Chương 201: Phúc tới chùa lớn • Bạn cũ – 3

Hạnh phúc có ăn mòn mục tiêu và động lực của một người không? Liệu đối với phi nhân loại cũng là như thế hay chăng?
Đầu tiên phải xem xét định nghĩa của hạnh phúc. Từ quan niệm Eudaimonic của Hy Lạp cổ đại, tức nhấn mạnh vào khả năng phát huy trọn vẹn tiềm lực đạo đức của một người; đến quan niệm khoái lạc ở cận đại, hạnh phúc đã chuyển từ khía cạnh tinh thần về đời sống sản xuất và sinh hoạt cá nhân, gắn liền với vật chất xung quanh; rồi đến sự phân chia vô hạn ở hiện đại, mỗi người liên tục định nghĩa về hạnh phúc và chức năng, ai cũng có khả năng và quyền đạt được đầy đủ hạnh phúc mà bản thân có thể cảm nhận được. Hạnh phúc không chỉ là cảm giác, mà còn là lời hứa về sự phát triển và tự do của cá nhân.
La Ái Diệu không cho rằng mình là nhà triết học, hắn khó mà liên hệ bản thân với mấy kiểu nhà gì gì đó, song hắn cũng khó mà không tìm kiếm sự chính đáng cho “nút thắt” giữa mình và Thi Sương Cảnh. Có bao nhiêu phần trong quan niệm của hắn được gửi gắm qua ngôn từ của loài người? Những thứ nằm ngoài phạm trù hiểu biết của người khác thì có thực sự tồn tại không? La Ái Diệu bắt đầu “tồn tại” từ bao giờ? Bọn họ có thể tính là giống loài nào đó không? Vì sao La Ái Diệu cảm thấy mỗi vị Phật đều hỗn độn đến mức không thể gọi là một giống loài đơn nhất —— Hắn thậm chí không thể chắc rằng đời sau của mình cũng “kế thừa một mạch” với mình. Tuy nhiên hắn vẫn sẵn lòng trả giá nhiều như vậy. Hạ mình xuống cấp bậc con người, mặc dù không thực sự trở thành con người nhưng vẫn trải nghiệm hạnh phúc hoặc thực hiện hạnh phúc, mỗi bước đi để lại một dấu chân, đây là cách thức tồn tại cấp thấp song lại rất rõ ràng, giống như gấu để lại dấu tay vụng về trên bùn đất, giống như chim bay trên trời để lại chất bài tiết màu trắng, giống như xương cốt thô ráp, giống như nhị đực và nhụy cái gắn kết với nhau.
Tại thế giới của Phật, Phật quốc là gì? Ý nghĩa tồn tại của Phật có nên chỉ được luận chứng trong hoàn cảnh của Phật không? La Ái Diệu cảm thấy dường như họ đều có chung sự bất lực đối với thời gian, hắn cũng khó lòng phiên dịch thế giới của hắn, quan niệm của hắn thành khái niệm mà con người có thể lý giải được. Lý giải về Phật từ góc nhìn của con người và lý giải về Phật từ góc nhìn của Phật là hai việc hoàn toàn khác nhau.
La Ái Diệu giống như cây đậu thần trong truyện cổ tích, bén rễ từ mặt đất trên Trái Đất, nảy mầm sinh trưởng đến độ cao vô hạn, nhưng điểm đến của hắn không phải một hành tinh khác, mà là thế giới Phật quốc chồng chéo, không thể luận chứng ấy. Thậm chí hắn chẳng biết mình có phải là duy nhất hay không. Có phải là duy nhất hay không, điều này dường như cũng chẳng quan trọng. Mà quan trọng là, việc từ đơn nhất biến thành quần thể chính là một ý nghĩa tượng trưng.
Xuất phát từ tất cả mục đích rõ ràng lẫn mơ hồ, La Ái Diệu và Thi Sương Cảnh gắn chặt với nhau thành chiếc khóa ngọc, vớt lên một cặp vòng từ hoa trong gương, trăng trong nước, mới vỡ lẽ rằng phía bên kia chẳng phải là hư ảo. Ý nghĩa của việc La Ái Diệu ở lại dường như là làm rõ mọi yếu tố mà trước đây hoàn toàn phụ thuộc vào “suy đoán” của con người, bao gồm cả sự chính xác hữu hạn.
Xét từ mục tiêu này, La Ái Diệu có nền tảng để hòa hợp với thời hiện đại. Cũng vì thế mà hắn có thể tồn tại cùng tất cả giống loài theo cách không khiêm nhường cũng không tàn khốc. La Ái Diệu vượt xa định nghĩa “thông minh”, nếu nhìn theo thước đo thời gian dài đằng đẵng, hắn lại được ca ngợi nhiều hơn vì lòng kiên nhẫn bền bỉ khác thường. Những người quen biết hắn sẽ không thấy lạ khi hắn chọn kiểu sống ẩn dật như thế này, cũng sẽ không quá kinh ngạc nếu một ngày nào đó hắn đột nhiên gây rúng động. Không mang phong thái của người bảo vệ, cũng không phải tai họa tiềm tàng. Phật vốn như hoa như sương, chẳng thể nương tựa. Phật và Phật Mẫu, Phật Tử đều hòa hợp một cách khó tả.
Một bàn tay nhỏ chạm vào sườn mặt La Ái Diệu, Thi Nghi Ngọc mới học nói chưa lâu bảo rằng: “Cha ơi, mắt”.
Ý Thi Nghi Ngọc là họ có ánh mắt giống nhau.
Mùa mưa trong núi, suối có nguy cơ dâng lũ, Thi Sương Cảnh và tăng lữ đi gia cố các vật liệu kiến trúc không thể ngấm nước, thế là nước bùn lấm bẩn khắp người. Thi Sương Cảnh nói với hắn: “Việc tốt thường gian nan.”
La Ái Diệu tính thời điểm mà mình rời khỏi suối đỏ, xác nhận là vào đầu quế nguyệt, tức đầu tháng 8 âm lịch. Hắn liền ấn định sinh nhật của mình là ngày 8 tháng 9, vừa ăn bánh sinh nhật của Thi Sương Cảnh xong lại được ăn bánh sinh nhật của La Ái Diệu, đúng là quá hời cho Thi Nghi Ngọc. (Tháng 8 âm lịch là thời điểm hoa quế nở rộ, nên người ta gọi là “quế nguyệt”.)
Đêm hè hôm nay, La Ái Diệu dắt Thi Nghi Ngọc đã ăn no đi tản bộ trong núi, bên cạnh còn có Tưởng Niệm Lang mười sáu tuổi, quả là bầu không khí thần tiên trong núi ra ngoài ngao du, cơ mà hễ Tưởng Niệm Lang và Thi Nghi Ngọc gặp nhau là lại kết thành đôi bạn ấu trĩ. La Ái Diệu nhìn Tưởng Niệm Lang mở trừng cặp mắt rồng, theo Thi Nghi Ngọc đi tìm rắn, Tiểu Phật Tử sở hữu giác quan nhạy bén, quơ quơ bên trái, ngửi ngửi bên phải mà chẳng hề bị thương.
Thi Nghi Ngọc lại tìm được rắn rồi, La Ái Diệu nhắc nhở nó không được đùa nghịch sinh vật này. Nó thè lưỡi bảo: “Mỗi ngày ra ngoài đều phải tìm gì đó tặng mẹ.”
“Tặng hoa đi.” La Ái Diệu đáp.
“Mỗi ngày đều tặng hoa.” Thi Nghi Ngọc nói.
“Nhà em lãng mạn quá đi.” Tưởng Niệm Lang nói, “Xin nhờ bạn Bắp dẫn chị đi tìm hoa với nhé, lâu lắm rồi chị chưa tặng hoa cho bố mẹ.”
*
Gia đình Tưởng Lương Lâm ở trong núi suốt một tuần. La Ái Diệu không chịu trị liệu thiền tu cho Tưởng Lương Lâm, Tưởng Lương Lâm bèn liên hệ với thủ tọa chùa Liên Tương để sắp xếp hoạt động thiền tu. Song La Ái Diệu lại đồng ý dẫn long nữ Tưởng Niệm Lang đi bế quan một tuần, xưa kia có điển cố long nữ thành Phật, mười năm trước Tưởng Niệm Lang nghĩa khí làm hộ pháp cho hắn, bây giờ cô bé đang có vướng mắc trong lòng nên hắn có nghĩa vụ phải giúp đỡ.
Nhiều năm trôi qua, Thi Sương Cảnh mới nhận ra rằng tuy đều là người song tính nhưng không phải hoàn cảnh của ai cũng giống nhau. Câu chuyện cuộc đời y và Lang Phóng hoàn toàn khác nhau, sau khi lập gia đình thì cũng có khác biệt lớn. Hồi hai mươi tuổi, y nghe nói Lang Phóng “đầu tư” thì cảm thấy ngầu ơi là ngầu, mà bây giờ y đã có khả năng đầu tư rồi nhưng vẫn giữ chặt túi tiền.
Tuy nhiên vẫn có rất nhiều điều để học hỏi kinh nghiệm. Thi Sương Cảnh hỏi: “Anh Phóng, các anh sẽ không già đi, vậy các anh phải giải thích với người ngoài như thế nào?”
“Tôi chẳng biết nữa. Việc này giao cho Tưởng Lương Lâm, cậu ấy giỏi quyết việc của công ty hơn.” Lang Phóng trả lời, “Tôi cứ nghe theo cậu ấy là được, cùng lắm thì cũng tìm một chỗ ẩn cư.”
“Cũng phải. Chỉ là mười năm đã dài lắm rồi, không biết một trăm năm, mấy trăm năm là cảm giác gì. Quãng thời gian dài như thế, dù không có cách thì cũng nghĩ ra cách thôi.”
“Đúng vậy, cho nên cứ từ từ mà tính. Tiểu Cảnh à, cậu xem, những năm qua cậu học xong đại học, đi làm, thi chứng chỉ, sinh Bắp, rồi lại làm việc, tôi còn lo phải chăng câu “Phải có công việc” mà tôi từng nói đã dọa cậu.”
Thi Sương Cảnh duỗi người một cái, thoải mái đáp: “Không đâu, những kiến nghị ấy đều rất thực tế mà. Tới nay tôi vẫn sống tằn tiện lắm, tôi để dành toàn bộ thu nhập của mình, chỉ tiêu tiền của La Ái Diệu thôi, chính vì sợ một ngày nào đó La Ái Diệu chẳng còn thu nhập nữa thì ít ra tôi vẫn còn tiền gửi ngân hàng……”
“Đúng là hệ thống tài chính âm phủ quái quỷ.” Lang Phóng than thở rất chi đồng cảm.
“Đúng là hệ thống tài chính âm phủ quái quỷ.” Thi Sương Cảnh cũng lặp lại.
Hiếm khi Thi Sương Cảnh phải chăm Thi Nghi Ngọc, La Ái Diệu bế quan nên nhiều ngày nay chẳng lộ diện. Thi Nghi Ngọc cứ luôn âm thầm gây chuyện, mới hai tháng trước, Lưu Thiến ở chân núi ghé nhà Thi Sương Cảnh ăn cơm, tiện thể nhắc nhở y kiểm tra vại dưa chua trong nhà, đậu đũa mà bà muối đã có thể ăn được rồi. Thi Sương Cảnh bèn cầm bát đi mở vại dưa nhưng lại thấy trong vại trống trơn, hơn nữa vì không cất kỹ vào kho sau khi mở nắp mà còn mọc ra một tầng nấm. Y điều tra thì phát hiện Thi Nghi Ngọc đã lén ăn vụng nhân lúc đêm khuya, ăn khoảng bốn năm ngày là hết sạch rồi.
Lang Phóng cười ngặt ngẽo, Thi Sương Cảnh ôm Thi Nghi Ngọc, tiện tay nhéo nhéo con trai mình, đúng là lạ quá đi. Trông Thi Nghi Ngọc vô tội thế thôi chứ thực chất ranh mãnh lắm, chưa đến ba tuổi mà đã thấu sự đời rồi. Thi Sương Cảnh tự nhận mình là người đàng hoàng, chỉ có thể là Bắp học theo cha nó thôi.
Về công việc, dạo này y đang xin nghỉ, mỗi ngày chỉ cần tới phòng làm việc nửa ngày là được, gần đây không có hạn nộp bảng biểu gì quan trọng. Thi thoảng Lang Phóng sẽ theo Tưởng Lương Lâm cùng đi thiền tu thư giãn, có lúc lại đi ra ngoài tìm hiểu công việc của Thi Sương Cảnh hoặc cảm nhận không khí kinh doanh của chùa Liên Tương.
Phòng tài chính của Thi Sương Cảnh có tổng cộng bốn người, y xem như một quản lý nhỏ, dưới trướng có một kế toán dày dặn kinh nghiệm vừa đi làm vừa ôn thi, hai người còn lại đều là trợ lý kế toán. Cuộc sống trên núi đơn giản, nhớ lại công ty Thi Sương Cảnh từng làm cũng chỉ có ba nhân viên tài chính mà thôi. Chùa Liên Tương nằm phía sau núi Thanh Thành, không so được với nhang khói của chùa lớn trong thành phố D, song chùa yên tĩnh cũng có chỗ tốt của chùa yên tĩnh. Chi tiêu của chùa trong giai đoạn hiện tại bằng với thu nhập từ tiền nhang khói cúng dường nên chẳng ai để ý chút lợi lộc ấy.
Lang Phóng rất hiếu kỳ về tượng Phật Tử mà La Ái Diệu làm cho Thi Nghi Ngọc, nghe nói bức tượng ấy có tướng mèo. Thi Sương Cảnh bèn dẫn Lang Phóng vào tăng viện Mật Nghiệm ở nội viện, bầu không khí của nội viện và ngoại viện đúng là khác hẳn nhau, bấy giờ Lang Phóng nhận ra nội viện này mới là cốt lõi của chùa Liên Tương, ngay cả thái độ của các tăng lữ cũng rất khác nhau. Anh hoài nghi La Ái Diệu tập trung một nhóm tăng lữ hiếu học ở đây, tiếng tụng kinh, biện luận văng vẳng từ sáng đến tối.
Tăng viện Mật Nghiêm đã thành hình, song có vẻ kết cấu vẫn đang được suy nghĩ tiếp, Lang Phóng thấy một khu đất lớn đã được đầm nền xong và quây kín lại, chờ xây dựng trong tương lai. Những phần hiện có gồm ba vòng: vòng thứ nhất là cổng nội viện, ao sen tám cánh, đình Quan Âm Thủy Nguyệt, phòng tiếp khách; vòng thứ hai là hành lang Hộ Pháp và bốn lầu Hộ Pháp Mật giáo; vòng thứ ba là đàn tràng và điện Mật Nghiêm Mạn Đà La. Với quy mô hiện tại thì kỳ thực nội viện này có thể coi là một ngôi chùa độc lập, thảo nào lại gọi là tăng viện. Lang Phóng khó lòng tưởng tượng nổi, nếu tăng viện tiếp tục mở rộng thì sẽ còn hoành tráng đến mức nào, mà điện thờ Mật tông tráng lệ này lại ẩn giữa rừng núi, quanh năm rợp bóng cây.
Thi Sương Cảnh dẫn Lang Phóng đến lầu Hộ Pháp Mật giáo ở vòng thứ hai, không gian trong lầu các này không lớn, chỉ có một tầng. Y bật đèn, Thi Nghi Ngọc bỗng ré lên, trốn phía sau y. Y giải thích với Lang Phóng: “Bắp ngượng ngùng ấy mà.”
Trong điện đặt một bức tượng đồng Bồ Tát ngồi bán già như Phật Di Lặc, y phục lộng lẫy, hai bên phía sau là hai dải phướn dài như tung bay theo gió, đôi mắt Bồ Tát bằng đồng khép hờ, đầu búi tóc xoắn, đội bảo quan năm lá, dáng bảo quan vươn ra từ hai bên trán y chang tai mèo. Thi Sương Cảnh dẫn Lang Phóng vòng ra phía sau tượng Phật, lại thấy một bức tượng mèo bằng đồng với tạo hình cổ xưa, tựa lưng vào tượng Bồ Tát. Trước tượng Phật đồng và tượng mèo đồng đều bày hòm công đức và nệm quỳ, có thể cúng dường từ cả hai bên.
“Điện thờ này cởi mở ghê.” Thi Sương Cảnh cất lời sâu xa.
“Tôi có dự cảm rằng…… Lầu Phật mèo của Bắp sẽ được hưởng nhiều nhang khói lắm đây.” Lang Phóng nghiêm túc nói.
“À…… Ừm.”
Thi Nghi Ngọc ló ra đôi mắt nhìn về phía Lang Phóng, nó cũng nghe hiểu bảy tám phần lời mà người lớn nói. Lang Phóng nghe Thi Nghi Ngọc khẽ lên tiếng “Cảm ơn”. Anh làm bộ thì thầm, thực ra vẫn dùng âm lượng bình thường, giả vờ nói với Thi Sương Cảnh nhưng thực chất là nói với Thi Nghi Ngọc: “Bắp phải giữ túi tiền cho kỹ nhé ~, tôi nghe nói Bắp biết chơi mạt chược đó……”