Đình viện quần tinh Bắc Đẩu, vốn ban đầu xây dựng cơ địa quân sự này là vì để kết nối với Nhân gian.
Không ngờ sau khi kết thúc thời đại Mạt Pháp, Ma đạo vẫn chưa có cơ hội nhập thế thuyết pháp truyền đạo, vì vậy, đình viện quần tinh Bắc Đẩu chỉ có chức năng như tháp canh, chịu trách nhiệm canh giữ Quy Khư.
Khi Ma đạo bị bao vây bởi nguy hiểm như hiện giờ, ý nghĩa chiến lược của đình viện quần tình Bắc Đẩu đã giảm đi rất nhiều, bởi vì tam giới đang nhắm vào chính tổ đình Quy Khư của Ma đạo.
Vậy nên tại sao Khương Tuyết Dương lại sẵn sàng từ bỏ đình viện quần tinh Bắc Đẩu, dùng oán khí vô tận của biển Bắc Minh để bố trí đại trận Âm Cực Sinh Sát Tịch Diệt Âm Hồn nhằm đối đầu với đại quân Âm Ty.
Muốn trận pháp này phát huy hết công năng, bên trong đình viện Bắc Đẩu phải đóng một đội quân Ma đạo với quy mô nhất định, nếu không, Âm Ty rất có thể sẽ tránh khỏi nơi này, trực tiếp công đánh đến bổn tôn Quy Khư.
Bắc Minh Tú và đại quân bốn trăm vạn vong hồn của ông ấy, càng giống như mồi nhử hơn là để bảo vệ đình viện Bắc Đẩu.
Bốn trăm vạn vong hồn, Âm Ty không thể ngó lơ được, một khi chúng tấn công, Bắc Minh Tú chỉ cần thu lại đại quân vong hồn vào lá Long Hồn Hạo Kỳ và mang đi, sau đó ông ấy có thể rút lui an toàn, để lại đại trận Âm Cực Sinh Sát Tịch Diệt Âm Hồn cho Âm Ty.
Trận pháp lớn này khác với trận pháp thông thường, bản thân pháp trận thông thường có sức mạnh, mà bản thân trận pháp lớn này không thể tự vận hành, chức năng lớn nhất của nó là tích trữ âm khí oán giận.
Âm khí oán niệm bên trong không chỉ bao gồm biển Bắc Minh, còn bao gồm cả oán hận chết chóc của tất cả chúng sinh bị Thiên đạo làm trọng thương ở Quy Khư.
Bản thân Quy Khư không ở trong tam giới, nên sự oán giận chết chóc không thể siêu độ.
Tất cả đều được Thùy Họa điều động dưới danh nghĩa Tử Thần, sau đó bị Khương Tuyết Dương trói buộc bởi pháp trận trong khoảnh sân của đình viện Bắc Đẩu.
Trận hình này chỉ có thể được kích nổ bằng đao Thiên Địa Giao Tranh Âm Dương Lưỡng Đoạn của Tạ Uẩn, bởi vì, bản thân âm khí không có uy lực sát thương, chỉ khi Âm Cực Sinh Sát toàn bộ chuyển hóa thành sát khí thì mới có thể bùng nổ thành nguy cơ hủy diệt.
Về sức mạnh của trận pháp này, Thùy Họa từng nói qua, sức mạnh hủy diệt rất tiệm cận với ngọn lửa linh hồn của khi Tử Thần niết bàn lần chín, tuy nhiên, lửa linh hồn của Tử Thần có thể tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định, còn sức mạnh hủy diệt của trận pháp chỉ có thể tồn tại trong chốc lát.
Dù chỉ trong chốc lát, cũng có thể mang đến một thảm họa kinh hoàng cho đại quân Âm Ty với phần nhiều là âm hồn.
Khi tôi tới đình viện Bắc Đẩu, Bắc Minh Tú đang đứng cao nhìn về phương xa, đại quân bốn trăm vạn vong hồn của Ma đạo vẫn đang đứng đợi lệnh.
Cảm nhận được sự xuất hiện của tôi, Thất Tọa Đảo Tự đồng thanh nói: "Đệ tử Ma đạo, vạn thế thiên hồng.
”Tôi bày tỏ lời chia buồn với họ trên không, sau đó Bắc Minh Tú bay đến bên cạnh tôi.
“Đại quân Âm Ty hiện đang ở vị trí nào?” Tôi hỏi.
“Báo cáo Đạo Tổ, đang ở giữa đảo Phi Linh và hẻm núi San Hô, phía đông bắc, cách đây ngàn dặm.
” Bắc Minh Tú đáp.
"Địa điểm cụ thể thì sao?"“Cách đây ngàn dặm, e rằng chỉ có Phong Chủ mới có thể định vị chính xác.
”“Chà, đây là sơ suất của ta, quên mời Phong Chủ tới đây rồi.
"Vừa nói xong đã nghe thấy giọng nói của Phong Chủ: "Đạo Tổ, ta đã đến rồi.
"Quay đầu lại nhìn thì thấy Phong Chủ, A Lê, Hi Hòa, cả Thuần Quân cũng đều đã theo tới đây.
Phong Chủ một thân cung sa màu xanh lá cây, trông đặc biệt tao nhã, nhưng bản chất táo bạo và phóng khoáng vẫn không thay đổi, hở nửa phần ngực, càng khiến cô thêm phần quyến rũ và hoang dã.
Kể từ khi A Lê thăng cấp lên đạo tổ, cô bé không còn mặc Nguyệt Bố Trường Bào chỉ tượng trưng cho Thái Cổ Nguyệt Thần nữa, mà thay vào đó cô mặc một bộ áo giáp hắc quang, ngay phần ngực có một viên đá mặt trăng được điêu khắc theo hình trăng tròn.
Hi Hòa thì vẫn một bộ Tinh Hồng Nghê Thường, cùng mái tóc đỏ và đôi mắt đỏ, tựa như một quả cầu lửa.
Còn Thuần Quân vẫn là bộ dáng lô-li nhưng khí chất của cô ấy không hề kém cạnh so với ba người họ.
Phần trán và bên trong đôi mắt in hằn ký hiệu ba thanh kiếm, càng khiến cô ấy sắc sảo, tinh tế hơn.
Vì muốn tích trữ thêm khí Canh Kim để luyện thể, Thuần Quân còn vác thêm trên lưng một thanh Song Thủ Trọng Kiếm cực kỳ không cân xứng với hình dáng cơ thể.
Thanh trọng kiếm này được rèn từ sắt trong núi Côn Ngô, nặng một vạn tám ngàn cân, tương đương 9 nghìn ki-lô-gram.
Thuần Quân vác trên lưng nhẹ nhàng, như thể không có gì.
Trọng kiếm phát ra sắc vàng óng ánh, bên trên có khắc phù văn mang ý nghĩa thâm sâu của thái cổ tam kiếm.
Thanh trọng kiếm này, trận chiến ở núi Bất Chu vẫn chưa được Thuần Quân luyện thành hình, sau trận chiến, lúc Khương Tuyết Dương nhận ra rằng khí Canh Kim của Thuần Quân không thể đối phó với những kiếm khí bình thường của thái cổ tam kiếm, mới đặc biệt chế tạo cho cô ấyTừ đó có thể thấy, Khương Tuyết Dương của Ma đạo tôi tuy rằng tài trí mưu lược không bằng Mộ Dung Nguyên Duệ và Tạ Lưu Vân, nhưng vẫn có nét độc đáo của riêng mình.