tiên đế đã là xu thế tất yếu. Không thể lại chọn một phiên vương nhỏ bé nào đó từ nông thôn lên kế vị. Không chỉ là nỗi xấu hổ với thánh tổ, mà còn phá vỡ thế cục quyền lực ở kinh thành.
Giới thế gia đã dày công vun đắp bao năm trong kinh, sao chịu bỏ hết để đi vun đắp từ đầu cho một kẻ không gốc rễ?
Vậy nên, việc Dự vương bị ám sát, chẳng khác nào thái tử bị ám sát.
Các đại thần vừa giận vừa lo, đồng thời cũng bắt đầu sinh lòng nghi ngờ. Người có động cơ lớn nhất không muốn hoàn chính hiện giờ chỉ có thái tử.
Tuy nắm ba trong sáu bộ, nhưng toàn là chỗ không cốt yếu. Từ đầu năm, Vạn Tuyên đế đã bắt đầu bồi dưỡng Dự vương, ảnh hưởng đến quyền lợi của thái tử. Hắn không phục cũng dễ hiểu.
Kỳ Thu săn này, chỉ cần điều tra sơ sơ cũng thấy rõ, là thái tử đã nhúng tay điều chỉnh việc đổi ca của Cấm vệ quân, thậm chí dấu vết động tay còn chưa xóa sạch.
Thật muốn nói một câu đại nghịch bất đạo: Thánh quân khó cầu, làm bề tôi ai lại không sợ bạo quân và hôn quân? Mà thái tử giờ lại vừa hung tàn, vừa ngu muội.
Các đại thần không khỏi nghi hoặc, Vạn Tuyên đế vẫn luôn nổi danh nhân từ đôn hậu, sao lại chỉ có một đứa con vừa bạo vừa hôn như vậy?
Quay lại nhìn Dự vương phong thái tuấn tú, có khí chất đế vương, chẳng hề ham quyền, vào Hộ bộ chỉ nhận một chức lục phẩm chủ sự. Thế mà những việc bệ hạ giao cho, chàng đều làm cực kỳ trọn vẹn.
Quả nhiên, dòng máu của tiên đế mới là tốt nhất.
Chỉ tiếc, thái tử vẫn là thái tử. Các đại thần không dám bàn ra tán vào, nhưng lòng dạ đã bắt đầu dao động.
Trời đã tối, gió thu hiu hắt, luồn vào trong cổ áo người ta, không khí ở hoàng gia săn bắn tràn ngập sát khí. Các đại thần co người trong áo, đứng chen chúc trước mấy trướng của hoàng thất, đợi tin tức.
Cả cha con nhà họ Tiết cũng có mặt, sắc mặt đầy lo âu, bất kể vì phận làm thần tử, hay vì hôn ước liên quan.
Chưa đợi thánh chỉ của Vạn Tuyên đế, đám đông bỗng dạt sang hai bên, gió lạnh ùa vào. Trương hoàng hậu và thái tử cởi bỏ lễ phục, chỉ mặc thường y, mặt mày tiều tụy, run rẩy vì rét.
Mẹ con họ phục trang như thế, khiến người ta như được thấy lại hình ảnh năm xưa họ cần kiệm nơi đất phong.
Các đại thần lặng ngắt, nhìn theo hai người vào trướng.
Vừa bước vào trướng, Trương hoàng hậu và thái tử cùng quỳ xuống.
Thái tử nghẹn ngào xúc động, dõng dạc nói: "Phụ hoàng, nhi thần biết tội!"
"Nhi thần không nên tùy tiện nhúng tay vào việc phòng bị Cấm vệ, lại để gian nhân thừa cơ, khiến hoàng thúc gặp nạn, thực là tội lớn! Nhi thần nguyện chịu phạt, chỉ cầu hoàng thúc được bình an!"
Các đại thần đứng ngoài nghe thấy lời trong trướng, đưa mắt nhìn nhau, trong lòng hiểu rõ Trương hoàng hậu là người khôn ngoan, chiêu này tất là bà ta nghĩ ra.
Tiết Hãn âm thầm thở dài.
Ông nghĩ, thái tử ngang ngược vô pháp như bây giờ, e cũng vì luôn có người đứng sau thu dọn hậu quả, chẳng phải chính Trương hoàng hậu vẫn luôn thu xếp tàn cục sao?
Ông giật mình, quay sang nhìn Tiết Chú, đột nhiên hiểu vì sao mẫu thân của mình, vị lão phu nhân được người người kính trọng ở kinh thành lại đột ngột ăn chay niệm Phật, quy ẩn không hỏi đời nữa.
Thì ra là vậy, nếu lúc nào cũng đòi lão nhân ra mặt giải vây cho vãn bối, thì vãn bối hoặc là sẽ ngạo mạn vô tri, hoặc là sẽ mất hẳn chủ kiến.
Thái tử là loại thứ nhất, còn Tiết Chú e là loại thứ hai. Tiếc thay, Tiết Chú đã thành ra thế rồi.
Tiết Hãn còn đang ngẫm nghĩ thì bên phía điện Hưng Hoa, Chu công công đã đến: "Tiết đại nhân!"
Tiết Hãn: "Công công có chuyện gì?"
Chu công công: "Tiết nhị lang hộ giá có công, nhưng bị thương nhẹ, đại nhân mau theo nô tài đến đó đi!"
Tiết Hãn chấn động: "Cái gì?!"
Mọi người đều ngạc nhiên, hoặc là chưa từng nghe danh Tiết nhị lang, hoặc là chỉ biết hắn đấu gà nuôi chó, vô tích sự.
Vậy mà bây giờ lại nghe hắn có công hộ giá?
So với công trạng, Tiết Hãn càng lo lắng về thương tích của Tiết Hạo. Không chờ thêm được nữa, ông cùng Tiết Chú vội vàng chạy đến trướng của ngự y.
May mắn thay, Tiết Hạo tuy có thương tích nhưng không mất mát gì, chỉ bị rách tay, ngự y đang bôi thuốc, hắn đau đến nhăn nhó méo miệng.
Tiết Chú lao đến: "Đệ bị thương sao? Có nặng không? Hầy, máu chảy rồi!"
Tiết Hạo: "Không sao đâu, không nặng lắm, chỉ rách da thôi..."
Tiết Chú thở phào, lại hỏi tiếp: "Nghe nói đệ có công hộ giá, rốt cuộc là chuyện gì thế?"
Tiết Hạo gãi đầu: "Cái này thì..."
Phải nói là mình có công hộ giá cũng đúng. Lúc ấy địch có hơn mười người, mà hắn, Trương Đại Tráng và phe Dự vương cộng lại, mới có sáu người tất cả.
Chỉ là vết thương duy nhất của Dự vương hình như không hẳn do thích khách gây ra.
Lúc đó chiến xong, thấy vương gia không bị thương, Tiết Hạo còn mừng thầm. Ai ngờ vương gia mặt mày vẫn bình thản, cầm thanh kiếm sáng loáng lên, đâm thẳng một nhát vào lòng bàn tay.
Lưỡi kiếm nhuốm máu.
Tiết Hạo nhìn mà ngây người, bởi trước khi Dự vương ra tay, chẳng hề lộ chút do dự nào. Giọt máu rơi lộp bộp như mưa rơi trên cây cối xung quanh, vậy mà người kia chẳng hề chớp mắt.
Ánh mắt sắc lạnh kia khiến người ta rùng mình, không dám nhìn lâu.
Tiết Hạo đầu óc tuy không linh hoạt, nhưng chẳng cần ai dạy cũng biết chuyện này không thể nói ra. Trương Đại Tráng cũng chứng kiến, song hai người đến giờ vẫn chưa bàn nhau lấy một câu.
Thế nên, đối mặt với ánh mắt lo lắng tò mò của cha và ca ca, Tiết Hạo bỏ qua đoạn ấy, nói: "Là thế này, lúc đó con với Đại Tráng đang đi tìm thỏ trắng của Bình An. Trời sắp tối, tìm mãi không ra, nên định mò vào rừng bắt đại một con thỏ trắng thay..."
...
Thỏ trắng của Bình An mất tích đã lâu.
Nàng ngồi thẫn thờ trước bức thư còn dang dở, tay mấy lần cầm bút nhưng vẫn chưa viết nổi một chữ.
Lần đầu tiên Tĩnh An cảm nhận rõ ràng Bình An đang có tâm sự. Nàng không khóc, không nháo, vẫn dịu dàng ngoan ngoãn, nhưng lại có gì đó không giống thường ngày. Như thể vừa bị sương thu xâm thực, héo rũ đi, khiến ai nhìn cũng thấy ngột ngạt trong lòng.
Tĩnh An nói: "Tỷ đi hỏi mấy cung nữ rồi, ai cũng bảo không thấy gì. Thật kỳ lạ, ai lại đi mở lồng chứ? Con thỏ ấy rốt cuộc đi đâu rồi?"
Thường An giọng chẳng tốt lành gì: "Người dám động vào lồng, thiếu gì."
Ngọc Tuệ quận chúa, Hà Bảo Nguyệt, chỉ cần muốn, bảo cung nữ ngậm miệng thì không phải việc khó, nhất là Ngọc Tuệ.
Tĩnh An và Thường An đều nghi ngờ là nàng ta.
Còn chưa kịp nghĩ thêm cách tìm thỏ, tin Dự vương bị ám sát đã truyền về. Hoàng đế hạ chỉ, kết thúc săn thu năm nay, các nữ quyến cũng phải thu xếp hành lý, sáng sớm mai quay lại Thịnh Kinh.
"Lại có thích khách? Vương gia còn bị thương nữa? Cấm vệ quân ăn hại hết rồi à?"
"Nghe mà phát sợ! Ta chỉ muốn quay về ngay lập tức..."
Dẫu các ma ma trong cung đã dỗ dành hết lời, đảm bảo trong cấm uyển tuyệt đối không có thích khách, nhưng các tiểu thư vẫn hoang mang bất an, e đêm nay chẳng ai ngủ yên.
Bình An nghe được, biết vương gia bị thương.
Nàng lấy túi gấm thêu hoa sen ra, đổ hết kẹo bên trong ra ngoài, nhét chiếc khăn tay nền xanh ngọc vào thay.
Tĩnh An đi hỏi thăm tình hình từ các ma ma, còn Thường An thấy hành động này thì hỏi: "Giờ mà tỷ muốn đi gặp người ta à?"
Bình An khẽ gật đầu.
Thường An cảnh giác: "Trời tối rồi, đừng có chạy lung tung."
Bình An ngước nhìn trời, quả thật đã tối, nhưng vì có chuyện xảy ra, khắp nơi đều thắp đuốc sáng rực như ban ngày, không sợ nhìn không thấy đường. Huống hồ còn có cung nữ đi cùng, chẳng lo an nguy.
Để Thường An yên tâm, nàng dịu dàng bảo: "Ngoài kia sáng lắm."
"Ta sẽ quay về ngay, muội khỏi phải theo."
Thường An mặt lập tức đỏ ửng. Ý gì đây? Chẳng lẽ sáng nay nàng ấy lén theo sau, Bình An lại biết? Mà biết bằng cách nào? Rõ ràng trốn rất kín kẽ mà!
Nhưng nếu Bình An không nói ra, nhìn mặt nàng thôi cũng chẳng đoán được gì cả.
Thường An hơi luống cuống, quay mặt đi, làu bàu: "...Tỷ muốn đi thì đi, đi cho nhanh vào."
Ai thèm ngăn tỷ chứ.
...
Trong trướng của hoàng gia, ngọn nến cháy phát ra tiếng lép bép, ánh lửa khi sáng khi mờ.
Bên ngoài, thị vệ khoác giáp sắt đi lại vội vã, tuần tra khắp nơi, tiếng bước chân như gõ trống, mang theo sự khẩn trương.
Bùi Thuyên đứng bên án thư, bóng dáng cao lớn của chàng đổ dài lên mặt vải trướng.
Lưu công công liếc nhìn cái bóng ấy, thầm biết đêm nay qua đi, hoàng trường, Thịnh Kinh, thậm chí là cả triều đình, e là sẽ rung chuyển.
Chợt ngoài trướng có tiếng thị vệ quát lớn: "Ai đó?!"
Lưu công công giật mình: Ai to gan vậy, giờ này còn dám đến? Lão vội vã bước ra, nào ngờ lại thấy sau lưng cung nữ dẫn đường là Tiết nhị tiểu thư đang ló đầu ra.
Chữ "cút" suýt nữa đến miệng Lưu công công rồi, nhưng lão vội nuốt lại. Bao lần như thế, lão đã ngộ ra: Nếu lỡ miệng mắng nàng một câu, thì kẻ không muốn sống nữa chính là mình!
Lão vội cười xòa, cung kính nói: "Nhị tiểu thư, mời vào."
Bình An bước vào trướng của Bùi Thuyên.
Trong trướng thấp thoáng mùi thuốc, bài trí vô cùng giản đơn, bàn ghế giường nằm chỉ được ngăn bằng một tấm bình phong bốn cánh, duy chỉ có một kệ sách, trên đó xếp đầy văn thư công vụ.
Nhìn bóng dáng cao gầy ấy, Bình An khẽ gọi: "Vương gia? Vương gia?"
Bùi Thuyên ngẩng mắt. Có lẽ vì mất máu, sắc mặt chàng tái nhợt hơn thường ngày, thần sắc càng lạnh lùng thâm trầm như màn đêm phủ kín.
Chàng nhìn nàng chằm chằm, hỏi: "Sao lại tới đây?"
Bình An bước đến bên án thư, cẩn thận quan sát khuôn mặt chàng, may quá, không có vết thương nào.
Nàng lại dời mắt, từ mặt chàng lần lượt dò xuống cổ, bả vai, ngực...
Đã vậy còn nhìn trân trân như thế, vậy mà lại không khiến người ta thấy khó chịu, e là chỉ có nàng làm được.
Bùi Thuyên giơ tay lên: "Ở đây."
Vết thương đã được rắc thuốc trị thương, băng bó cẩn thận, song vẫn thấy vết hồng ửng mờ mờ.
Máu đã thấm ra.
Bình An mở to mắt. Nàng nâng tay Bùi Thuyên lên trước mặt mình, cách lớp băng, nàng chẳng nhìn rõ được vết thương bên trong.
Không hề báo trước, một giọt nước lăn từ má nàng xuống cằm, dưới ánh nến long lanh như giọt lưu ly trong suốt, phản chiếu ánh sáng mờ nhạt.
Giọt nước ấy rơi đúng vào ngón tay Bùi Thuyên, nóng rát.
Bùi Thuyên ngẩn người.
Ngay cả bản thân chàng cũng không nhận ra, cả người như đang giăng đầy sát khí, vậy mà trong thoáng chốc đã dịu lại. Giọng nói cũng trầm hẳn xuống, dịu dàng hẳn đi: "Đừng khóc."
Bình An ngẩng lên, khẽ nghiêng đầu. Đôi mắt đã rửa bằng nước càng thêm trong trẻo. Đến lúc chàng nhắc, nàng mới giật mình phát hiện mình đã khóc.
Rõ ràng nàng đã lớn rồi, vậy mà vẫn còn ch** n**c mắt.
Nàng cúi đầu, vành mắt hơi đỏ, hai má cũng hồng hồng.
Thiếu nữ bẽn lẽn như đóa quỳnh trắng trong đêm, lặng lẽ bung nở cánh hoa, tỏa ra một hương thơm nhàn nhạt.
Bùi Thuyên nheo mắt lại, nhưng Bình An đã buông tay chàng ra rồi.
Sau khi xem xong vết thương, Bình An nhớ đến mục đích thứ hai khi tới đây, bèn lấy từ trong túi vải ra một chiếc khăn tay màu lam nhạt.
Sợ Bùi Thuyên đã quên, nàng nhẹ giọng nhắc: "Cái này là của vương gia."
Bùi Thuyên khẽ "ừ" một tiếng trong cổ họng, rồi dùng tay không bị thương cầm lấy chiếc khăn từ tay nàng, đưa lên lau đi vết nước mắt còn sót nơi cằm nàng.
Bình An nghiêng đầu tránh đi. Ánh mắt Bùi Thuyên thoáng tối lại: "Tránh gì chứ."
Nàng nhìn chàng, lẩm bẩm khe khẽ như mèo con: "Vương gia vụng lắm."
Bình An nhớ rõ, vương gia là người đến lau vết mực còn lau chẳng sạch, toàn làm lem lấm cả mặt nàng. Nay lại bị thương rồi, chắc chắn càng lau không ra hồn.
Vụng về như vậy... Nhưng không sao, nàng có thể tự lau, nàng biết cách mà.
Bùi Thuyên: "..."
Chàng nghiêng người về phía nàng, đầu ngón tay nhẹ nhàng nâng cằm nàng lên, giữ cố định gương mặt: "Hôm nay không bắt nạt nàng."
Khăn tay nhẹ nhàng lướt qua, hàng mi dài của Bình An theo bản năng khép lại.
Chiếc khăn mềm mại lướt qua dưới mắt nàng, rồi từ từ xuống đến cằm.
Trên người vương gia mang theo mùi thuốc nhẹ thoảng, cùng mùi hương như gió núi thổi qua ngọn rừng, quyện lại một chỗ.
Thơm lắm. Rất dễ chịu.
Bất ngờ, tay Bùi Thuyên khựng lại. Chàng nhìn nàng, không tiếp tục động tác.
Bình An chậm rãi mở mắt ra, trong mắt còn đọng chút mơ màng, nàng nghi hoặc hỏi: "Vương gia?"
Bùi Thuyên nhìn nàng, giọng trầm khàn: "Nàng biết tên ta không?"
Từ trước đến giờ, nàng luôn gọi chàng là "vương gia", trong thư nhà cũng thế, chỉ viết "vương gia", chỉ là lúc ấy còn thêm chữ "thái tử" bên cạnh, nên cũng không có gì lạ.
Bình An nghiêm túc nghĩ một lát, rồi hỏi lại: "Dự?"
Quả nhiên, chẳng ai từng nói tên chàng với nàng cả. Nhưng Bùi Thuyên lại bất chợt thấy lòng mình bừng sáng, vì chuyện này, chàng có thể tự mình nói cho nàng biết.
Chàng nói: "Đưa tay ra."
Vì tay phải bị thương, nên chàng đỡ lấy bàn tay nàng bằng tay phải, rồi dùng tay trái, chậm rãi viết từng nét từng chữ trong lòng bàn tay nàng.
Lòng bàn tay Bình An khẽ siết lại, hàng mi run lên mấy lần, đôi mày nhỏ lúc nhíu lại, lúc giãn ra, như thể rất nhột.
Bùi Thuyên có chút hối hận. Hồi nãy chàng vừa nói hôm nay không bắt nạt nàng, vậy mà...
Chàng chỉ viết một lần rồi thu tay lại, hỏi: "Nhớ được chưa?"
Bình An vẫn còn ngơ ngác nhìn chàng, một lát sau, nàng xoay tay lại, ngón tay mềm mại nhè nhẹ nâng bàn tay trái của chàng lên, từ từ mở ra.
Nàng bắt chước chàng, dùng đầu ngón tay dịu dàng, từng nét từng nét viết trong lòng bàn tay chàng, vừa viết vừa đọc: "Bùi... Thuyên."
Bùi Thuyên nhẹ "ừ" một tiếng.
Thật sự đã nhớ rồi, Bình An khẽ cong mắt cười, vui lắm. Sau đó nàng lại dùng đầu ngón tay, viết tên mình vào lòng bàn tay chàng.
Nàng viết rất chậm, như thể chỉ cần chàng khép các ngón tay lại, là có thể gói trọn lấy đầu ngón tay nàng, cả bàn tay nàng, thậm chí cắn một miếng trên đầu ngón tay mềm như măng non ấy.
Bùi Thuyên nhìn nàng hồi lâu, mới chậm rãi nói: "Tên nàng."
Bình An khe khẽ đáp: "Là ta."
Nàng khẽ vuốt tay chàng, gập từng ngón lại thành nắm đấm, rồi nhẹ nhàng thổi một hơi lên tay chàng, dịu dàng thì thầm: "Bình bình an an, sẽ không bị thương nữa."