Chương 60: Người sống sót của ngày xưa cũ • Chuột trong tàu điện ngầm – 3

Thi thể vắt ngang trên đường ray, không còn sót lại một chút lông tóc hay da thịt nào, ngay cả quần áo và vật dụng cũng chẳng thấy đâu, chỉ còn một bộ xương trắng u ám vỡ vụn nằm trơ trọi ở đó, giống như một cột mốc.
La Ái Diệu chẳng cần sử dụng phương pháp trinh sát hiện đại. Hắn tiến lại gần, dùng mũi chân nhấc hộp sọ lên, chỉ cần nhìn vào trong hốc mắt đen thui sâu hoắm là chuyện cũ trước kia sẽ hiện hết trong đầu hắn.
34 tuổi, đàn ông trung niên, tan làm lúc đêm khuya, bắt chuyến tàu cuối. Tay trái anh ta vuốt màn hình thoăn thoắt, đọc tiểu thuyết tu tiên. Tay phải anh ta mò mẫm chỗ vịn một cách tự nhiên. Hôm nay chuyến tàu cuối đông hơn thường lệ, chẳng còn ghế trống, người đàn ông đứng bên cạnh cửa, khi tàu chạy cánh cửa này sẽ không mở, nên anh ta gần như dựa lưng vào chiếc cửa kính. Người đàn ông không thể thấy, nhưng La Ái Diệu lại có thể thấy được, trong bóng tối những thứ kia đang chen chúc đuổi theo đoàn tàu lao vun vút, chỉ cách anh ta một cánh cửa.
Những thứ đó không có thực thể, hành vi của chúng hơi giống loài chuột, song về mặt cảm giác thì chúng chỉ nhỏ như từng chiếc kim mảnh, những chiếc kim ấy nhiều đến mức tạo thành ảo giác như đợt sóng nối tiếp, tưởng rằng sóng triều sắp ập đến. Mọi người trong khoang tàu đều mải lướt điện thoại, cũng có hành khách mệt mỏi với sản phẩm điện tử nên chỉ nhìn đăm đăm về phía đường hầm, tuy nhiên họ cũng chẳng hề nhận thấy có gì bất thường. Con người không phải là đối thủ, con người chỉ là con mồi.
Người đàn ông đến trạm dừng, chỉ có mình anh ta xuống tàu, tàu chỉ dừng ở mỗi trạm trong mấy giây ngắn ngủi, song không ai phát hiện rằng, giờ phút này đã xảy ra một chuyện quỷ dị đến mức khiến người ta buốt tận óc.
Ngay khoảnh khắc bước ra khỏi cửa tàu, người đàn ông bị một lực mạnh hút đi, xương cốt toàn thân tách lìa khỏi da thịt, loa phát thanh nhà ga và tiếng tàu chạy đã át đi tiếng xương rơi lạch cạch xuống đường ray, cũng át đi tiếng bầy chuột phân chia ngấu nghiến tàn tích của con người. Người đàn ông còn chưa kịp ý thức được chuyện gì xảy ra thì đã mất mạng. Các bộ phận mềm như thịt, da, tóc, móng tay lập tức bị thứ trong bóng tối tiêu hóa hết sạch, ngay cả quần áo và giày che đậy cơ thể hay chiếc túi đeo trên vai, tất cả đồ vật liên quan tới người đàn ông đều trở thành thức ăn. Xương cốt sót lại cũng có tác dụng riêng, cho nên không bị những vị khách lạ này ăn sạch.
Bộ xương này mới nằm đây chừng ba bốn ngày, chỉ vừa mất tích mà như thể đã chết cả ba bốn trăm năm. Thì ra những con chuột này không chỉ lén ăn mất thời gian và khả năng của con người, mà còn ngang nhiên săn bắt con người.
Đi lên trước nữa, số lượng hài cốt tăng nhiều, có bộ rải rác trên đường ray, có bộ mắc trên ăng ten, còn có bộ gần như khảm vào vách đường hầm…… Đây không phải tuyến đường tàu thường chạy qua, mà đúng như cảm giác của La Ái Diệu, đây là không gian được phục chế theo tỉ lệ, giao thoa với đường ray chân thực. Có lúc nó song song với đường ray trong thế giới thực, có lúc nó lại kết nối trực tiếp với đường ray chân thực. Lực hút khổng lồ đó đến từ trong đường hầm, kéo những con người đã rã xương xuống đường ray, rồi hút họ vào không gian xa lạ.
La Ái Diệu không được mời, hắn không mời mà tới, ghé qua hiện trường phạm tội này. Hắn không có hứng thú làm sứ giả chính nghĩa, mà chỉ là để đạt thành hiệp ước với Tưởng Lương Lâm, hắn hy vọng Tưởng Lương Lâm có thể trở thành hộ pháp long vương A Nậu Đạt của mình, là thần hộ pháp thứ hai sau hộ pháp Quỷ Tử Mẫu Thần. Còn điều kiện của Tưởng Lương Lâm là mong muốn La Ái Diệu điều tra về thiết bị đồng hồ cát ẩn chứa uy h**p này. (A Nậu Đạt (Anavatapta) là một trong tám đại long vương Phật giáo, trú tại hồ thiêng A Nậu Đạt.)
Sự quái dị này khác hẳn sự quái dị do chính tay La Ái Diệu thúc đẩy. Chẳng phải luân lý nhân duyên, sinh tử nghiệp báo, mà tất cả đều là đường đột, xấu xa, hiếu kỳ và trắng trợn. Là thứ gì đó rất dơ bẩn, khiến người ta cảm thấy khó chịu. Đến lúc gần chết con người mới mê man, mất trí nhớ, nôn mửa, phát điên, nhưng quan trọng hơn chính là sẽ chết. Bọn chúng không hề kiềm chế. Vậy tại sao đến giờ chúng vẫn chưa gây tử vong trên diện rộng? La Ái Diệu nhanh chóng tìm ra đáp án.
Ngày thứ tư tiến vào lòng đất, La Ái Diệu nghĩ rằng mình đã đi bộ đến nơi cốt lõi, xét về vị trí địa lý cũng là ở trung tâm —— Quảng trường Thiên Phủ. Từ lúc phát hiện bộ hài cốt đầu tiên, chân tướng đã từ từ hé lộ. Cái chết gần nhất là vào ba bốn ngày trước, cái chết xa nhất phải lùi về hơn chục năm trước khi mới bắt đầu trắc địa và xây dựng hệ thống tàu điện ngầm. Trung tâm quy hoạch đường tàu điện của toàn bộ thành phố D là quảng trường Thiên Phủ, và cũng chính vào thời điểm quyết định quy hoạch hệ thống tàu điện, đã có kẻ mang tới đây thứ không thuộc về khu vực này…… thậm chí không thuộc về thế lực loài người. Trong lúc các đoàn học giả và đội thi công đang kiểm tra địa chất của công rình, một người đàn ông đã cắm mảnh vụn nào đó sâu xuống dưới đất, khiến nó thích ứng trước với môi trường dưới lòng đất của thành phố D.
Mảnh vụn này có đặc tính của sinh vật, nhưng lại vượt xa sinh vật. Cách làm của người đàn ông tương tự như đóng cọc sống, tức là chôn vùi mảnh vụn xuống dưới nền móng, tuy nhiên con người đóng cọc sống là để công trình kiến trúc thêm vững chắc, còn người đàn ông chôn mảnh vụn xuống đất là để gieo đầm lầy tà ác. Sau đó người đàn ông dùng sinh mệnh của mình làm giọt máu đầu tiên, mở ra cơ chế khát máu của mảnh vụn này. Thi thể của gã nằm trong tường quanh đường ray tại ga quảng trường Thiên Phủ, lúc La Ái Diệu đi qua, có một lực kéo đã níu bước chân hắn dừng lại.
(Đóng cọc sống là một thủ thuật hiến tế thời xưa tại Trung Quốc, tương truyền trước khi xây cầu, người cổ đại sẽ bắt một đôi đồng nam đồng nữ, chôn sống đồng nam trong cột trụ đầu cầu còn đồng nữ thì chôn trong cột trụ đuôi cầu, sau khi cầu xây xong, họ sẽ trở thành thần bảo vệ cây cầu. Ngoài ra, đóng cọc sống còn áp dụng cho xây thành, xây cung điện.)
Những xác người này nằm gần hai bên sân ga quanh đường ray. Càng đi vào trung tâm thành phố lại càng cảm thấy những bộ hài cốt đã biến thành một bộ phận quái dị mà mắt trần không thể nhìn thấy, song vẫn cảm giác được hài cốt đang tồn tại, chỉ là không biết những bộ hài cốt này dùng để làm gì.
La Ái Diệu chạm vào bức tường, hắn có thể cảm nhận được tình trạng thi thể của kẻ chủ mưu. Khác với những cái xác chỉ còn xương, thi thể kẻ chủ mưu trong tường tuy khô nhưng vẫn còn mới. Suy nghĩ của La Ái Diệu rất đơn giản, hắn phải lôi cái xác này ra xem.
Khi hắn chạm vào tường, tường cũng rung lên dữ dội, không tuân theo quy tắc vật lý nào. May mà đây là dị không gian chứ không phải không gian thực, bằng không hành động của hắn chắc chắn sẽ làm ảnh hưởng đến kết cấu của ga quảng trường Thiên Phủ, gây nguy cơ sụp đổ. Bụi vàng lan tỏa khắp bức tường, khiến tường trở nên mềm nhũn. Thi thể bên trong cũng mềm theo, gần như tách ra khỏi bức tường hóa lỏng.
Trung tâm của khối xoắn vặn ấy được cấu thành từ một hình người co quắp và những cái xúc tu chi chít như mạch máu. Bụi vàng tạo thành lớp màng ngăn cách không khí và thế giới bên ngoài, không để cho không khí đánh thức thứ xúi quẩy này. Khi La Ái Diệu rút hạch lõi ra, hắn thực chất đã ở độ sâu 500m dưới lòng đất, gần bằng độ sâu của một hầm trú ẩn hạt nhân. Những cái xúc tu mọc ra từ khắp cơ thể hình người đang co quắp kia, vươn dài vô hạn theo đường hầm tàu điện ngầm, các mạch máu mảnh như tơ hồng vàng ký sinh vào mạch máu thô to của công trình lạnh lẽo này.
Bụi vàng hội tụ trên bề mặt của phần lõi hình người đó, hình thành chú ngữ của Phật Tử, siết chặt lấy hạch lõi. Tuy cũng là những văn tự chưa từng thấy, song nó khác hẳn với giới văn Phật Tử mà La Ái Diệu ban cho Thi Sương Cảnh. Hắn đang dùng ác chú, lấy bạo chế bạo, trấn áp thứ xúi quẩy này.
La Ái Diệu cẩn thận suy xét, hắn hiểu được sự tồn tại của thứ này, song lại không thể lý giải được công năng của nó.
Hắn di chuyển hạch lõi hình người tất nhiên sẽ khiến những thứ lảng vảng quanh đó phải cảnh giác. Chỉ trong chớp mắt, vô số tiếng động sột soạt tràn ra từ hai bên đường ray. La Ái Diệu vẫn không mảy may xao động, hình người co quắp đã hạ xuống ngang tầm La Ái Diệu, hắn cứ thế giơ tay chạm vào, rồi nhanh chóng phát hiện ra có một tấm bia vỡ găm sâu vào lồng ngực hình người, tấm bia này chính là thứ tà ác quỷ dị nhất. Hoa văn trên tấm bia cực kỳ thô kệch, thủ pháp điêu khắc không phải từ thời tiền sử, trung cổ hay cận đại, mà là vết tích do một tay mơ cố gắng đục đẽo trên phiến đá. La Ái Diệu chưa từng thấy qua bao giờ nên đang định gỡ tấm bia vỡ này ra, nhưng nguy hiểm thực sự cũng gần ngay gang tấc.
Một bầy chuột săn hình mũi kim thi nhau ùa ra, chỉ tưởng tượng đến cảnh ấy thôi cũng khiến người ta đau đớn khắp người. Chúng có kích thước cực nhỏ, nhờ thế có thể sinh sôi nảy nở vô hạn trong đường hầm chật hẹp, còn có thể luân phiên hành động mà không cản trở đồng bạn.
Thân thể La Ái Diệu bị lũ chuột kim xuyên qua, tưởng như phải hứng chịu cực hình đâm kim, bị ngàn vạn mũi kim xuyên qua, nếu là người bình thường ắt sẽ bị lũ chuột săn này hút khô cơ thể ngay tức khắc, cả quần áo vật dụng rách nát cũng bị hút sạch. Mà vì sao xương cốt không bị nghiền thành tro bụi? La Ái Diệu vẫn đang suy nghĩ vấn đề này. Bầy chuột bị kẹt ngay ở bước đầu tiên, chúng đã “xuyên qua” La Ái Diệu nhưng lại chẳng cảm nhận được gì, chỉ có một khoảng hư vô. Hắn không hề đau đớn, bởi cơ thể thật của hắn đang ẩn náu trong cảnh giới hư không, còn cơ thể hiện tại chỉ là do pháp thân ngụy trang mà thôi. Đó là vùng đất bất khả xâm phạm, xưa nay cơ thể chưa bao giờ là nhược điểm của hắn.
La Ái Diệu hành động một cách tự nhiên, nhẹ nhàng gỡ tấm bia khỏi lồng ngực của hình người méo mó. Đám chuột săn càng thêm cuồng loạn, các mạch máu trên tường, trên đường ray và dưới đất cũng run rẩy mất kiểm soát, ngay sau đó là một sự áp bách tột độ, lũ chuột hoảng loạn tháo chạy, tất cả hài cốt La Ái Diệu nhìn thấy trên đường đi đột nhiên vỡ vụn, những sinh vật tí hon hình kim khó nhọc đuổi theo bầy đàn —— Hóa ra xương cốt chính là cái ổ cho chúng sinh sản và ấp trứng.
Co rút, đè ép, giống như nội tạng bị xoắn chặt. Tiếng gió trong đường hầm càng lúc càng lớn, bất kể là từ phía trước hay phía sau cũng đều nghe như đang ngâm nga khúc cầu nguyện cổ xưa, đến từ vì sao xa xôi…… Nhưng đó thực sự là khúc cầu nguyện chăng? Hay là lời chúc mừng cho cuộc xử tội? Giữa những khe nứt của đá hoa cương và đá phiến sét, thứ chảy qua không phải là nước ngầm hay không khí, mà là tiếng r*n r* của một thứ đang sống dậy.
Có đúng là sống dậy không? Hay là tiếng thở dài sau cuối trước khi lìa đời? La Ái Diệu đuổi theo thứ trên không trung, cuối cùng lại đi sâu vào lòng đất. Hắn định mang tấm bia vỡ đi, ngặt nỗi không gian này lại không cho hắn rời đi mà dùng nỗi kinh hoàng để uy h**p hắn. La Ái Diệu cực kỳ sốt ruột, dù là kẻ không quan tâm đến thời gian, hắn cũng nhận ra mình đã chậm trễ quá lâu rồi.
Cảm nhận được sự đe dọa, thứ khổng lồ dưới lòng đất bắt đầu bộc lộ sự sống. Những xúc tu lan tràn vươn đến hai bên ga tàu, rồi cứ thế kéo dài, kéo dài…… Lấy ga quảng trường Thiên Phủ trung tâm thành phố D làm hạch lõi, thứ khổng lồ này đã sinh trưởng bám vào tuyến đường tàu. La Ái Diệu chợt vỡ lẽ, thứ khổng lồ này và lũ chuột kim mà nó điều khiển đều dùng con người làm vật dẫn. Nếu không xây đường tàu điện ngầm, con người sẽ không thể xuống lòng đất, tạo cơ hội cho chúng lợi dụng. Hắn tiến vào không gian dưới lòng đất từ trạm cuối của tuyến số 1, đây là tuyến sớm nhất, cũng là phạm vi hoạt động ban đầu của thứ khổng lồ này, cho nên manh mối ở đây là nhiều nhất.
Đằng nào cũng đến rồi, La Ái Diệu thu hồi tấm bia xong, có thể trực tiếp rời đi nhưng hắn đã đánh thức thứ khổng lồ đó, không thể cứ thế bỏ đi được. Động tĩnh trong dị không gian này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến thế giới thực, chẳng hạn làm gián đoạn tín hiệu tàu điện ngầm, thậm chí gây ra sự cố.
La Ái Diệu cụp mắt, đường hầm tàu điện ngầm đã cho hắn gợi ý, nơi này rất giống sông ngầm dưới địa ngục. Thế là hắn bèn phân tán các pháp khí của địa ngục, một trăm linh tám đóa ưu bát la tượng trưng cho thể cực hàn, một trăm linh tám đóa bát đặc ma tượng trưng cho sự cắt xẻ nghiền nát, một trăm linh tám đóa phân đà lợi tượng trưng cho làn sóng siêu độ. Để mở đường, hắn dùng một bánh xe sắt hình đầu thú chặn trước người mình làm vạn tướng địa ngục. Sát như cánh sen đỏ bung nở từng lớp, sinh như bánh xe đầu voi tỏa ánh lửa rực sáng tám phương. (Ưu bát la: hoa sen xanh, bát đặc ma: hoa sen đỏ, phân đà lợi: hoa sen trắng.)
*
Ngày thứ chín La Ái Diệu rời đi, cũng là ngày thứ hai hệ thống tàu điện ngầm của thành phố D ngừng hoạt động trên diện rộng, Thi Sương Cảnh lần đầu chuồn ra ngoài vào giờ tự học để đi tìm vị tài xế Liễu tên là Liễu Văn Bân.
Liễu Văn Bân để cậu ngồi ở ghế phụ, trong thành phố D mãi chưa hết kẹt xe, Liễu Văn Bân bực bội gõ ngón tay lên vô lăng, song biểu cảm và lời nói không hề thể hiện ra để tránh đắc tội với Thi Sương Cảnh, cũng chẳng biết ông đang vội cái gì. Liễu Văn Bân lái xe từ thành phố D đến khu công nghiệp Lệ Quang hết 4 tiếng đồng hồ. Thi Sương Cảnh cũng chẳng hiểu mình đang phát điên gì nữa, vừa lên xe cậu liền nhờ Liễu Văn Bân chở tới hồ Thăng Tiên, suốt mấy ngày nay cậu cứ liên tục mơ thấy hồ Thăng Tiên, hệt như được báo mộng vậy.
Xe chạy khoảng 2 tiếng, hai người đã tìm được chiếc mô tô của Phật Tử. Chiếc xe dựng bên ngoài, vừa bị mưa xối vừa bị nắng chiếu nên đã tích một lớp bụi ẩm. Thi Sương Cảnh và Liễu Văn Bân hợp sức chuyển xe mô tô lên khoang sau xe tang, mang về khu công nghiệp. Thi Sương Cảnh không biết mình bị làm sao mà nỗi lo lắng vu vơ đã dần trở thành mối âu lo sâu sắc, tài xế Liễu cũng bắt đầu cảm thấy không ổn.
Tiễn tài xế Liễu đi rồi, Thi Sương Cảnh vẫn chẳng có hứng học hành. Lang Phóng nói ban ngày cậu có thể hoạt động tự do, chỉ đến tối mới cần về nhà Lang Phóng ngủ, cho nên xế chiều cậu lại mò ra quầy xiên que. Người khác giờ đang phải đi học, một mình cậu được độc chiếm toàn bộ xiên que.
Mới vừa ăn xong ba xiên thịt viên, một giọng nói quen thuộc bỗng vang lên.
“Sao giờ này mà cậu lại ở đây?”