Phạm Ninh cười cười nói:
- Những thổ dân này không phải tràn đầy thù hận với chúng ta sao? Tại sao muốn đến đàm phán vậy?
- Vừa rồi ta nói chuyện với bọn họ một lúc, bọn họ và bộ lạc đông bắc là bộ lạc nhỏ, hai bộ lạc cộng lại vẫn chưa tới một nghìn người, mười năm trước từ một hòn đảo lớn phía bắc chuyển qua đây, chắc là đảo Khố Hiệt, bình thường hay bị bộ lạc bán đảo ức hiếp áp bức, thức ăn thu hoạch được đều phải nộp lên một nửa, nữ nhân còn bị đối phương cướp lấy, lần này chúng ta tiêu diệt bộ lạc bán đảo, bọn họ vừa vui mừng vừa sợ hãi, hy vọng chúng ta có thể cho phép bọn họ ở lại đảo Mao Nhân.
Kết quả này vượt ngoài dự liệu của Phạm Ninh, hắn ngẫm nghĩ một lúc nói:
- Huynh nói bọn họ là từ đảo Khố Hiệt dời tới, tại sao muốn chuyển đến chỗ này?
- Huynh có thể trực tiếp hỏi bọn họ!
Phạm Ninh gật gật đầu, đi lên phía trước chắp tay hành lễ, bên cạnh có phiên dịch dùng tiếng Nhật Bản nói vài câu, phiên dịch đối phương cũng nói với đám người, mười mấy người vội vàng đứng dậy hành lễ với Phạm Ninh.
Phạm Ninh thấy trong ánh mắt bọn họ không có sự hung hãn, phần lớn hiền lành, nhút nhát, hoàn toàn không giống thổ dân trên bán đảo, Phạm Ninh đối với bọn họ cũng có một chút thiện cảm.
Hắn vẫy tay mời đám người ngồi xuống, cười nói:
- Nghe nói mọi người là từ đảo lớn phía bắc qua đây, tại sao lại muốn tới đảo Mao Nhân?
Phiên dịch xong, một người đàn ông trong đó dáng vẻ thủ lĩnh nói liến thoắng vài câu, phiên dịch triều Tống nói với Phạm Ninh:
- Bọn họ nói bên đó quá lạnh, thức ăn cũng ít, đảo Mao Nhân bên này ấm áp hơn nhiều, nhưng thường bị người bên này ức hiếp, nữ nhân bị cướp đi, cuộc sống cũng rất khó khăn.
Phạm Ninh phát hiện bọn họ tuy cũng rất thấp bé, nhưng diện mạo so với thổ dân bên này vẫn có khác biệt, không đen như thổ dân bên này, đường nét trên mặt rõ ràng hơn, hình dáng ngược lại có một chút đặc trưng của người Khiết Đan.
Phạm Ninh lại nhớ tới một lời giải thích, tuy rằng đều là người A Y Nỗ, tập quán sinh hoạt gần giống, nhưng người A Y Nỗ Bắc Hải Đạo bên này là từ hải đảo Đông Nam Á di chuyển đến, nhưng người A Y Nỗ đảo Khố Hiệt lại là một nhánh của Hắc Thủy Mạt Hạt, gọi là bộ Quật Thuyết, hình như là từ thời Tùy Đường chuyển đến đảo Khố Hiệt.
Lúc này, Địch Thanh ở bên cạnh nói:
- Phạm Ngự sử, bọn họ nói người Mao Nhân nước Nhật Bản bên kia cũng rất hung ác, sẽ không dễ dàng để cho bọn họ chuyển qua đó, bọn họ hy vọng có thể ở lại đảo Mao Nhân, ta và Triệu sứ quân cảm thấy cũng được, những người này rất thuần phác lương thiện, với thổ dân lúc trước hoàn toàn không giống, hơn nữa bọn họ đối với đảo Khố Hiệt phía bắc chúng ta sau này sẽ có trợ giúp, cậu thấy sao?
Phạm Ninh suy nghĩ một chút nói:
- Vậy hãy để cho bọn họ trở thành con dân Đại Tống, nữ nhân trẻ con bắt được có thể đưa cho bọn họ, điều kiện này của chúng ta có lẽ không tệ.
Phiên dịch nói ra ý của Phạm Ninh, ánh mắt mười mấy người đối phương đều không giấu được sự cảm kích, có lẽ là nghe được tặng nữ nhân và trẻ con cho bọn họ, mười mấy người cùng quỳ xuống dập đầu cảm tạ Phạm Ninh.
Nữ nhân đối với bọn họ mà nói là một loại của cải, trong đó có không ít nữ nhân vốn là thê tử của bọn họ, bị thổ dân bán đảo cướp đi.
Lại qua hai ngày, mười mấy trưởng lão của một bộ lạc khác cũng đến đại doanh quân Tống, hai bộ lạc cuối cùng đã đạt được thỏa thuận với quân Tống, bọn họ đồng ý trở thành con dân Đại Tống, không gọi là người Mao Nhân, mà đổi tên thành người Côn tộc Đại Tống.
Tống triều không trưng thu thuế của bọn họ, hàng năm chỉ tượng trưng tiến cống một tấm da gấu và mấy cặp sừng hươu cho Hoàng đế Tống triều, quân Tống thì đồng ý bọn họ dời đến bán đảo, thực vật nơi này càng phong phú, khí hậu càng ấm áp hơn một chút.
Người Côn tộc vì cảm tạ quân Tống đem thê tử bị bắt đi trả lại cho bọn họ, lại tặng cho quân Tống ba trăm tấm da gấu, đây là của cải bọn họ tích lũy mấy chục năm.
Quân Tống thì tặng cho bọn họ mỗi người hai bộ y phục Tống triều và không ít lương thực với muối, khiến cho bọn họ cuối cùng từ biệt cuộc sống mặc da thú qua hè.
Đây cũng là ý tưởng của Phạm Ninh, nếu người Côn tộc đã trở thành con dân Đại Tống, đồng thời giữ lại tín ngưỡng và tập tục của bọn họ, cũng phải cố gắng khiến cho bọn họ dựa vào người triều đình.
Phải xây dựng trường học, dạy con cái bọn họ học chữ Hán, phải thay đổi y phục của bọn họ, phải dạy bọn họ trồng trọt, dệt vải, thay đổi thói quen ăn uống, tuổi thọ kéo dài, có lẽ mấy chục năm sau, bọn họ sẽ dần dần hán hóa, sẽ thừa nhận thân phận người Tống của mình từ bên trong.
Mười ngày sau, quân Tống để lại năm trăm người đóng giữ ở doanh trại, quân Tống còn lại dưới sự hướng dẫn của thợ săn Côn tộc, phân hai đường thủy và bộ xuất phát đến đồng cỏ trùng trùng điệp điệp phía bắc.
Lúc này, bức màn lớn kinh lược Côn Châu rốt cục đã từ từ mở ra.
Chớp mắt, quân Tống ở lại Côn Châu đã được ba tháng, quân Tống cơ bản đã thăm dò xong đặc trưng địa hình của Côn Châu, Côn Châu hình vuông, nam bắc và đông tây mỗi bên rộng chừng nghìn dặm, ở giữa là một dãy núi lửa, bị rừng rậm bao phủ.
Mà đồng cỏ chủ yếu phân bố ở phía bắc và phía đông, nhất là đồng cỏ đông bắc, tuy rằng ở giữa cũng có đồi núi thấp nhấp nhô, nhưng đều là đồng cỏ là chính, kéo dài đến nghìn dặm, chiều rộng hơn ba trăm dặm, cỏ tươi tốt, có thể nuôi được mấy chục vạn con chiến mã.
Đồng cỏ phía đông nam ít hơn một chút, nhưng cũng rộng mấy trăm dặm, có thể nuôi dưỡng dê bò các loại súc vật, hơn nữa chịu ảnh hưởng của dòng nước ấm, càng thêm ấm áp, ngựa có thể chuyển qua trú đông.
Kẻ địch trong đảo đã không còn nữa, mãnh thú lại trở thành kẻ địch lớn nhất của chiến mã, Côn Châu không có mãnh hổ, lại có một đám sói hoang và vô số gấu ngựa, ngoài ra còn có cáo và rất nhiều nai, hươu sao.
Thứ duy nhất gây ra uy hiếp với ngựa, chính là một đám sói hoang, mấy trăm quân Tống dùng thời gian một tháng, dưới sự hướng dẫn của thợ săn Côn tộc, diệt hết tất cả sói hoang trong đảo Côn Châu.
Năm nghìn con ngựa mẹ và tất cả ngựa giống đầu tiên đã từ đảo Tống Mã chuyển đến Côn Châu hai tháng trước, bọn chúng bắt đầu chạy trên đồng cỏ rộng vô tận, quân Tống xây chuồng ngựa lớn ở phía tây đảo, cũng cắm một trướng nhỏ, trú đóng năm trăm tên lính cùng với quan viên chăm ngựa.
Ngoài ra, quân Tống lại lấy lương thực, muối ăn và vải vóc làm điều kiện, thuê hơn một trăm thanh niên Côn tộc cường tráng, bắt đầu huấn luyện kỵ mã của bọn họ và chăm ngựa, vẻn vẹn chỉ dùng thời gian một tháng, hơn một trăm người Côn tộc liền trở thành trợ thủ xuất sắc của quan chăm ngựa.
Bắt đầu từ tháng bảy, đám quan viên lại thuê mấy trăm nam nữ Côn tộc giúp cắt cỏ, lúc này cỏ khá tươi tốt, cỏ sau khi cắt phơi khô chất lên thuyển chuyển đến phía nam bờ biển Đông, bên đó là nơi trú đông của ngựa.