Huyện lệnh vừa nghe, hay hàng lông mày đã nhíu chặt: “Các ngươi nói mấy lời ngu ngốc gì vậy hả, chẳng lẽ hồ ly huynh đệ đi rồi các ngươi cũng đòi đi? Nơi ở này ta sẽ luôn giữa lại cho hồ ly huynh đệ, các ngươi trông coi giúp bọn họ là được rồi, an tâm mà ở, đừng có nghĩ vớ vẩn làm gì.”
Huyện thái gia cũng có tính toán của riêng mình.
Có vẻ ông ta đã nhìn ra, giữa gia đình lão Khâu thúc này và đám người Lý Văn Li có tình cảm sống chết có nhau, chỉ cần giữ được gia đình lão Khâu Thúc ở đây, còn sợ ngày sau không cơ hội lặp lại hồ ly huynh đệ hay sao?
Cho nên không nên để chút lợi ích nhỏ nhoi này che mờ đôi mắt, tiếc gì để lũ trẻ đi theo hắn, nói trắng ra, ông ta như vậy mới là được lợi.
Dù gì cũng đã ở thời loạn thế, người đáng tin cậy không dễ tìm, ông ta phải bám chặt chỗ dựa “hồ ly huynh đệ” này.
…
Khi huyện nha lão gia vẫn còn đang toan tính đủ đường, “chỗ dựa” Lý Văn Li được ông ta coi trọng đã rời khỏi huyện Đại, đi về phía huyện An.
Thương đội này của bọn họ có tổng cộng ba cái xe ngựa, trong đó gồm A Phú và A Quý của quán rượu Đông Thăng, ngoài ra còn có thêm năm nam tử cường tráng, nhóm này tổng cộng có bảy người. Trong hai chiếc xe còn lại, một chiếc có A Đao, Tiểu Thiền, Thố Tử và Tiếu Diện.
Một chiếc xe ngựa khác có lão tăng lái xe, bên trong là ba tỷ đệ Bạch Quân Quân cùng với Lý Văn Ly.
Đám người Lý Văn Li có cả thảy chín người, thêm cả đám người A Phú và A Quý là mười sáu người.
Vì để thương đội này ra dáng hơn một chút, trên xe ngựa của bọn họ chất rất nhiều hàng hóa, hầu hết là đặc sản của huyện Đại, chuẩn bị chuyển tới cố đô để bán.
Nhiệm vụ của A phú A Quý chính là trông coi mấy thứ này, không cho giặc cỏ cướp đi.
Có điều đi từ huyện Đại đến huyện An, cho dù không dừng chân nghỉ ngơi cũng phải mất bảy ngày bảy đêm, từ khí Tam hoàng tử thu nhận dân tị nạn, có rất nhiều giặc cỏ trà trộn vào đó, con đường mậu dịch mà người ta hay lui tới càng lúc càng trở nên nguy hiểm.
Theo lời A Phú và A Quý, thường ngày bọn họ đi mua hàng hóa không cần phải dẫn theo nhiều người như vậy, nhưng từ khi giặc cỏ xung quanh càng lúc càng nhiều, bọn họ cũng phải cảnh giác hơn.
Mọi người khởi hành được mấy ngày, dọc đường cũng hay nhìn thấy có ánh lửa náu mình đằng sau bụi cỏ, có điều đám người rình mò xe ngựa lại như e ngại điều gì đó, không hề ra mặt.
Cứ như vậy, mọi người đặt chân tới rìa ngoài của huyện An bình an vô sự.
Khi bọn họ chuẩn bị vào huyện, xung quanh đột nhiên có một đám người lao ra ngăn trở đường đi của bọn họ.
A Phú và A Quý nhíu mày: “To gan! Quán rượu Đông Thăng ra ngoài làm ăn, kẻ nào dám làm càn!”
Đám người bọn họ nhìn lướt qua A Phú và A Quý, trông thấy có một người quen thuộc ngồi trên nóc của một trông những chiếc xe ngựa.
Người nọ dùng áo choàng che thân kín mít, khoanh tay trước ngực, trong tay còn có một thanh kiếm sắt đen huyền.
Bọn họ biết người này.
Vì thế, đám chặn đường dè dặt mở miệng: “Kính xin chư vị đừng hiểu lầm, chúng ta mạo muội chặn đường chỉ vì muốn hỏi một câu, những người phía sau có phải đội bảy người hay không?”
“?” Lý Văn Li ở trong xe ngựa nghe thấy chuyện này, khẽ vén màn lên nhìn ra bên ngoài.
Có vài người đàn ông mặc quần áo rách rưới đang chặn đường của bọn họ, nhìn bộ dạng túng quẫn này, thay vì nói là giặc cỏ, bảo là dân tị nạn thì đúng hơn.
“Người trong nhóm bảy người có quan hệ gì với các ngươi sao?” A Phú ngước mắt nhìn gã ta.
“A Đao, ngươi ra xem đi.” Lý Văn Li dặn dò A Đao đang ngồi trên nóc xe.
Tên này thích nhất là phơi nắng diễn trò trên nóc xe ngựa, hắn cũng hết cách.
Được chủ tử dặn dò, A Đao không tình nguyện lắm nhưng vẫn đi qua, Tiểu Thiền ngồi trên một chiếc xe ngựa khác thấy vậy bèn cất bước đuổi theo A Đao.
Cũng chẳng có cách nào khác, tuy rằng Đao Ca có võ công lợi hại nhưng lại không thích nói chuyện, việc ngoại giao để Tiểu Thiền lo vậy.
Khi trông rõ người trước mặt mình là A Đao và Tiểu Thiền bằng xương bằng thịt, nụ cười trên mặt những người dân tị nạn cũng rạng rỡ hẳn lên.