Chương 179: Đại trí giả ngu • Cõi Thanh Lương – 3

Tuy La Ái Diệu là Phật Tử ghi danh ở chỗ Phật Nhiên Đăng, trải qua hàng vạn năm trong các buổi giảng kinh của Phật Tổ và các bậc Đại Bồ Tát, nhưng một khi đã nhập thế, đã cách ly thì ngàn năm chưa gặp, lại thêm lần cưỡng ép lôi kéo ở dinh thự Mã gia, thành ra bây giờ hắn cảnh giác với các Đại Bồ Tát lớn cũng là lẽ thường thôi.
Giống như La Ái Diệu có thể triệu hoán pháp giới của mình bao phủ khu Lệ Quang, Văn Thù Bồ Tát cũng có thể hiển hiện pháp giới ở bất cứ đâu tùy thích. La Ái Diệu quen hành động một mình rồi, đâm ra không biết cách giao thủ với Bồ Tát, nên kính cẩn nhượng bộ hay nên nói thẳng trước mặt đây? Hắn giương cung vàng thể hiện tính công kích, dựa theo kinh nghiệm của hắn trong vụ dinh thự Mã gia thì đối phó với lũ người biến dị còn tiện hơn. Tuy nhiên hắn cũng không nỡ chút nào, hắn luôn tránh nghĩ đến điều này, lẽ nào Văn Thù Bồ Tát muốn lên nhập vào người Thi Sương Cảnh? Thế thì khó ra tay quá.
Nhìn quanh tứ phía, ngay cả sư tử xanh cũng biến mất tăm, muốn tấn công mà không tấn công được. Hắn bức bối xoắn xuýt, chẳng hiểu sao lại vô thức lấy cung tên ra. Cung kim cang là để hàng ma siêu độ, nhưng nơi này không có ma, thậm chí không có người.
Trong điện Tam Đại Sĩ khá chật chội, đây không phải bảo điện thực sự của Văn Thù Bồ Tát. Bảo điện của các Đại Bồ Tát đã niết bàn đều được chạm trổ tinh xảo, pháp ý ẩn giấu trong những hoa văn lộng lẫy nhất.
La Ái Diệu đi nửa vòng, lại thấy khoảng sân giữa, lần này sân giữa đã bị sương mù dày đặc che phủ, phiến đá dưới đất kéo dài vô tận vào trong làn sương xanh. Đốm sáng đỏ chói lấp lóe trong màn sương, hệt như nước mưa rơi xuống đồng sôi, cảnh tượng ấy chẳng thuộc về chốn nhân gian. La Ái Diệu vừa bước ra, mưa liền trút xuống người hắn, đau đớn nóng cháy, đúng là áp dụng thủ đoạn của địa ngục với hắn rồi. La Ái Diệu là Phật Tử nên không có cảm giác đau đớn, thế mà hôm nay hắn lại cảm nhận được cơn nóng cháy. Hắn nhíu mày song không lùi vào trong điện, ngàn vạn đóa hoa sen tức khắc hiện ra nghênh đón ngọn lửa.
Sen xanh, sen đỏ, sen trắng, bắt lửa là đều cháy xém. La Ái Diệu tìm kiếm Thi Sương Cảnh trong ánh lửa, hắn nghĩ bụng tại sao tất cả mọi người đều dùng Thi Sương Cảnh để thử thách mình cơ chứ —— Lúc niết bàn đại thừa, họ cần Thi Sương Cảnh chết để chấm dứt nhân duyên của La Ái Diệu; bây giờ La Ái Diệu đang ngộ ra niết bàn Mật tông của mình, Văn Thù Bồ Tát lại dùng Thi Sương Cảnh để gây khó dễ cho hắn, còn muốn tranh biện kinh pháp nữa chứ, đến nỗi lòng hắn bùng lửa giận, phẫn nộ khôn kể.
La Ái Diệu: Ta đã chán ngán tranh biện kinh pháp đại thừa rồi, ta không muốn niết bàn viên mãn theo kiểu vô tri, vô giác, vô vật chất. Trong lam nguyệt không hoa của ta, thực là thực, hư là hư, ranh giới giữa hư và thực là theo ý nguyện của ta, ta nguyện mãi mãi giữ Thi Sương Cản ở bên. Ta nói lại lần cuối cùng, bất kể em ấy có phải là huyễn hay không thì đều chẳng do ta thảo luận, chứng minh. Ta là ta, em ấy là em ấy. Ta đồng hành cùng em ấy, thực tính căn bản của bọn ta đã hoàn toàn liên kết với nhau.
La Ái Diệu: Dẫu trước khi gặp gỡ chưa từng nghĩ sẽ có ngày dung hợp, nhưng trong khoảnh khắc duyên giác ấy, nghiệp đã thành lập rồi. Không phải do ta tranh biện hay không tranh biện mà có thể phủ nhận được, cũng không phải do ông tranh biện hay không tranh biện mà có thể phủ nhận được.
La Ái Diệu: Ta nói rõ rồi chứ?
“Thi Sương Cảnh”: Rất rõ ràng. Nhưng ngươi vẫn chưa trả lời, ngươi có dám nhìn ta hay không?
La Ái Diệu: Ta nhìn Thi Sương Cảnh chứ không nhìn ông.
“Thi Sương Cảnh”: Cho nên ta mới hỏi ngươi, ngươi có dám nhìn ta hay không?
La Ái Diệu: Không phải, ông không phải em ấy. Ta đã thăm dò Phật duyên của Thi Sương Cảnh rồi, trước khi bọn ta gặp nhau, em ấy không hề liên quan tới nghiệp của Phật môn; sau khi bọn ta gặp nhau, em ấy cũng chỉ liên quan tới ta mà thôi.
La Ái Diệu chậm rãi bước đi trong biển lửa, dù cố cách mấy cũng chẳng thể rời xa điện Tam Đại Sĩ. Con mắt Phật lơ lửng dõi xuống nhìn thấy bóng dáng Thi Sương Cảnh vẫn đang di chuyển theo hình hoa sen, hình như cậu cầm một vật dài, cứ vào trong điện rồi ra khỏi điện, dấu chân vẽ ra cánh sen trùng điệp nhưng mãi mãi không thể chạm tới pháp giới của Văn Thù.
Cơ thể càng lúc càng nặng nề, cơn mưa đồng xối lên người, tựa như những miếng vàng cố thếp lên tượng Mật tông của hắn vậy. Hiếm khi La Ái Diệu mới gặp tình cảnh bị kẻ khác khống chế, khó lòng thoát ra. Cung và tên kim cang vừa có thể phá chướng ngại vừa có thể từ bi. La Ái Diệu thậm chí còn chẳng có mục tiêu, đầu óc hắn chỉ nghĩ đến đề thi của Văn Thù —— Nếu hắn không hiểu sai thì hẳn Văn Thù Bồ Tát đang kiểm tra hắn.
Đúng là Thi Sương Cảnh vừa mới thi đại học xong lại tới lượt La Ái Diệu thi đại học. Hắn vẫn đang cấp tốc tu sửa pháp giới của mình, nghĩ xem có thể trì hoãn hay không, dù sao ngao du thế gian trong thân xác Phật Tử cũng rất thuận tiện, không cần niết bàn ngay lúc này, chờ mấy chục hoặc mấy trăm năm nữa cũng được mà. Có nhiều người không nhìn nổi sự trì hoãn của Phật Tử, cho nên Văn Thù Bồ Tát mới ra mặt.
“Ngươi có dám nhìn ta hay không” —— Ngươi có dám nhìn Thi Sương Cảnh hay không? Nhìn như thế nào? Nhìn bằng mắt hay nhìn bằng tâm? Dù theo cách nào thì La Ái Diệu cũng đã nhìn Thi Sương Cảnh cả ngàn vạn lần rồi. Trong mắt La Ái Diệu, Thi Sương Cảnh đại xảo nhược chuyết, đại trí nhược ngu, cho nên từ cậu mà La Ái Diệu cũng học được đại biện nhược nột. Trong lúc sửa chữa pháp giới và bảo điện của mình, lòng La Ái Diệu chẳng vương chút tạp niệm, hắn không dùng việc tranh biện kinh văn làm nền tảng mà chỉ giữ lại những gì tinh túy.
(Đại xảo nhược chuyết: cực khôn khéo mà trông như vụng về. Đại trí nhược ngu: cực thông minh mà trông như ngốc nghếch. Đại biện nhược nộn: cực giỏi tranh biện nhưng trông như ấp úng. Đây đều là các ý trích từ Đạo Đức Kinh của Lão Tử.)
Ngươi có dám nhìn ta hay không? Sao ta lại không dám nhìn? Ta nhìn vào con người phàm tục nhất của ngươi. Từ lâu La Ái Diệu đã chấp nhận sự thật rằng mình yêu phàm nhân thì còn cần nhìn chằm chằm phàm nhân đến mức nào chứ? Nhìn đến mức độ nào đó, thậm chí còn hóa thành trò cười. Hắn đã xem Thi Sương Cảnh là Thi Sương Cảnh, mà các chúng sinh khác cũng có bản chất tồn tại độc lập. Thừa nhận điều này, tôn trọng tất cả sinh mệnh có tình, đây là nền tảng từ bi của La Ái Diệu.
La Ái Diệu mệt mỏi lắm rồi nhưng vẫn xốc lại tinh thần, nếu mắt Phật nhìn thấy Thi Sương Cảnh vẫn đang đi tìm hắn thì hắn phải thúc đẩy tiến trình này, dẹp bỏ ý định buông lỏng sức lực.
*
Thi Sương Cảnh xách kiếm vào điện, sư tử xanh chờ ở trước cửa, ló nửa đầu vào. Thi Sương Cảnh xoay người chĩa kiếm vào mũi nó: “Mày và con mèo kia có quan hệ gì hả? Dụ tao vào tròng à? Tao thật chẳng hiểu nổi, chuyện của Phật và Bồ Tát mà sao cứ dây dưa với một con người như tao ——”
Sư tử xanh quay đầu né mũi kiếm, con mắt như chuông đồng linh hoạt chuyển động, hết nhìn Thi Sương Cảnh lại nhìn vào trong điện. Nó không biết nói, không cần trả lời câu hỏi của Thi Sương Cảnh, dù trả lời được cũng không giống trả lời, mọi việc trên đời này đều có sự sắp đặt riêng, cứ làm là được.
Thi Sương Cảnh vào điện Tam Đại Sĩ, nhìn thấy mặt sau của bàn thờ kính chứ mãi chẳng thấy bóng dáng tam đại sĩ đâu. Cậu đi theo vòng tròn, bước ra khỏi cửa, lặp đi lặp lại, không hề thấy được mặt trước của bất cứ bức tượng Phật hay tượng Bồ Tát nào. Hơn nữa, cứ mỗi khi quay người theo những tượng Bồ Tát này, cậu lại bị đưa về khoảng sân trước và sau điện Tam Đại Sĩ, không tài nào ly rời khỏi điện Tam Đại Sĩ.
Khoảng trắng trong lòng Thi Sương Cảnh đang dần lan rộng, cậu có cảm giác bị hút ra, như thể một hạt giống bị lấy đi, trải phẳng ra như một ngọn núi, một vùng biển. Những cảnh sắc mát lành, trùng điệp, thu nhỏ, kim khí chìm nổi trong lớp đất mỏng, mặt trời đổi chỗ cho mặt trăng, tỏa ánh sáng chói lóa. Có một tòa bảo điện sừng sững giữa cõi mát lành ấy, Bồ Tát không hiển hiện với cậu bằng diện mạo thật. Không nghe thấy tiếng La Ái Diệu hay Phật Tử kinh, Phật Tử chú, Thi Sương Cảnh tập trung tinh thần, nhớ đến chú văn mà La Ái Diệu đã dạy mình. Dáng vẻ cậu niệm chú vừa cố chấp vừa ngốc nghếch, cậu rút kiếm, hoang mang nhìn xung quanh, tiếng tụng kính bị gió tách ra rồi càng vang vọng hơn, ngỡ như tiếng hát, ngỡ như tất cả ca khúc cậu thường hát đều là để luyện cho cậu ca tụng được tốt hơn.
Giữa những tràng chú văn vượt qua thời gian và không gian, La Ái Diệu nghe thấy Thi Sương Cảnh đang kiếm tìm mình. Lần theo tiếng gọi để nhận biết đường đi, La Ái Diệu kéo căng dây cung, b*n r* mũi trên trước khi tiếng niệm tụng của Thi Sương Cảnh kết thúc.
Mũi tên xuyên qua mây mưa, đâm vào bàn thờ kính trong điện, bàn thờ đồ sộ ầm ầm vỡ tung, nhưng không phải bàn thờ bên phía La Ái Diệu vỡ. Thi Sương Cảnh nghe thấy tiếng vỡ trong điện, tưởng là La Ái Diệu quay lại nên hớt hải chạy sang, chỉ thấy bàn thờ kính vỡ tan tành. Ở chỗ lúc trước của ba vị Bồ Tát nay chỉ còn một đài sen màu đồng cao bằng tượng Phật, từng tia sáng huyền bí toả ra, lộng lẫy đến mức nom như điềm gở.
Lẽ nào ở bên La Ái Diệu là phải đối mặt với bộ phim kinh dị không hồi kết? Đương lúc Thi Sương Cảnh chần chừ không biết có nên tới gần đài sen màu đồng ấy hay không, sư tử xanh bỗng nhảy phóc lên bệ thờ, ngửi ngửi dị vật đó. Thi Sương Cảnh hơi đâu nghĩ nhiều nữa, cậu cũng leo lên bệ thờ, con sư tử gầm lên chẳng chút nể nang, Thi Sương Cảnh chưa bao giờ hứng chịu đòn tấn công từ sinh vật thần thoại thế này, suýt thì cậu chảy cả máu tai. Đất trời bỗng chốc đảo điên, cậu giơ một tay bám lấy đài sen đồng, cơn lạnh buốt thấu xương làm cậu phải rùng mình, ngỡ như thần hồn quay về chỗ cũ.
Bệ thờ chao đảo, con sư tử xanh không chịu buông tha Thi Sương Cảnh, nó nhảy xuống đất, đi vòng ra sau nhìn chòng chọc lưng cậu. Sư tử xanh to hơn Thi Sương Cảnh cả một vòng, loài thú cao bằng người thường có hình thể to gấp đôi con người trở lên. Ánh mắt con thú rất đỗi đáng sợ, ánh mắt con người lại rất đỗi kiên định. Đụng độ thú vật thì không thể nhìn thẳng vào mắt chúng, bằng không sẽ bị cho là khiêu khích. Thi Sương Cảnh lại càng muốn nhìn thẳng, cậu xoay tay cầm chắc kiếm, trước đó cậu đã dùng kiếm để thử con sư tử này rồi, nó né thanh kiếm, mặc dù không biết kiếm có làm nó bị thương được không nhưng dù sao vẫn hơn là không có vũ khí trong tay.
Thi Sương Cảnh biết một trong những vật đại biểu cho La Ái Diệu chính là hoa sen, do đó dù đài sen này kỳ dị đẹp đẽ cỡ nào, cậu cũng phải nhìn cho kỹ.
Sư tử xanh hất cổ, đột nhiên nổi điên, tấn công từ bên hông, lao thẳng vào cánh tay phải cầm kiếm của cậu. Cậu hạ thấp trọng tâm, tay phải tránh né cú táp của sư tử, thoát hiểm trong gang tấc. Tuy nhiên cậu vẫn chưa xuống khỏi bệ thờ, cậu quả quyết xoay người, dang tay ôm đài sen cao chừng nửa người vào trong lòng. Đài sen thực chất là một búp sen khép chặt, bị Thi Sương Cảnh khéo léo hái xuống, trọng lượng của nó lại không hề vượt quá ngưỡng chịu đựng của cậu.
Lấy được đài sen rồi, Thi Sương Cảnh bèn nhảy xuống khỏi bệ thờ, lao ra sân giữa, song bầu trời đổ mưa tầm tã như nước sôi sùng sục, làm tan chảy da thịt cậu. Cậu đành lui về đại điện, xem ra sư tử xanh quyết bắt cậu cho bằng được, nó rảo bước uyển chuyển, từ từ tiếp cận cậu.
Thi Sương Cảnh bị dồn vào góc, lòng nhân từ chẳng còn dư lại bao nhiêu, mấy lần sư tử xanh há mõm cố cắn vào chóp búp sen nhưng toàn sượt qua trước người cậu. Bị dồn đến đường cùng, Thi Sương Cảnh lách người đâm chéo một kiếm vào bên gáy sư tử, lực tay cực mạnh, găm vào trong thịt, làm sư tử phun máu lên đài sen.
*
“Thi Sương Cảnh” bảo với La Ái Diệu: Ngươi hãy nhìn sai lầm này đi.
“Thi Sương Cảnh”: Xưa kia Bất Không Tam Tạng lặn lội ngàn dặm xa xôi để đưa ngươi tới núi Ngũ Đài, ngươi có biết ông ấy từng băn khoăn trăn trở nên hướng ngươi tu theo pháp môn nào chăng? Từ khoảnh khắc nhìn thấy ngươi là ông ấy đã lường trước được tương lai rồi, nơi đây đã chẳng còn Mật tông, vậy vị Phật Tử Mật tông như ngươi sẽ phải đi đâu? Trên núi Ngũ Đài, Bất Không Tam Tạng năm lần bảy lượt cho mời ta. Cõi Thanh Lương trên núi Ngũ Đài là nơi ta hiển linh, Bất Không đã chọn sẵn cho ngươi một vị Đại Bồ Tát làm hộ pháp, chính là ta – Cổ Phật, Đại Bồ Tát của trí tuệ. Tuy nhiên ta không nhất thiết chỉ hiển linh tại núi Ngũ Đài. Sương cảnh thanh lương, ta cũng có thể mượn số mệnh đặc biệt này để hiển linh tại đây.
(Núi Ngũ Đài là thánh địa Phật giáo của Trung Quốc, tương truyền đây là nơi tu luyện của Văn Thù Bồ Tát. Núi Ngũ Đài còn có tên cổ là Thanh Lương, mang nghĩa mát lành, đồng thời cũng tượng trung cho sự tĩnh mịch trong nội tâm người tu hành và cảnh giới giải thoát khỏi phiền não.)
“Thi Sương Cảnh”: Ngươi có dám nhìn ta hay không? Phàm nhân ngu dốt, dám làm tổn thương thần thú, cả đời này cứ phạm hết sai lầm này tới sai lầm khác, ai sẽ gánh chịu tội nghiệt đây?
*
La Ái Diệu đội mưa đi vào điện, trên bệ thờ, tượng Mật tông của hắn đã được thếp vàng toàn bộ, chẳng thể nào thông khí hô hấp, bị giam giữ trói buộc trên đài cao. Lẽ nào từ nay về sau hắn sẽ bị thếp vàng rồi ngồi trên cao như vậy, tiễn người đi, đón người đến, thực hiện nguyện vọng của chúng sinh ư? Tất cả những thứ này thật quá ghê tởm, hoàn toàn không phải mong muốn của La Ái Diệu. Mắt Phật của hắn nhìn vào trong không gian chồng chéo, Thi Sương Cảnh đang ôm đài sen giằng co với sư tử xanh, chẳng phải là đang nhìn cậu đây sao? “Ta” trong câu “Ngươi có dám nhìn ta hay không” mà Văn Thù nói là mượn giọng của Thi Sương Cảnh, cho nên đúng là nhìn Thi Sương Cảnh.
Hắn suy nghĩ giải pháp. Nếu tranh luận thì không phải tôn chỉ của Mật tông. Hành động thực tiễn thì phải tự mình gánh lấy, dứt khoát gọn gàng, không được sa vào cuộc tranh biện của Văn Thù, chỉ cần làm là được.
Sư tử xanh tức giận đuổi theo Thi Sương Cảnh, chạy qua chạy lại trong điện thờ chẳng mấy rộng lớn. La Ái Diệu lại giương cung, gắn tên mới lên, nhắm vào vết thương vừa bị Thi Sương Cảnh đâm rồi b*n r* một mũi tên. Kể từ đó, cho dù Thi Sương Cảnh tấn công sư tử như thế nào, La Ái Diệu đều dùng tên kim cang để hủy bỏ nhân quả. Tất cả đều là huyễn, Văn Thù muốn lấy huyễn để chứng huyễn.
Thi Sương Cảnh phát hiện vết thương mình gây ra cho sư tử xanh đã khép lại, song ban nãy đúng là máu của nó đã bắn lên đài sen, cậu cuống quýt dùng áo lau đi, con sư tử lại bước đến, làm tiêu hao thể lực của cậu. Thi Sương Cảnh càng hận thì càng thấy sư tử hung mãnh hơn.
*
Đây là một cuộc thử thách dành cho hai người. Văn Thù Bồ Tát mượn mệnh cách của Thi Sương Cảnh để sắp đặt một đàn tràng hệt như trường thi. Thi Sương Cảnh phải phá chướng giữa yêu thương và căm ghét, còn La Ái Diệu phải phá chấp trong phá chướng.
Cứ chốc chốc Thi Sương Cảnh lại liếc nhìn vào khe hở của cánh sen khép chặt, cậu thấy thấp thoáng cảnh La Ái Diệu giương cung đi vòng quanh, mình mẩy đầy thương tích vì tắm mưa đồng. Cậu hướng về phía khe hở đó mà gọi tên La Ái Diệu, ngặt nỗi La Ái Diệu không hề nghe thấy.
Tia sáng lóe ra từ trong đài sen càng biến ảo kỳ lạ hơn, Thi Sương Cảnh cố tập trung nhìn vào trong khe hở.
*
La Ái Diệu nhủ thầm, hắn thực sự không muốn xuôi theo mạch tư duy của Văn Thù Bồ Tát nữa, gì mà sai lầm hay không sai lầm chứ, con người sẽ phạm sai lầm, Phật cũng sẽ phạm sai lầm. Trí tuệ không phải là không sai. Ngay cả trí tuệ cũng là định nghĩa giả. Văn Thù Bồ Tát cứ liên tục bảo La Ái Diệu nhìn, nhưng “nhìn” sẽ không đạt được đến chân thực. Mật tông tin rằng ba thứ thân, khẩu, ý phải hợp nhất và đồng hành, La Ái Diệu chỉ muốn tìm Thi Sương Cảnh và dùng hành động đơn thuần để chứng minh mình đã đưa ra lựa chọn, từ đó xem điều ấy là lẽ đương nhiên, giống như Pháp Vương Tử đương nhiên là Văn Thù vậy. Phật Mật tông tách xương ngực ra, phát hiện bên trong ẩn giấu một trái tim Phật Mẫu, đây cũng là lẽ đương nhiên, giống như xưa kia con người có thể đã hiểu nhầm về pháp tu song thân, giống như các vị Phật trước đây chưa từng thành công thế này.
La Ái Diệu có tên, Thi Sương Cảnh có kiếm. La Ái Diệu có cách rồi.
✿Tác giả có lời muốn nói:
Tên của Tiểu Cảnh có rất nhiều cách hiểu, trong quyển 4 cứ hiểu trước về nghĩa “cõi Thanh Lương” đã nhé.
Dịch âm chữ “Ái” trong tên của anh Phật Tử chắc chắn có tham khảo Ái Nhiễm Minh Vương, Kim Cang Ái Bồ Tát, cho nên tất nhiên hắn biết sử dụng cung tên.
Tôi xin biện giải cho Văn Thù Bồ Tát trước, Văn Thù Bồ Tát quả thực muốn khiến anh Phật Tử chứng minh một câu nói —— Sau khi ở bên người ấy thì sẽ vĩnh viễn không hối hận. Phật chính là như vậy đấy, trước tiên cứ nói ra (nguyện vọng) rồi dùng thời gian vô tận để chứng minh và thực hiện.
Tôi viết kỹ hai phần “Học được tất cả từ thân thể em” và “Cõi Thanh Lương” (cùng với mấy chương sau đó) cũng vì đây là phần mà hai người cùng tham gia. Đối với Tiểu Cảnh, việc anh Phật Tử niết bàn kỳ thực chỉ là cưỡi ngựa trắng đi rồi lại cưỡi ngựa trắng về, chỉ vậy thôi.