Không lâu sau, quân đội do Hồng Đề dẫn dắt cũng đến nơi. Năm nghìn người đổ vào chiến trường, chặn giết đường lui của bộ binh Nữ Chân. Sau khi kỵ binh của Hoàn Nhan Lâu Thất đuổi theo đến nơi thì chém giết với quân đội của Hồng Đề, yểm hộ bộ binh trốn chạy. Hàn Kính dẫn dắt kỵ binh truy sát sau đuôi, không lâu sau, đại đội Hoa Hạ quân cũng đuổi theo lại đây, hội hợp với quân đội Hồng Đề.
Tinh kỵ Nữ Chân hội hợp bộ binh không thể rút lui nhanh, Hoa Hạ quân thì đuổi theo không chậm một bước. Đêm nay, suốt nửa đêm trình diễn rượt bắt và cắn xé. Trên chặng đường gập ghềnh dài cỡ ba mươi mấy dặm, hai bên không ngừng rượt đuổi với hình thức hành quân nhanh. Đội kỵ binh của người Nữ Chân không ngừng tản ra, nhanh nhẹn quấy nhiễu Hoa Hạ quân. Hiệu suất bày trận của Hoa Hạ quân khiến người líu lưỡi, kỵ binh xông pha, định dùng bất kỳ hình thức nào kéo kỵ binh hoặc bộ binh của người Nữ Chân vào vũng bùn ác chiến.
Cứ như thế hành quân, tác chiến trong đêm tối, hai bên đều phát sinh ngoài ý muốn. Hoàn Nhan Lâu Thất dùng binh thiên mã hành không, ngẫu nhiên xua mấy đội kỵ binh dây dưa với đội ngũ Hắc Kỳ quân ở khoảng cách xa, tạo thành chút thương vong cho bên này. Nhưng Hắc Kỳ quân hùng hổ dọa người phối hợp với bộ kỵ khiến phe Nữ Chân đỡ trái hở phải, mấy lần lao vào giết trong quy mô nhỏ đều làm Nữ Chân để lại mười mấy, mấy chục xác chết.
Cứ thế đuổi theo tới khuya, hai bên mệt mỏi không chịu nổi đành cắm trại tạm nghỉ cách nhau hai, ba dặm ở một chỗ Hoàng Quả Lĩnh phía Tây Bắc Diên Châu. Mãi đến sáng hôm sau còn chưa ngủ đã giấc chợt thấy Hắc Kỳ quân đẩy trận pháo tới trước, người Nữ Chân bày trận, đội ngũ Hắc Kỳ quân một lần nữa xông lên. Hoàn Nhan Lâu Thất chỉ huy đại quân đi đường vòng, sau đó dùng kỵ binh quy mô lớn đánh một trận với đối phương.
Từ đó đến hai ngày sau, hai bên ma sát, xung đột không ngừng. Một bên thì có kỷ luật và năng lực hợp tác kinh người, bên kia thì có điều khiển trận đánh nhạy bén, năng lực chỉ huy dùng binh siêu đẳng. Hai bộ đội điên cuồng va chạm trên mảnh đất này, giống như búa tạ và chiên sắt, đều hung tàn muốn nuốt chửng đối phương.
Đối diện quân đội, tướng lĩnh cơ hồ là đệ nhất thiên hạ, Hắc Kỳ quân ứng đối cực kỳ hung hãn, đây là điều mà mọi người chưa từng đoán được.
Phạm Hoằng Tế nhớ lại kinh nghiệm vài lần đi sứ Tiểu Thương Hà, cũng chưa từng đoán được điều này, dù sao đó là Hoàn Nhan Lâu Thất.
Khi Phạm Hoằng Tế sắp đến Tiểu Thương Hà, trên trời đổ cơn mưa.
Mưa thu rơi rào rào, giọt mưa đánh vào lá vàng cỏ khô trong núi, rơi xuống dòng suối nước sông hòa vào dòng nước xiết cuối cùng trước khi mùa đông đến.
Từ giữa sườn núi nhìn xuống dưới, Tiểu Thương Hà trông thật bình tĩnh trong cơn mưa thu, phòng ốc dày đặc như răng lược nhưng có chút gì đó đơn điệu, con đường ngay hàng thẳng lối, người đi đường, sân luyện binh trống trải không có người. Nước suối chảy vào sông, mưa lớn làm nước trong hồ chứa nổi lên sóng gợn.
Phạm Hoằng Tế nhìn tất cả điều này, nhớ tiếng thả nước nổ vang như sấm đánh phát ra từ một góc đập lớn ở cửa vào núi, náo nhiệt mà lại đơn điệu.
Lần này đi sứ khó mà có kết quả tốt.
Từ lúc vào núi Phạm Hoằng Tế đã biết rồi. Mật thám Nữ Chân vốn ở gần Tiểu Thương Hà đã bị người của Tiểu Thương Hà thanh lý sạch, không chừa một tên. Trước đó đám mật thám Nữ Chân không ngờ bên kia sẽ gay gắt như vậy, không chừa một người nào, thanh lý sạch sẽ, đủ chứng minh Tiểu Thương Hà đã làm nhiều chuẩn bị cho việc này.
Phạm Hoằng Tế súc miệng rửa mặt trong phòng mà binh sĩ Tiểu Thương Hà sắp xếp, sửa sang lại quần áo, sau đó chống dù đi dọc theo đường núi dưới sự chỉ dẫn của binh sĩ. Bầu trời âm u, trong mưa lớn có gió thổi, đến gần giữa sườn núi đã thấy sân nhỏ thắp đèn đuốc màu vàng ấm.
Thư sinh tên là Ninh Nghị ở dưới mái hiên trò chuyện với thê nhi, nhìn thấy Phạm Hoằng Tế thì hắn đứng lên. Thê tử kia cười nói gì đó, dắt con xoay người vào phòng.
Ninh Nghị nhìn Phạm Hoằng Tế, vươn tay ra:
- Sứ giả Phạm, mời vào.
Lần này gặp mặt khác với những lần trước.
Tuy rằng Ninh Nghị vẫn mang theo mỉm cười, nhưng Phạm Hoằng Tế vẫn có thể rõ ràng cảm thụ được không khí trong cơn mưa thay đổi, nụ cười kia thiếu nhiều thứ, trở nên sâu thẳm phức tạp hơn. Mấy lần trước qua lại và đàm phán, Phạm Hoằng Tế có thể cảm thụ những mưu tính, mục đích qua thái độ nhìn như bình tĩnh ung dung của đối phương, có gì đó nôn nóng, nhưng giờ thì mọi thứ đã biến mất hoàn toàn.
Phạm Hoằng Tế không phải tay mơ trong cuộc đàm phán, những thứ mơ hồ ẩn chứa trong thái độ của đối phương khiến hắn cảm giác có lỗ hổng chen vào trong cuộc đàm phán, hắn cũng vững tin chính mình có thể tìm ra lỗ hổng đó. Nhưng giờ phút này, tâm tình mang tên ‘quả nhiên như thế’ đè nặng trong lòng hắn.
Phạm Hoằng Tế đứng trong mưa, không đi vào theo lời mời, chỉ là ôm quyền vái chào:
- Nếu có thể thì hy vọng Ninh tiên sinh có thể trả lại huynh đệ Nữ Chân vốn sắp xếp ở ngoài thung lũng, làm vậy thì sự tình còn đường cứu vãn.
Ninh Nghị đứng ở dưới mái hiên nhìn hắn, chắp hai tay sau lưng, tiếp đó lắc đầu:
- Sứ giả Phạm suy nghĩ nhiều, lần này chúng ta không đặc biệt để lại đầu người.
Ánh mắt Ninh Nghị nhìn ra xa, rồi xoay người vào nhà. Phạm Hoằng Tế hơi sửng sốt, một lát sau đành đi theo.
Vẫn là thư phòng ấy, Phạm Hoằng Tế nhìn quanh:
- Lúc trước mỗi lần ta lại đây Ninh tiên sinh đều bận rộn, hiện giờ xem ra nhàn nhã hơn một chút. Nhưng ta phỏng chừng ngài không nhàn nhã được lâu.
- Mời ngồi. Trộm lười nửa ngày, đời người vốn nên bận rộn, cần gì so đo nhiều như vậy.
Ninh Nghị cầm bút lông viết chữ trên giấy tuyên:
- Sứ giả Phạm đã đến thì ta thừa dịp nhàn rỗi xin viết một bộ chữ tặng cho ngươi.
- Ninh tiên sinh đánh bại Tây Hạ, nghe nói có viết một bộ chữ tặng cho vua Tây Hạ, viết là 'Độ tẫn kiếp ba huynh đệ tại, tương phùng cười xóa ân thù'*. Vua Tây Hạ cho rằng sỉ nhục, nghe nói mỗi ngày treo trong thư phòng, cho rằng khích lệ. Chẳng lẽ Ninh tiên sinh cũng định viết một bộ chữ chọc tức người để Phạm mỗ mang về? Chọc tức các vị đại nhân của triều đình Kim quốc?
(*) Có nghĩa là: Sau khi trải qua kiếp nạn thì tình nghĩa huynh đệ vẫn còn, khi gặp lại cười nhìn nhau, xóa hết ân thù trong quá khứ.
Câu này trích trong “Đề Tam Nghĩa Tháp” của nhà văn học hiện đại Lỗ Tấn, thể thơ bảy chữ, nội dung lên án hành vi phạm tội phát động chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản, nhưng tả nhân dân Nhật khác với kẻ xâm lược, mang ý hy vọng hai nước hòa hảo trở lại.
Ninh Nghị cười cười:
- Không phải vậy, sứ giả Phạm suy nghĩ nhiều.