Chương 210: Phúc tới chùa lớn • Ô vàng và tiền vàng – 3

Về sau Thi Sương Cảnh không đưa những mẫu âm thanh đã thu thập vào trong album chính thức, nửa giây cũng không. Y chụp một bức chiếc ô vàng bên chậu than, dùng làm ảnh bìa cho ca khúc mới. Tiếp sau đó, Đậu Đậu sinh ra, Đậu Đậu là một đứa bé phát triển hoàn thiện mọi mặt, nhờ đó mà Thi Sương Cảnh có thể trải nghiệm cuộc sống nuôi con bình thường.
Bắp lên tiểu học, một khi đã chính thức xã hội hóa thì bản tính của thằng bé cũng chính thức bộc lộ. Bắp có ký ức làm mèo, đôi khi nó sẽ vô thức hành động theo thú tính và h*m m**n. Nó thích đi lang thang vô định sau núi, để tiện cho Thi Sương Cảnh liên lạc với Bắp, gia đình đã chuẩn bị điện thoại cho Bắp từ sớm, khổ nỗi nó toàn dùng điện thoại để chơi game, chủ yếu là chơi mạt chược online. Thi Sương Cảnh nẫu hết cả ruột, cho dù trước kia La Ái Diệu vô tư lấy mèo con ra đùa, lỡ dạy nó cách chơi mạt chược cơ bản, nhưng Bắp cũng không nên trung thành với trò chơi này như thế chứ!
La Ái Diệu giải đáp: “Chơi mạt chược là dựa vào vận số, vận số cực nhanh và tính toán cực nhanh, đối với Bắp thì có lẽ giống như chơi đuổi ruồi bắt sâu vậy, có lúc thành công mà cũng có lúc thất bại, nó khó cưỡng lại sự thích kích này nhất…… Chỉ có thể chờ nó từ từ lớn lên thôi.”
Thời buổi này chuyện học sinh tiểu học chơi game điện thoại cũng không lạ, chơi mạt chược mà chơi cùng học sinh tiểu học, thậm chí còn không thắng nổi học sinh tiểu học thì đúng là bất đắc dĩ…… Thi Sương Cảnh đành kiểm soát thời gian chơi game của Bắp, La Ái Diệu thì kiểm soát việc nạp và rút tiền ảo của Bắp. Dường như thằng bé có nguồn năng lượng vô hạn cần giải phóng, sau khi tan học nó sẽ cầm tiền tiêu vặt cha cho để ăn hết con phố bán quà vặt, sau đó đi bộ về nhà, đi suốt nửa tiếng vẫn chưa đủ, nó lại đặt cặp xuống rồi lao ra ngoài chơi. Bài tập là cái gì? Thành tích là cái gì? Ai nên phụ trách việc học hành của Bắp? La Ái Diệu nói để hắn phụ trách, kết quả của phụ trách chính là hạng bét khối 1.
Trong nhà rất hỗn loạn, có thêm một đứa trẻ thì lượng công việc cũng tăng gấp mấy lần. Thi Sương Cảnh kham không nổi, rốt cuộc quyết định thuê bảo mẫu. La Ái Diệu và Thi Sương Cảnh cùng nhau tìm, tìm suốt hai tháng mới chọn được một người phù hợp nhất. Dì bảo mẫu họ Điền, dì Điền không phải người nhiều kinh nghiệm chăm trẻ nhất, tố chất cũng không phải chuyên nghiệp nhất, song dì giỏi giữ bí mật nhất. Dì được giới thiệu bởi gia đình tín đồ Phật Tử, gia đình tín đồ đó chuyển ra nước ngoài, dì Điền liền tới sau núi, sống ở căn phòng cho khách trên lầu hai biệt thự kế bên.
Có một vị bảo mẫu đến giúp chăm sóc Đậu Đậu, tắm rửa thay đồ cho Đậu Đậu, vậy là tránh được nhiều kiêng kỵ về sự riêng tư rồi. Thi Sương Cảnh cũng có thể chia đều thời gian cho hai đứa con, không đến mức được đứa này mất đứa kia.
Đậu Đậu tên thật là Thi Nghi Thục, sở hữu ngoại hình giống La Ái Diệu như đúc, Thi Sương Cảnh vừa nhìn liền bảo với La Ái Diệu: “Hóa ra hồi nhỏ trông anh như thế này! Anh mới bằng này đã phải theo Bất Không đại hòa thượng đi học kinh thư sao! Họ nhẫn tâm bắt anh dậy từ ba giờ sáng ư!”
La Ái Diệu nói, “Đúng thế, Bất Không là một người thầy rất nghiêm khắc, ông ấy chăm trẻ giỏi hơn tôi đấy.”
Bắp thích Đậu Đậu lắm, đây là cô em gái giỏi niệm kinh mà nó ngày đêm mong ngóng, cứ như sau khi nhà có thêm Đậu Đậu thì cha sẽ không bắt nó học kinh thư vậy. Đáng tiếc Bắp mơ mộng hão huyền rồi. Cha phụ trách tất cả việc học, mà Bắp là do cha nuôi lớn, thành ra cảm xúc của Bắp dành cho cha là vừa yêu vừa sợ.
Em gái thông minh hơn người, đôi mắt xanh sẽ thay nó bộc lộ cảm xúc sâu sắc mà trầm lắng, Dường như con bé biết mình sẽ trở thành con gái của mẹ, thành em gái của Bắp. Khoảng chín tháng tuổi là Đậu Đậu có thể gọi cha, gọi mẹ, sau khi học nói là nhanh chóng biết đếm và ghép từ thành câu. Lúc một tuổi rưỡi, Đậu Đậu đã có thể nói được câu có nghĩa và còn lặp lại kinh văn mà cha dạy, có kinh văn bằng tiếng Hán, có kinh văn thì bằng tiếng Phạn, thậm chí có kinh văn bằng ngôn ngữ chẳng ai hiểu được, có lẽ đó là ngôn ngữ của Phật quốc trên trời. Lúc nói chuyện, Đậu Đậu còn biết quan sát ánh mắt người khác, thi thoảng cả cha, mẹ và Bắp đồng thời lên tiếng, nó sẽ quay đầu về phía âm thanh, tìm kiếm người thốt ra nội dung mà nó muốn nghe hơn.
Bắp ý thức được sự chênh lệch giữa mình và em gái, nếu nói nó không buồn thì là nói dối. Kỳ lạ là, khi Bắp và Đậu Đậu chơi đùa, Đậu Đậu sẽ niệm kinh cho Bắp, con bé nói vừa chậm vừa trúc trắc, ấy thế mà Bắp vẫn hiểu được kinh văn thốt ra từ miệng con bé. Nhận thấy điều này, La Ái Diệu không ép Bắp đến tăng viện Mật Nghiêm để học kinh một mình nữa, thằng bé ở nhà với em gái thì tiến độ học hành cũng tốt rồi.
“Tuy Đậu Đậu là em gái con, nhưng con bé đã từng học một lần ở trên trời rồi. Con mới học lần đầu, dù tốn vài năm hay vài chục năm để học được thì cũng đã là thiên tài, học trong một hai trăm năm cũng không tính là thụt lùi, cho nên con chớ nóng vội.” La Ái Diệu vẫn luôn kiên nhẫn trong việc giáo dục, Thi Sương Cảnh muốn hắn cân nhắc dùng từ, không thể dạy Bắp như hồi dạy y ôn thi đại học được, cho nên hắn cũng dùng lời lẽ nhẹ nhàng hơn.
Thi Sương Cảnh chủ động phụ trách việc học của Bắp, giao Đậu Đậu nhỏ hơn cho La Ái Diệu. La Ái Diệu quá thông minh, hắn không thể trải nghiệm sự hồ đồ của con người. Thi Sương Cảnh bảo Bắp mang bài tập đến studio của mình, y đeo tai nghe xử lý công việc, còn Bắp thì ở bên cạnh làm bài tập. Dù gì y cũng là sinh viên đại học, giải quyết bài tập cấp một tất nhiên không thành vấn đề. Trong hoàn cảnh yên tĩnh và có người bầu bạn bên cạnh, có lẽ vì Thi Sương Cảnh không tạo cảm xúc lo lắng cho Bắp nên chứng hiếu động của thằng bé đã giảm bớt, thời gian hoàn thành bài tập rút ngắn từ ba tiếng xuống còn nửa tiếng, Thi Sương Cảnh kiểm tra xong bài tập thì Bắp sẽ chỉnh sửa lại bài, nhiệm vụ trong ngày thành công mỹ mãn.
Trường học của Bắp bao bán trú nên buổi trưa Bắp không về nhà. Một ngày nọ, dì Điền nghỉ cuối tuần, Thi Sương Cảnh về nhà nấu bữa trưa cho mình và Đậu Đậu. Đậu Đậu hai tuổi, đã có thể ăn bữa chính được rồi, con bé giống cha ở khoản không ăn cay, Thi Sương Cảnh cũng ăn theo khẩu vị của con luôn cho tiện.
Y thái thịt, Đậu Đậu ngồi trên ghế ăn dặm xem y nấu nướng. Ánh mắt con bé không rời người, nhất định phải ở trong không gian có thể nhìn thấy người thân thì nó mới chịu yên. Xưa nay Thi Sương Cảnh chưa từng thấy đứa bé nào dễ chăm như vậy, người lớn mà bận thì nó sẽ nói bi bô, nếu La Ái Diệu ở cạnh là hắn sẽ nghe hiểu Đậu Đậu nói gì: Có lúc Đậu Đậu sẽ bắt chước lời người lớn, có lúc thì ôn tập kinh văn cha đã dạy, thậm chí có lúc còn đọc ra những thứ rất mới mẻ. La Ái Diệu bảo rằng cứ như Đậu Đậu sáng tạo ra một ngôn ngữ mới toanh vậy.
Thái thịt xong thì tôm hấp cũng đã chín, Thi Sương Cảnh đeo bao tay, lấy khay tôm ra, chuẩn bị xào rau. Giọng Đậu Đậu bỗng nhiên lớn hơn, hai cái tay nhỏ còn vỗ vỗ mặt bàn. Thi Sương Cảnh tưởng nó muốn ăn tôm, bèn rửa tay, cố chịu nóng để bóc hai con tôm cho Đậu Đậu, y bỏ tôm vào chiếc đĩa nhỏ, đặt xuống trước mặt con gái: “Đói rồi à? Con ăn tôm trước đi. Hơi nóng đấy, con phải đếm đến hai mươi mới được ăn nha.”
“Mẹ ơi, mẹ ơi. Con biết rồi, con biết rồi! Con muốn nói!” Đây là lần đầu tiên Thi Sương Cảnh nghe thấy Đậu Đậu nói to như thế, y dừng bước, chờ Đậu Đậu lên tiếng, nhưng con bé cứ quýnh quáng là lại bắt đầu nói không mạch lạc. Thi Sương Cảnh rửa tay lần nữa rồi lau tay, nâng mặt Đậu Đậu lên, bảo nó chớ nóng vội, cứ từ từ thôi.
Đậu Đậu mím môi phồng má, nín thở, ngực hơn phập phồng, cố dằn cái lưỡi đang hoảng loạn lại, rồi nó cất giọng trẻ con: “Mẹ ơi! Ô màu vàng! Tiền màu vàng! Con muốn nói cho mẹ biết…… Bà rất đẹp, các bà có rất nhiều tiền màu vàng, nhưng mà các bà không cần. Các bà muốn thành Phật, nhưng Phật Tổ nói phụ nữ không thể thành Phật, trừ phi các bà không cần mặt mũi. Các bà cũng không thể là phụ nữ. Các bà liền cầm tiền bỏ đi!”
“Ông nhảy múa với lửa, bà lên núi, mọi người nhảy múa, bung ô, chọn ra cô gái xinh đẹp nhất. Chị của ông đưa ô cho bà. Ông rời đi cùng bà. Chính bà đã đưa ông đi. Bà không biết tiền màu vàng, ông không biết chú ngữ. Ông bà rất hạnh phúc. Các bà không chấp nhận “chuyển nữ thành nam” *[1], nhưng các bà nói đó là chuyện bất đắc dĩ. Mẹ sinh ra con, con là nữ Phật. Cha mặc quần áo cho con, mẹ cho con cơ thể và tình yêu để làm nữ Phật. Nữ Phật, Phật nữ, Phật Mật tông, con không lên trời đâu, con muốn ở đây với cha mẹ —— Nhưng con muốn thành Phật!”
Đậu Đậu nhớ nó muốn nói cho mẹ biết tất cả mọi chuyện mà nó thấy, những chuyện mà chỉ nó mới có thể nhìn thấy. Hồi còn ở trong bụng Thi Sương Cảnh, nó đã báo hết cho La Ái Diệu, La Ái Diệu lại hỏi Thi Sương Cảnh muốn nghe hắn nói hay nghe Đậu Đậu nói. Thi Sương Cảnh đã chọn Đậu Đậu. Nếu để Đậu Đậu nói ra thì thú vị biết bao! Để có được trải nghiệm chấn động đó, y đã đè nén lòng hiếu kỳ của mình, mãi đến khi chính y cũng quên mất chuyện này. Không ngờ Đậu Đậu vẫn còn nhớ.
Thi Sương Cảnh còn đang tiêu hóa thông tin mà Đậu Đậu nói cho mình, chờ đến buổi tối La Ái Diệu và Bắp về nhà, bốn người cùng ngồi trên tấm thảm ở phòng khách, đối chiếu đáp án với nhau. Y nói ra suy đoán của mình, La Ái Diệu vô cùng hài lòng với khả năng phân tích của y, cơ mà Bắp thì chẳng hiểu mô tê gì, La Ái Diệu bèn tự chú giải thêm và diễn đạt lại cho Bắp.
“Bà ngoại của các con đến từ một nữ tộc xa xôi, người đời sau lầm tưởng họ là kỹ nữ nước Kushan, những người phụ nữ này được gọi là “Addhakasi”[2], vì sắc đẹp mà họ bị thiên hạ bỏ ra rất nhiều tiền bạc để tìm kiếm, Đức Phật cũng vì sắc đẹp của họ mà thay đổi quy củ, nguyện ý phái sứ giả tới thọ giới cho họ **. Các Addhakasi được thọ giới nhưng lại không muốn từ bỏ thân thể và dung mạo phụ nữ, họ liền bỏ trốn, mang theo số tiền kiếm được từ công việc kỹ nữ mà trị giá bằng một nửa tiền thuế của cả quốc gia. Đến đời bà ngoại của con, bà tìm một vu nam bản địa và sinh ra mẹ của các con. Mẹ các con rất giống chú Lang Phóng, đều do kế thừa vu tính của mảnh đất này mà sở hữu cả hai giới tính.”
“Các Addhakasi muốn sinh ra một vị nữ Phật hoàn mỹ, đã là nữ Phật thì không thể tiến vào cõi niết bàn chôn vùi thân xác. Vậy xem ra, trở thành nữ Phật của Mật tông cũng rất hợp lý, cha sẽ truyền cho y bát cho họ. Nữ Phật và Phật mẫu có điểm khác biệt. Phật mẫu là làm mẹ trước rồi mới làm Phật, còn nữ Phật thì vừa là nữ vừa là Phật. Đây là lời chúc phúc và chấp niệm của họ dành cho Đậu Đậu, tuy nhiên Đậu Đậu chỉ cần làm chính mình là được.”
La Ái Diệu còn nói, thực ra đến thế hệ Trác Du thì bà đã chẳng còn nhớ “sứ mệnh”, “Phật”, “tổ tiên” gì đó nữa rồi. Bà đến từ thành phố nhỏ vùng Tây Bắc, mẹ mất sớm, bố bỏ bê con cái. Trác Du và Thi Lâu Đình phải lòng nhau từ cái nhìn đầu tiên, Thi Lâu Đình là hắc di thuộc gia tộc tất ma, đáng lẽ ông phải kế thừa vu thuật của dân tộc Di nhưng lại bỏ trốn cùng Trác Du, người thân không thấu hiểu cho ông, mà nhà họ Thi cũng đông con cái nên bao năm qua họ vẫn xem như Thi Lâu Đình đã chết, đó là một gia tộc rất cực đoan. Năm ấy đi tìm hiểu văn hóa, Thi Sương Cảnh không đến huyện mà nhà họ Thi sinh sống, đây cũng là ý trời muốn y đừng tìm lại quan niệm văn hóa khép kín ấy. (Hắc di là đẳng cấp quý tộc trong xã hội nô lệ trước giải phóng của người Di Lương Sơn. Màu đen là màu cao quý trong văn hóa người Di, cho nên mới gọi là hắc di.)
Thi Sương Cảnh suy tư nói: “Hơn mười năm trước, chúng ta nhìn thấy bức tranh ấy trong hội đấu giá…… Người phụ nữ Kushan và tiền vàng…… Cùng với những đồng tiền vàng mà em nhìn thấy trong mơ…… Đó là trùng hợp hay do anh sắp đặt? La Ái Diệu, anh đã biết từ lâu rồi sao?”
“Vừa là trùng hợp vừa là vận mệnh, trước đó tôi cũng không biết. Tôi nghĩ các Addhakasi luôn có cách của riêng mình.”
Thi Nghi Thục gật gù đắc ý, rất chi hài lòng với biểu hiện hôm nay của mình. Cuối cùng nó cũng nói ra rồi, chỉ riêng việc sắp xếp câu chữ thôi cũng khiến nó mất bao nhiêu là thời gian. Thi Nghi Ngọc giữ đầu Thi Nghi Thục như đang ấn con búp bê lò xo, nó hỏi: “Y bát của cha đều truyền cho em gái rồi, vậy còn con thì sao? Em trai em gái trong bụng mẹ thì sao?”
Thi Sương Cảnh bị chỉ mặt gọi tên thì lúng túng gãi mũi. Y không chịu nổi việc đẻ thêm hai lần nữa đâu, vừa khéo lần này là bầu sinh đôi. Quá kinh khủng, quá phong kiến. Thành viên ban nhạc mà biết thì có khi sẽ giết y mất.
“Y bát đâu phải chỉ có một phần, cha cũng đâu phải vị giám khảo chỉ giữ một suất.” La Ái Diệu dày dặn kinh nghiệm lắm, “Huống chi việc thành Phật không phải chỉ cần đủ năng lực là được, cũng phải dựa vào nhân duyên gặp gỡ nữa, giống như cha gặp mẹ của các con vậy.”
“Bọn con cũng phải đi kiếm người yêu ư?” Thi Nghi Ngọc lại hỏi.
La Ái Diệu đáp: “Không chắc. Dù là Phật thì cơ duyên thành Phật cũng khác nhau, chỉ là cha gặp cơ duyên ở bên mẹ các con thôi.”
“Mẹ thì sao ạ?” Thi Nghi Ngọc gặng hỏi, “Mẹ sẽ trở thành Phật sao?”
Lần này thì La Ái Diệu không nói câu “Tôi không nhìn thấy Phật duyên ở Thi Sương Cảnh”. Thi Sương Cảnh đã chứng minh rồi, giờ trên đời làm gì còn ai có Phật duyên hơn y chứ. La Ái Diệu trả lời một cách cực kỳ nghiêm túc và xác thực: “Cha không biết, nhưng cha cho rằng chúng ta có thể làm gì đó. Cha không biết đó có phải là Phật hay không, cũng không nhất thiết phải là Phật, giống như Đậu Đậu biết nơi ấy chưa chắc là bến đỗ tốt nhất vậy.”
Hai tay Đậu Đậu đều giơ ra bốn ngón, đung đưa trái phải, biểu thị rõ ràng cho Thi Sương Cảnh. Đây là số hộ pháp nhà họ, đối với người khác đây có lẽ là con số xui xẻo, tuy nhiên ở nhà Thi Sương Cảnh và La Ái Diệu, đây chính là đại cát đại lợi.
Tình yêu của gia tộc quá mãnh liệt, cho nên Thi Sương Cảnh không dám đón nhận trực tiếp. Đôi khi được yêu cũng khiến người ta hoảng sợ và băn khoăn. Thi Sương Cảnh rất muốn chối từ, không sao đâu, y đã ở bên La Ái Diệu rồi, họ không cần đặc biệt làm gì cho y cả. Nhưng ba đôi mắt xanh đều quá đỗi kiên định. dùng khí thế vây công ép y phải đồng ý, sau khi đồng ý thì lại nhẹ nhàng lượn quanh y, tựa như mạn đà la ba cánh, bị đè nén, bị vận mệnh xoay chuyển, cực lộng lẫy và cũng cực huyền ảo, muốn y đi tới nơi tốt đẹp nhất.
✿Tác giả có lời muốn nói:
Lại đáng yêu đến mức không nói nên lời rồi!
* Đây là nói tới yêu cầu của Phật giáo đối với người tu hành nữ, nếu người tu hành nữ muốn niết bàn thành Phật thì không thể mang thân nữ đến Phật quốc, do đó họ phải trải qua quá trình “chuyển nữ thành nam”. Tiểu Cảnh không phải “chuyển nữ thành nam”, sự song tính của Tiểu Cảnh là hình thái trung gian.
** Tham khảo luận văn về câu chuyện “Kệ ngôn của trưởng lão ni”, kiêm đối chiếu với “Kệ ngôn của trưởng lão ni”. Dựa theo nhu cầu của tiểu thuyết, tôi cũng tưởng tượng một phần và chỉnh sửa điển cố.
******
★Chú thích:
[1]Chuyển nữ thành nam: Theo quan niệm xưa của Phật giáo, tuy cả nam lẫn nữ đều có thể giác ngộ thành Phật nhưng khi đến cõi Phật thì tất cả sẽ mang hình thái nam. Bởi xưa kia người ta cho rằng, sinh ra làm phụ nữ sẽ phải chịu nhiều thiệt thòi nên họ có nhiều chướng ngại hơn về cả thể chất lẫn tinh thần, để thực sự giải thoát thì họ phải vượt qua những chướng ngại ấy, và khi đó họ cũng thành bậc trượng phu.
[2]Addhakasi: Bà là một kỹ nữ có xuất thân giàu sang, tuy mong muốn xuất gia song lại bị ngăn cản. Bằng sự quyết tâm, bà đã được Đức Phật cho phép thọ giới và không bao lâu chứng quả A La Hán. Trong thời Đức Phật tại thế, cũng có nhiều phụ nữ ở mọi địa vị sang hèn đã xin gia nhập tăng đoàn và đạt thành tựu trong tu hành.
Editor: Ok chương này giải thích cho xuất thân của em Cảnh và cơ duyên gặp được chồng ẻm. Xưa kia Phật giáo quan niệm phụ nữ không thể đến Phật quốc trong thân xác nữ, bởi nam mới là bậc đại trượng phu (về sau Phật giáo phát triển tiến bộ hơn nên xuất hiện các điển cố phụ nữ thành Phật). Tộc của mẹ em Cảnh là những phụ nữ muốn tu hành nhưng không muốn từ bỏ thân xác nữ, do đó họ tìm cách chống lại quá trình chuyển nữ thành nam ấy để sinh ra một vị nữ Phật hoàn mỹ. Kết quả là nhiều thế hệ sau, hậu duệ tộc Addhakasi thành đôi với hậu duệ tộc tất ma, em Cảnh ra đời nhưng mang thân thể ở hình thái trung gian của quá trình chuyển nữ thành nam này, tức nửa nam nửa nữ. Phật Tử có nói cách tu hành của Mật tông phù hợp với mong muốn của tộc Addhakasi, cho nên có lẽ vận mệnh đã đẩy đưa để em Cảnh gặp Phật Tử và sinh ra hậu duệ của tộc Addhakasi với tiềm năng trở thành nữ Phật hoàn mỹ (cũng tức là Đậu Đậu sẽ có tư chất Phật pháp cao nhất trong 4 anh chị em).