Ẩn Thần Tân Thê - Sa Kim Lưu Chử

Chương 119

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Chương 119: Tế mã xuân tàm • Lời nói dối của Phật Tử – 1

Kim đồng hồ quay ngược về trước. Bắt đầu kể từ chuyện xảy ra ở nhà Liễu Văn Bân. Có lẽ không chỉ cần nói về lý do tại sao vợ con Liễu Văn Bân lại ra ngoài “chơi “, mà còn phải quay về sớm hơn nữa, từ lúc Liễu Văn Bân chưa hay biết gì.

Nhà Liễu Văn Bân có một pho tượng Phật Tử, truyền lại từ hồi ông bác của Liễu Văn Bân làm tăng nhân trong chùa Kim Các trên núi Ngũ Đài, ông bác vẫn luôn thờ phụng bức tượng này cho đến những ngày cuối đời. Ông bác sống cô độc, không vợ con, chi nhà Liễu Văn Bân liền thờ ông bác như là ông ruột. Trước lúc lâm chung, trước giường bệnh quây quần biết bao con hiền cháu thảo, kỳ thực mọi người đều qua để hưởng sái duyên Phật của ông bác, vì sau khi xét lại cải cách văn hóa, ông bác làm trụ trì một ngồi chùa lớn ở ven thành phố D, sở hữu đạo hạnh cao thâm. Nhờ đó, chi nhà Liễu Văn Bân kinh doanh dịch vụ mai táng cũng từ từ phát đạt từ đời ông nội.

Đến đời Liễu Văn Bân thì con cái của cô chú bác đều chuyển nghề, làm người đứng đắn, chỉ còn Liễu Văn Bân nhút nhát nên học hành không đến nơi đến chốn, gia đình bèn dạy ông cách đi tiếp thị ở nhà tang lễ và bệnh viện. Người khác thì phát danh thiếp, nói lời hay ý đẹp, dỗ dành thân nhân người đã khuất, cố gắng kéo được một đơn hàng. Còn Liễu Văn Bân thì khôn lỏi, lấy danh nghĩa Phật pháp phổ độ chúng sinh, lén lút cung cấp dịch vụ giả dối là xoa dịu tâm hồn bằng tôn giáo. Xoa dịu đúng chỗ thì người ta sẽ cam tâm tình nguyện móc tiền, mong ông cung cấp thêm vài dịch vụ phụ, có cầu phúc hay nghi lễ gì đó thì càng tốt.

Để học lỏm một vài chiêu thức, Liễu Văn Bân thường hay đến chùa của ông bác để nghe giảng kinh, có lúc tham gia cả khóa học, dần dà ông cũng học được không ít kỹ xảo, còn kiếm được đơn hàng từ các khách hàng hương đến chùa. Ông bác thấy đứa cháu này phiền phức nên không cho Liễu Văn Bân vào chùa, Liễu Văn Bân bèn đổi sang chùa khác, nói chung sự nghiệp càng ngày càng phất lên. Mãi đến trước khi ông bác lâm chung, dường như chịu sự tác động nào đó, nên trong khoảnh khắc hồi quang phản chiếu, ông bác đã chỉ đích danh Liễu Văn Bân ở lại, còn những người khác đi ra ngoài.

Ông bác học kinh giảng kinh mấy chục năm nhưng chưa từng kể với người khác rằng hiện tại trên cõi đời này có một vị Phật Tử thật. Tại sao lại là thật? Tức là Phật Tử có tai mắt rõ ràng, trật tự nghiêm minh, không thể tưởng tượng nổi, tuy ngài đã lánh đời từ thời Đường, song uy và linh của ngài vẫn còn tồn tại.

Bất Không Tam Tạng đã tạo thử vài pho tượng nhỏ đầu tiên cho ngài ở chùa Kim Các, sau đó lại lần lượt chế tượng và lưu giữ tại các chùa lớn thời Đường khác, xác lập nên tiêu chuẩn đo lường cho tượng Phật Tử. Có tiêu chuẩn rồi thì đáng lẽ phải chế tạo hàng loạt tượng cho tương lai, nhưng sau khi Bất Không qua đời, nhân gian lại không thể nung ra được tượng Phật Tử nữa.

Do đó, bức tượng Phật Tử trong tay ông bác là một báu vật vô giá. Trước lúc lâm chung, ông bác nghe thấy giọng Phật Tử yêu cầu giao bức tượng cho hậu duệ có duyên Phật nhất trong nhà. Ông bác ngẫm nghĩ, cảm thấy trong đại gia đình này chỉ có mình Liễu Văn Bân có duyên với Phật. Con cháu khác trong nhà tuy có niệm Phật tụng kinh song đều cứng nhắc ngu độn, các bộ kinh lớn còn chẳng đọc hiểu được, ăn chay hay tụng niệm chỉ làm cho có, tự lừa dối mình mà thôi. Mà nếu xét về thành tâm thì thực ra trên đời chẳng có bất kỳ tín đồ nào thực sự thành tâm cả, vậy chẳng thà chọn người nào đầu óc linh hoạt. So với thành tâm, có vẻ Phật Tử ghét kẻ ngốc hơn.

Ông bác bảo Liễu Văn Bân đến nhà mình, tìm bức tượng Phật Tử trong giá sách bí mật, rồi dùng nghi thức thỉnh tượng Phật Tử về nhà Liễu Văn Bân, lập cho bức tượng một bàn thờ nhỏ, thắp hương mỗi ngày rồi cứ để kệ thế thôi. Liễu Văn Bân vô cùng hoang mang, “cứ để kệ thế thôi” tức là sao?

Ông bác thở ra thì nhiều mà hít vào lại ít, đã chẳng thể giải thích rõ nữa, chỉ dặn Liễu Văn Bân nhớ kỹ rằng chớ nên chủ động cầu xin Phật Tử, bức tượng Phật Tử này không phải để họ cầu nguyện. Ngài không phải gia thần, cũng không phải thần hộ mệnh, mà thực chất là đang ngang ngược chiếm cứ vị trí. Mãi sau này Liễu Văn Bân mới biết, những bức tượng thường là camera giám sát của Phật Bồ Tát, tượng Phật Tử cũng không ngoại lệ, cho nên cũng phải tìm một chỗ để đặt camera, còn phải nối mạng, cắm điện.

Bức tượng Phật Tử này vừa chuyển tới nhà Liễu Văn Bân thì tiền bạc, xe cộ, nhà cửa, vợ con đều tới theo, quả đúng là phất lên rực rỡ, mặc dù nhà ông làm nghề tang lễ.

Khoảng năm năm trước, Liễu Văn Bân thắp hương cho Phật Tử như thường lệ thì phát hiện hương không cháy, dù đốt bao nhiêu cũng vô ích. Liễu Văn Bân hơi dựng tóc gáy, song chẳng hề nghĩ nhiều, ban ngày không thắp được thì đến tối thử lại vậy. Buổi tối trở về, trước khi ngủ ông đã thuận lợi thắp hương cho Phật Tử, đến khi đi ngủ, ông mơ thấy ông bác đã mất từ nhiều năm trước. Ở trong mơ, ông bác hết gõ mõ lại khua bát, ép Liễu Văn Bân thực hiện pháp sự. Cuối cùng, ông bác nói rằng mình phải đi thật rồi, Liễu Văn Bân hãy nhớ nghe lời Phật Tử.

Hôm sau thức dậy, trước bàn thờ xuất hiện một cuốn hoàng lịch cũ. Liễu Văn Bân nhìn kỹ, trước đó cuốn lịch này được treo trên tường nhà ông mà? Sao lại bị tháo xuống đặt ở chỗ này? Liễu Văn Bân bèn cầm lên, vài chữ nhỏ đập vào mắt – “Kỵ đốn cây”. Liễu Văn Bân không nghĩ nhiều, treo cuốn hoàng lịch về lại trên tường, tiện tay xé bỏ tờ lịch hôm nay.

Buổi sáng đến cửa hàng kiểm hàng, buổi trưa chủ tiệm quan tài sang rủ Liễu Văn Bân cùng đến lâm trường. Mấy hôm trước chủ tiệm quan tài có đánh cược ở sòng bạc ngầm, chủ lâm trường thua đến mức chẳng còn manh quần cộc, đành mang lâm trường ra thế chấp, để chủ tiệm quan tài chọn lấy một mảnh đất, gỗ trong mảnh đất đó đều cho tiệm quan tài hết. Liễu Văn Bân nghĩ bụng, không đi thì uổng, thôi thì cứ coi như góp vui, hôm đó họ liền lái xe tiến về phía trước. Trong thành phố phổ biến hỏa táng, chứ ở vùng nông thôn hẻo lánh thì vẫn còn thổ táng, đặc biệt tỉnh S còn có đông dân tộc thiểu số, vài cụ già giàu có rất chịu chi đậm để mua quan tài, Liễu Văn Bân tất nhiên cũng sẵn lòng làm trung gian rao bán quan tài.

Sau khi lái xe đến nơi, chủ lâm trường mời họ ăn cơm trước, rồi tranh thủ trước khi trời sẩm tối, ông ta dẫn họ lên núi xem gỗ. Liễu Văn Bân chắp tay sau lưng đi cuối nhóm, có vẻ lâm trường này đã tồn tại ít nhất năm sáu chục năm, quả đúng như chủ lâm trường nói, đây là sản nghiệp cha ông ta từng tiện tay mua về. Hồi còn sống cha ông ta còn chăm non gìn giữ, chứ bây giờ chủ lâm trường đã muốn chuyển nghề, đúng lúc định bán một phần tài sản, mọi người gặp nhau cũng là duyên phận, nếu có người đồng ý cuộc giao dịch này thì tốt quá. Liễu Văn Bân bèn hỏi thăm, để duy trì lâm trường này phải tốn ít nhất 200.000 một năm, dù chỉ mua vài mẫu, nhưng nuôi một cái cây phải mất bao lâu đây? Phải đóng tiền duy trì trong bao lâu? Liễu Văn Bân liên tục nhẩm tính trong lòng, bỗng dưng lại nghe chủ tiệm quan tài nói “Cái cây này tốt đấy, hôm nay lấy luôn, xem như là tiền cọc”.

Thì ra hôm nay chủ tiệm quan tài muốn mang một cây gỗ về nhà. Cái cây mà chủ tiệm quan tài ưng ý là một cây tùng năm mươi tuổi, có thể làm quan tài độc mộc, tuy chỉ là giống tùng thường thấy nhất, song cây này chẳng những không xây xước mà còn chắc khỏe, chỉ mua gỗ thôi cũng phải 5 chữ số rồi, nếu muốn lâm trường vận chuyển giúp nữa thì một cây này sẽ có giá 20.000 tệ.

Liễu Văn Bân chắp tay đứng bên cạnh quan sát chứ chẳng lên tiếng, bỗng, ông sực nhớ đến ba chữ mình thấy hồi sáng – “Kỵ đốn cây”. Chủ lâm trường cũng nói sắc trời nhá nhem rồi, hôm nay không đốn nữa, ngày mai ông ta cho thợ tới đốn cây cũng được. Tuy nhiên chủ tiệm quan tài không chịu, chê chủ lâm trường không hào phóng, trước kia ông ta uống rượu rồi lên núi đốn cây, thích cây nào là đốn cây ấy, ngài mai gọi người lên vận chuyển cũng được cơ mà.

Chủ lâm trường không thuyết phục được, đành phải gọi thợ lên núi. Chẳng mấy chốc, tiếng đốn cây trên núi đã khiến đàn chim sợ hãi bay tán loạn, Liễu Văn Bân vẫn tin vào tâm linh, bèn bảo mình phải đi sang bên kia nghe điện thoại vì có việc làm ăn đột xuất. Cảm tạ trạm phát sóng của Trung Quốc, trong núi quả thực có tín hiệu, Liễu Văn Bân lánh đi thật xa, cơn thèm thuốc lá kéo đến, trong lòng bồn chồn khó chịu, ông rất muốn hút một điếu, tiếc là không được châm lửa trong lâm trường.

Một tiếng hét thảm thiết cất lên, xen lẫn tiếng người hoảng loạn, Liễu Văn Bân nghĩ thầm toi rồi, đã xảy ra chuyện.

Ông chạy lại xem, phát hiện thân cây đổ xuống đập trúng chân của chủ tiệm quan tài. Người bên cạnh bảo họ đã dặn chủ tiệm qua tài né xa ra, tuy các thợ đốn gỗ đều dày dặn kinh nghiệm, có thể khiến cây đổ đúng hướng, song vẫn sẽ có sai lệch ở một số chi tiết. Chủ tiệm quan tài khăng khăng rằng từ nhỏ mình đã kiếm ăn trên lâm trường, biết xem hướng cây đổ, nên bảo mọi người cứ kệ mình. Quá trình đốn cây ban đầu diễn ra suôn sẽ, thân cây thẳng tắp dần có dấu hiệu đổ xuống, chủ tiệm quan tài tính toán phương hướng cây đổ, ông ta đang chạy đi thì tự dưng bị thứ gì trong núi đẩy một cái, lỡ mất thời cơ. Cái cây ập xuống trúng bắp chân ông ta, dập nát toàn bộ chân, còn chỉ một lớp da dính liền. Chủ tiệm quan tài gục xuống đất k** r*n, Liễu Văn Bân điếng hồn, hớt hải xuống núi hô hoán gọi người và xe cứu thương.

Ba ngày sau Liễu Văn Bân mới thuận lợi về đến nhà. Chủ tiệm quan tài đã cụt chân, khó khăn lắm mới giữ được tính mạng. Gỗ quan tài đã vấy máu, lãng phí một cách vô ích. Liễu Văn Bân thắp hương cho tượng Phật Tử, phát hiện cuốn hoàng lịch cũ lại mở ra, hiện ra tờ lịch ngày hôm nay. Bấy giờ Liễu Văn Bân thấy tờ lịch ghi mấy chữ “Thích hợp mua bán”, thế là ông gọi điện cho chủ lâm trường, cuối cùng cái cây đó thuộc về ông với giá chỉ 1.000 tệ. Qua sự chỉ thị từ cuốn lịch, Liễu Văn Bân chế cây tùng kia thành xà nhà, vắt ngang lên trần xưởng nhà mình, ấy thế mà kéo được vô vàn tài lộc.

Liễu Văn Bân phát hiện, dường như có một sức mạnh vô hình từ nơi sâu xa đang kết nối với mình. Rốt cuộc, một ngày nọ, Liễu Văn Bân nhận được một đoạn tin ngắn. Ông chính thức thành lập liên hệ với Phật Tử. Chẳng vì lý do gì cả, chẳng qua ông bác của Liễu Văn Bân đã dắt mối cho ông, mà Phật Tử thì đang cần một tài xế.

Ban đầu, Phật Tử rất ít nói, mấy tháng mới gửi một câu xem như chỉ thị. Từ đó Liễu Văn Bân mới biết thì ra khu Vũ Hầu có một khách sạn năm sao thờ phụng tấm thangka da dê của Phật Tử, hàng năm đều có các gia tộc tín đồ tới làm lễ. Liễu Văn Bân làm tài xế đưa đón tín đồ của Phật Tử, thậm chí có lần tín đồ của Phật Tử gọi cả đoàn xe ở thành phố D, bảo là muốn dâng người cho Phật Tử. Liễu Văn Bân cẩn thận nghe ngóng, mới biết là nếu trong gia tộc nào đó có kẻ nổi lòng tham, đòi hỏi quá nhiều mà không trả nổi, Phật Tử sẽ ăn kẻ ấy.

Đây cũng chính là điều khiến Liễu Văn Bân cảm thấy sợ hãi nhất. Liễu Văn Bân từng đi theo một đoàn xe như vậy, họ đưa người đến biệt thự lớn ở ngoại ô, sau đó người ấy cứ thế tan thành mây khói. Khi Liễu Văn Bân hỏi những tín đồ kia, ai nấy đều tỏ ra không hề quen biết người nọ, không rõ là giả vờ hay là thật. Thậm chí họ còn phủ nhận việc từng có đoàn xe như thế tồn tại.

Mùa đông năm nay, Liễu Văn Bân nhận được tin nhắn bảo ông tới khu dân cư ở khu công nghiệp vùng ngoại ô để đón một người, họ tên và địa chỉ đều hết sức tường tận. Đêm hôm khuya khoắt, một cậu bé bước xuống lầu, trong lòng Liễu Văn Bân vô cùng thắc mắc và cũng đau thương. Cậu bé này có vẻ căng thẳng quá, sao Phật Tử lại muốn tìm một người trẻ tuổi như thế? Suốt quãng đường đi, Liễu Văn Bân luôn bật đèn xe, ánh sáng vàng ấm cũng chẳng xua tan được vẻ lo âu trên gương mặt cậu bé. Liễu Văn Bân vô thức cảm thấy chắc hẳn Phật Tử sẽ làm chuyện chẳng tốt đẹp gì. Ông nhớ tới đoàn xe lần đó, cái lần ăn người đó, ngặt nỗi Liễu Văn Bân hoàn toàn chẳng biết Phật Tử ăn người kiểu gì.

Rạng sáng, Liễu Văn Bân về đến nhà, đáng lẽ phải đi ngủ nhưng tâm lý ông cứ nôn nao. Khoảng chừng 6 giờ, Liễu Văn Bân lại nhận được tin nhắn từ Phật Tử.

[Trống rỗng]: Thi Sương Cảnh đang rất căng thẳng, ngươi đến khách sạn đón cậu ấy đi, tiện thể ăn sáng cùng cậu ấy luôn.

[Trống rỗng]: Sắp tới ta sẽ còn liên hệ với ngươi nhiều.

Lần thứ hai gặp cậu bé tên Thi Sương Cảnh kia, tuy ngoài mặt Liễu Văn Bân không biểu hiện gì, song trong lòng quả thực mở mang tầm mắt. Ông cực kỳ muốn hỏi “Phật Tử gọi cậu tới làm gì vậy”. Liễu Văn Bân biết Phật Tử có tai mắt ở nơi khác, nhưng trong tỉnh S thì chỉ có mình ông thôi. Từ lúc thờ tượng Phật Tử, trong lòng Liễu Văn Bân cứ như mây che khuất mặt trời, vừa sợ vừa kính. Đêm hôm ấy, mây mù tan đi, sương lạnh rửa sạch ánh trăng, dường như có thứ gì đó đã trở nên khác lạ.

✿Tác giả có lời muốn nói:

* Núi Ngũ Đài ở Sơn Tây thực sự có một ngôi chùa Kim Các nhé.

He he, bắt đầu hé lộ câu chuyện của Phật Tử, tùy theo từng góc nhìn khác nhau mà tôi sẽ áp dụng cách viết khác nhau. Góc nhìn của tài xế Liễu đương nhiên là phong cách chuyện ma rồi!

Tôi khá giỏi viết góc nhìn nhân vật. Trong hai quyển trước, góc nhìn song song của Phật Tử và Tiểu Cảnh đã cùng tạo dựng nên hình tượng cả hai, một phần tính cách và khí chất của họ chỉ tồn tại trong quan hệ giữa hai người họ với nhau, có những điều rất đặc biệt, nhận thức của họ đối với nhau chắc chắn khác với nhận thức của người ngoài về họ. Quyển này sẽ bổ sung góc nhìn của người ngoài, để mọi người biết trong mắt người khác thì Phật Tử và Tiểu Cảnh sẽ như thế nào.

Bình Luận (0)
Comment