Chương 123: Tế mã xuân tàm • Giới hạn tuổi thọ là 10.000 tệ

Đang ăn uống trò chuyện từ việc kinh doanh của Mã gia đến việc kinh doanh của Trác gia, điện thoại của Trác Dật Luân bỗng nhưng vang chuông báo làm người ta giật mình. Trác Dật Luân nói đã đến giờ rồi, hắn phải gọi điện báo cáo với cháu trai. Hai người đàn ông trung niên nhìn theo bóng Trác Dật Luân rời phòng, Trác Dật Luân đi rồi, không khí trên bàn ăn trở nên gượng gạo, Liễu Văn Bân không tiện nói nhiều, sợ phá hỏng việc của Phật Tử. Mã Khải Ca khen thịt bò ngon, uống hết chai rượu của mình, ăn uống no nê xong, ông ta cũng sờ mái đầu hói nửa mảng của mình, bảo là muốn gọi video cho người nhà. Liễu Văn Bân đang bực vợ con, trong lòng không muốn gọi, ngặt nỗi ai cũng gọi, thế là nỗi nhớ người thân vẫn chiến thắng cơn giận, ông cũng đi gọi điện, còn để lộ khung hình chung giữa ông và Mã Khải Ca, cười nói hi hi ha ha, vờ như đang bàn chuyện làm ăn.
Đến khi Phật Tử trở về, Mã Khải Ca đã say túy lúy, tháo kính nằm gục ra bàn. Phật Tử sợ Mã Khải Ca say xỉn nôn ra tự làm bản thân mắc nghẹn, không thể để ông ta nằm thế này được, liền đưa ông ta về khách sạn.
Phật Tử trở về phòng mình, suy nghĩ suốt đêm về những thông tin mà Mã Khải Ca chia sẻ. Nếu chỉ vì cùng mang họ Mã thì mối nhân duyên này quá xa cách rồi. Sự tích về Mã Minh Bồ Tát quả thực có từ khá sớm. Trước khi Phật Tử là Phật Tử thì Mã Minh đã đạt được tôn hiệu Bồ Tát rồi. Phật Tử và Bồ Tát đều là bán thành phẩm của Phật. Phật Tử cố nhớ lại khoảng thời gian hỗn loạn trước khi hắn sinh ra, luận pháp cùng chư thiên Thần Phật, có từng luận pháp cùng Mã Minh Bồ Tát không?
Từ thuở xuất thế đến nay, vị duy nhất từng thực sự giao thiệp với Phật Tử chỉ có Địa Tạng Vương Bồ Tát mà thôi.
Địa Tạng Vương Bồ Tát lập đại nguyện rằng địa ngục chưa trống rỗng thì quyết không thành Phật. Đáng buồn là địa ngục thực sự có ngày trống rỗng. Trong ngàn năm qua, cấu tạo của địa ngục có sự thay đổi, mà thay đổi lớn nhất chính là Nghiệt Kính đài mất đi công hiệu, đá Ốc Tiêu sản sinh ra ác hỏa địa ngục cũng bị liên lụy. Vào thế kỷ trước, Nghiệt Kính đài bị vỡ, cơ chế đầu thai chuyển thế của địa ngục liền sụp đổ, Địa Tạng Vương Bồ Tát cũng từ từ mất tăm mất tích trong lúc qua lại với Phong Đô Đại Đế. Phật Tử cho rằng, Địa Tạng Vương Bồ Tát cố gắng thông qua niết bàn để đạt được sức mạnh uy lực hơn, từ đó giải quyết vấn đề. Đây là pháp và đại nguyện của bản thân Địa Tạng Vương Bồ Tát, cho dù sự thật ra sao thì hoàn thành chính là hoàn thành, và cũng nhất định phải rời đi. Tuy nhiên, cho tới nay Phật Tử chưa hề dò la tin tức về Địa Tạng Vương Bồ Tát nữa, càng không hề giao lưu tiếp xúc gì. *
Theo cách nói hiện đại thì Phật Tử từng có một nỗi băn khoăn khác: Phải chăng xưa nay hắn không được xem là một thành viên của Phật môn? Hắn đã bị ngăn cách ở bên ngoài. Không cùng chung một kênh nên tất nhiên không hề giao lưu, trò chuyện.
Một đêm chẳng chợp mắt. Mùng bốn Tết, Mã Khải Ca điều tài xế qua, mời khách đi Tây Ninh, không thể ở lại huyện thành nữa, đây không phải là đạo đãi khách.
Mã Khải Ca mời Trác Dật Luân ngồi chung một xe, song Trác Dật Luân từ chối, hắn nói thẳng là trò chuyện với ông chủ Mã đau đầu lắm, muốn nói thì chờ an toạ vào chỗ đã rồi nói sau.
Ông chủ Mã hiếu kỳ, vì sao Trác Dật Luân lại hẹn gặp ở nơi giáp ranh giữa các tỉnh, bay thẳng từ thành phố D đến Tây Ninh không dễ hơn sao?
Trác Dật Luân đáp, “Đây là yêu cầu của Phật Tử mà, phải điều động ông chủ Mã, khiến ông vừa nhận điện thoại là phải nghĩ cách từ Thái Lan về nước ngay lập tức, thậm chí phải bay thâu đêm, như vậy thì thời gian của ông chủ Mã sẽ chẳng còn nhiều nữa. Ông không nhận ra đêm ấy vợ con ông chủ Liễu không còn nghe lời như trước ư?”
Nói rồi, Phật Tử lững thững đi mất.
Hắn đã nói toạc ra ý đồ của ông chủ Mã. Chẳng lẽ Mã Khải Ca lại không biết dụng ý của Phật Tử hay sao? Từ cái đêm rời khỏi Thái Lan, đi từ khách sạn ra sân bay, ông ta cứ luôn cảm giác có kẻ đang theo dõi mình. Chẳng qua Mã Khải Ca tưởng ông chủ Trác không rõ nguyên nhân phía sau thôi.
Kỳ thực ông chủ Trác biết hết tất cả.
Dọc đường không hề thấy ông chủ Trác thờ phụng tượng Phật Tử, tín đồ của Phật Tử đều giao lưu với Phật Tử thông qua tượng Phật Tử. Ắt hẳn là cháu trai hắn nói cho hắn rồi.
Đi thẳng về phía Tây Bắc, phần lớn thời gian đều dành cho việc đi đường. Dù họ xuất phát từ sáng sớm nhưng đến trưa cũng phải tìm chỗ nghỉ chân, ăn uống một bữa là lại mất hai tiếng đồng hồ. Lần này, ông chủ Mã và Trác Dật Luân nói chuyện về nhà họ Trác và nhà họ Thi.
Mã Khải Ca vừa ăn lạc vừa hỏi: “Sao chị ngài lại đến tỉnh S? Nếu con gái tôi gả tới núi Đại Lương là tôi chặt chân nó ngay.” (Núi Đại Lương là dãy núi nằm ở tỉnh Tứ Xuyên, khá xa xôi hẻo lánh và từng rất nghèo khó. Nơi đây có châu tự trị của người Di, tập trung đông người Di nhất Trung Quốc.)
“Năm xưa chị tôi bỏ nhà ra đi nên mới thế, chúng tôi còn có thể làm gì được đây? Dù sao anh rể của tôi cũng là người tốt, trước khi qua đời anh ấy rất thương yêu con.”
“Lại còn người tốt cơ á —— Có khi hắn ta bỏ bùa chị ngài đấy. Tôi không đùa đâu, trên căn cước của cháu ngài ghi là dân tộc Di đúng không?”
“Hiện tại đã là thế kỷ 21 rồi! Ông chủ Mã à, ông không thể vì tin Phật Tử hay tin lão tổ nhà ông mà nhìn ai cũng thấy mê tín dị đoan chứ. Dân tộc thiểu số làm gì ông hả? Ông đặt thẻ căn cước lên bàn cho người ta xem đi, ông cũng là dân tộc thiểu số còn gì?” Trác Dật Luân tức cười.
“Không phải thế.” Mã Khải Ca gật đầu bảo, “Hôm ấy tôi tham gia hội đấu giá, lão tổ của tôi cứ nói “Quỷ chủ”, “Quỷ chủ”,…… Tôi về tra cứu thì hiện ra đủ thứ thông tin tạp nham, lúc thì bảo là La Thi Quỷ Quốc **, lúc lại bảo là thuật của tất ma…… Ngài hãy cẩn thận một chút. Chớ để Tiểu Thi biết chuyện này. Tôi gửi đoạn radio tôi nghe cho ngài, lát nữa lên xe ngài cũng nghe đi.” (La Thi Quỷ Quốc là một quốc gia cổ của dân tộc Di, nằm ở tỉnh Quý Châu, tồn tại từ thời Bắc Tống, thủ lĩnh của họ được tôn là quỷ chủ. Tất ma là tư tế, thầy pháp trong tôn giáo truyền thống của dân tộc Di.)
Liễu Văn Bân ở bên cạnh nghe mà nhức hết cả đầu, tư duy logic của thằng cha Mã Khải Ca này kém muốn chết, cứ nói lan man chẳng liên quan. Thế mà Phật Tử vẫn ăn uống trò chuyện cùng ông ta, Liễu Văn Bân sắp không nhận ra Phật Tử nữa rồi, như này mà cũng chịu được sao?
Mã Khải Ca lải nhải về nhà họ Thi xong, lại chuyển sang lải nhải về nhà họ Trác. Ông ta nói: “Bức tranh “Người phụ nữ bên những đồng tiền Kushan rơi vãi” trong hội đấu giá lần trước, tôi có lòng mà chẳng đủ sức. Lão tổ cứ nói “Người phụ nữ”, “Người phụ nữ”,…… Tại sao lại là phụ nữ? Chỉ riêng bức tranh đó đã mấy triệu đô rồi, sao tôi dám muốn?…… Đối với chuyện của chị ngài, tôi đã nghe qua và cũng rất lấy làm tiếc. Chị ngài xinh đẹp đến thế, tiếc quá. Xin thứ cho ông anh này nói chứ —— Tôi mà quen chị ngài sớm hơn thì tốt rồi, có khi tôi với chị ngài lại là mối duyên đẹp. Nói đi nói lại, Mã Minh Bồ Tát…… Tôi nhớ ra rồi, vua Kanishka, đế quốc Kushan, Đại Nguyệt Chi ***…… Bị Hung Nô đánh đánh đánh, đánh dạt về tận phía Tây……”
Trác Dật Luân đi ra cửa, gọi tài xế của Mã Khải Ca lại, “Ông chủ của anh say xỉn là lại bắt đầu kể chuyện, mau xử lý đi, chúng ta tiếp tục lên đường.”
Liễu Văn Bân vào nhà vệ sinh đi tiểu, ông rất muốn chạy trốn, ông cho rằng sự việc bước vào giai đoạn này rồi thì Phật Tử nghĩ cách ứng phó với Mã Khải Ca là xong, không cần quá nghiêm túc. Tối qua Phật Tử còn nghĩ có nên đưa bức tượng khác trong kho của mình cho Mã Khải Ca không, ông cảm giác Phật Tử không muốn đi theo nữa, nhất là khi Mã Khải Ca mô tả nhà mình là “Dinh thự Trung Nguyên lớn xây dựng trên thảo nguyên”, Liễu Văn Bân cảm thấy giống y như phim ma vậy.
Thấy Liễu Văn Bân co đầu rụt cổ, Trác Dật Luân bèn xách cổ ông nhét vào trong xe, ngươi chạy không thoát đâu!
5 giờ chiều, bọn họ đến Tây Ninh, Phật Tử gọi điện cho Thi Sương Cảnh. Hắn dần dần cố định thời gian gọi điện, như thế này tốt cho cả hai người, không cần cả ngày chờ đợi mãi một cuộc gọi chẳng biết bao giờ mới tới.
Ký ức của Thi Sương Cảnh về bố mẹ đều vô cùng mơ hồ. Cậu hoàn toàn chẳng biết gì về chuyện của Trác Du, song hồi bé ở nhà cũ cậu từng xem thẻ căn cước của Trác Du, chẳng hiểu sao tấm thẻ đó chưa bị thu lại, trên căn cước quả thực ghi Trác Du là người tỉnh Q, La Ái Diệu cũng dựa trên thông tin này mà bịa ra cả câu chuyện về gia tộc. Nhà Thi Lâu Đình ít ra còn tìm được một bà cô họ xa, còn người nhà Trác Du thì từ đầu chí cuối chưa từng lộ diện. Trước hội đấu giá, La Ái Diệu đã tìm cơ hội xâm nhập vào ký ức của Thi Sương Cảnh và biết được địa chỉ cụ thể trên căn cước của Trác Du, tuy nhiên khi hắn tra xét thì địa chỉ năm xưa đã vườn không nhà trống từ lâu. Rất nhiều thông tin quan trọng đều đồng loạt biến mất theo cái chết của Trác Du, thân phận, hộ khẩu…… Bà cứ như một người bỗng dưng xuất hiện rồi tựa phù dung sớm nở tối tàn.
Còn về Thi Lâu Đình, ông hẳn không có xuất thân đặc biệt gì. Mã Khải Ca cố gắng chứng minh rằng Thi Sương Cảnh đặc biệt, mà sự đặc biệt của cậu là ở cặp cha mẹ đặc biệt của cậu. Tuy nhiên La Ái Diệu mới là người sớm chiều kề cận bên Thi Sương Cảnh, đúng là Thi Sương Cảnh rất đặc biệt, song có vẻ không phải số mệnh của cha mẹ đã gia tăng sự đặc biệt cho cậu. Cho dù Trác Du và Thi Lâu Đình đặc biệt, nhưng chỉ riêng hai chữ “chết sớm” này cũng đủ xóa bỏ sự đặc biệt của họ rồi. Trong nửa đời trước gập ghềnh trắc trở của Thi Sương Cảnh, có rất nhiều khoảnh khắc cậu có thể đã sa chân vào chỗ chết. Đặc biệt thì ích gì chứ, được sống còn quan trọng hơn cả đặc biệt.
La Ái Diệu cảm thấy việc người Thi Sương Cảnh nổi mề đay có hơi kỳ lạ. Lúc còn đang xử lý chuyện nhà Trang Hiểu, một sáng nọ Thi Sương Cảnh cũng bị nổi mề đay như thế, La Ái Diệu đã tiện tay chữa cho cậu. Chẳng bao lâu sau, Thi Sương Cảnh lại phát sốt, sốt gián đoạn suốt hai ba ngày.
Chuyện sống chết của Thi Sương Cảnh, La Ái Diệu không đoán nổi và cũng chẳng thể nói rõ. Vào thời khắc chuyển giao năm mới, hắn chợt nhớ tới giá trị thặng dư mà hắn đã ước đoán cho Thi Sương Cảnh lúc mới nhận được nguyện vọng của cậu.
10.000 tệ.
Khi đó La Ái Diệu nhận định toàn bộ sinh mệnh của Thi Sương Cảnh chỉ trị giá 10.000 tệ.
Bất cứ sinh mệnh nào chỉ trị giá 10.000 tệ thì thời gian còn lại sẽ chẳng còn quá dài. Lúc ấy La Ái Diệu vô cùng tự phụ mà ứng trước khoản 10.000 đó cho Thi Sương Cảnh, bảo cậu tiêu hết, vậy thì hắn có thể đối xử với cậu như những tế phẩm con người khác —— Nhưng Thi Sương Cảnh lại bị đối xử tàn nhẫn, bị kẻ điên đoạt mạng trước kỳ hạn, khiến kế hoạch của La Ái Diệu thất bại. Sau biến cố đó, La Ái Diệu cho rằng cái hạn mức “10.000 tệ” không còn đáng tin nữa, hắn bắt đầu từ từ chu cấp tiền bạc cho Thi Sương Cảnh..
Hắn từng bước thử thăm dò, muốn từ bỏ mưu tính, muốn cùng chia sẻ sự dư dả về kinh tế. Từ sau khi tiễn gia đình Trag Hiểu rời đi, ý nghĩ ấy của hắn ngày càng mãnh liệt. Lập dự án từ thiện thông qua hội đấu giá để hỗ trợ lâu dài, đây là một hạng mục; mua nhà để yên tâm, tính là một hạng mục; những khoản chuyển tiền nhỏ tích lũy theo tháng, cũng là một hạng mục…… Tiền bạc là tình cảm được hiện vật hóa, La Ái Diệu thích phương trình rõ ràng này. Gần đây hắn còn hơi đắc ý, cứ luôn cảm thấy: chưa đủ, chưa đủ.
Thế nhưng khi kéo xa khoảng cách, hôm nay La Ái Diệu bỗng nhiên trù tính, cảm giác kỳ quặc chẳng thể nào tiêu tan. Cứ như mỗi khi nhắc đến quá khứ của Thi Sương Cảnh, hắn lại buộc phải đối diện với sự thật rằng Thi Sương Cảnh chỉ là một phàm nhân, ắt bị giới hạn bởi thọ trọc. (Thọ trọc hay còn gọi là mệnh trọc, là 1 trong ngũ trọc, tức năm thứ ô uế trên thế gian. Thọ trọc nghĩa là sinh mệnh, thân xác ta đang mang là ô uế, cho nên vô cùng ngắn ngủi và vô thường, không thể tự định đoạt cái chết.)
Huống hồ, cha mẹ Thi Sương Cảnh đều quá yểu mệnh.
10.000 tệ. Một con người đang yên đang lành sao thọ mệnh lại chỉ còn 10.000 tệ?
✿Tác giả có lời muốn nói:
* Tình tiết trong bộ “Xung hỉ dị văn đàm”.
** La Thi Quỷ Quốc, hay còn gọi là La Thị Quỷ Quốc, là một quốc gia cổ của dân tộc Di, thủ lĩnh được xưng là “Đại quỷ chủ”. Dân tộc Di tôn sùng vu thuật của tất ma.
*** Mã Minh Bồ Tát là cao tăng được đức vua Kanishka của đế quốc Kushan tôn kính, khi đế quốc Kushan chinh phạt Trung Ấn Độ, vua Kanishka cho rằng bát Phật và Mã Minh Bồ Tát trị giá hai ức vàng. Tương truyền rằng người Nguyệt Chi ở hành lang Hà Tây khi đi về phía Tây đã phân ra bộ lạc Đại Nguyệt Chi, sau này lập nên vương triều, phát triển thành đế quốc Kushan.