Bọn họ mang theo chủ yếu là thang công thành và tám chiếc xe kiều, xe kiều chính là dùng để đối phó với sông hộ thành, trên mỗi chiếc xe kiều chở được hơn chục bộ lắp ráp cầu, dùng bảy, tám cây thông dài đặt cạnh nhau mà thành, nặng tới hơn một ngàn cân. Lúc tác chiến có thể trực tiếp lắp ráp cầu bắc qua sông hộ thành, lúc đó tác dụng của sông hộ thành lập tức bị phế bỏ.
Xe kiều là loại xe lớn dùng để vận chuyển loại cầu lắp ráp này, mỗi xe kiều có thể chở được hơn mười bộ cầu lắp ráp như vậy, do bốn con bò khỏe mạnh kéo, cùng đi theo đội ngũ xe quân nhu.
Sáng hôm sau, tiếng trống trận trầm thấp bắt đầu vang lên tùng tùng, mười ngàn bộ binh quân Liêu xuất chiến, phối hợp với bọn họ có năm nghìn kỵ binh, kỵ binh chịu trách nhiệm dùng tên nỏ áp chế đầu thành. Sau khi Liêu quốc chiếm được mười sáu châu U Vân, do đó có được rất nhiều thợ thủ công người Hán, trình độ luyện kim và chế tạo áo giáp của bọn họ cũng tiến bộ vượt bậc, áo giáp và vũ khí tạo ra không thua kém gì quân Tống, cộng thêm đội quân kỵ binh hùng mạnh của bọn họ, sức chiến đấu của quân Liêu mạnh hơn rất nhiều so với quân Tống, nếu không Tống triều sẽ không chịu nhục mà ký kết Hiệp ước Thiền Uyên và đồng ý tiến cống hàng năm.
Mặt khác, Phạm Ninh cũng sẽ không từ bỏ cuộc chiến quy mô lớn được thúc đẩy từ trước tới giờ, thay vào đó hắn đề xuất ý tưởng về cuộc chiến tranh về quốc lực.
Lần này, bộ binh mà quân Liêu dẫn đến đều là người Hán và người Bột Hải, kỵ binh thì là người Khiết Đan và người Hề, ngày đầu tiên công thành, dĩ nhiên là đến lượt quân đội người Hán.
Mười ngàn Liêu binh người Hán đã tập kết ở bên ngoài cách Đông Thành ba dặm, phía sau bọn họ, năm nghìn quân kỵ xạ người Hề cũng đã chuẩn bị sẵn sàng, cùng với tiếng trống trận long trời lở đất ầm ầm vang lên, đã phát động mười ngàn quân Liêu tiên phong tiến công về phía tây huyện thành Bảo Tắc.
Tám ngàn quân Tống và mười ngàn dân binh trên đầu thành cũng đã chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, quân đội gồm có bốn ngàn cung binh và bốn ngàn giáo binh hợp thành, mặt khác, trên đầu tây thành còn trang bị năm trăm nỏ sàn có thể đồng thời phóng ra ba mũi tên lớn, mỗi mũi tên lớn dài ba thước, tầm bắn là năm trăm bước, đây là binh khí có tầm bắn xa nhất của quân Tống.
Binh lính ở phía sau còn được trang bị bốn mươi máy bắn đá cỡ lớn, có thể ném một tảng đá nặng năm mươi cân ra ngoài hai trăm bước. Nhưng với sự phát triển của súng ống, quân Tống không dùng đá để ném mà thay vào đó là hỏa lôi vỏ giấy, hỏa lôi vỏ gỗ và hỏa lôi vỏ sứ.
Trước khi hỏa lôi vỏ sắt ra đời, hỏa lôi vỏ sứ có uy lực lớn nhất, một bình sứ nặng khoảng ba mươi cân, sau khi phát nổ, dựa vào mảnh sứ bắn ra mà đả thương người, nhưng loại hỏa lôi sứ này phạm vi sát thương rất nhỏ, phạm vi tối đa là năm thước, hơn nữa, nếu nổ chậm sẽ vỡ vụn ra và rơi xuống đất.
Trong trận chiến với Tây Hạ thời Tống Nhân Tông, loại hỏa lôi sứ này đã phát triển thêm một bước, quân Tống đã cài thêm mấy trăm đinh sắt ngâm độc bên trong bình sứ, đinh sắt bay ra đả thương người và ngựa, phạm vi sát thương cũng được nâng lên đến hơn mười thước.
Trước khi hỏa lôi sắt ra đời, hỏa khí của quân Tống được đánh giá là gân gà (việc làm vô bổ), là bình hoa, đẹp mắt nhưng không thể dùng, còn không bằng lăn một hòn đá, có thể trực tiếp đánh đổ mười mấy người.
Nhưng đến khi thiết hỏa lôi ra đời, hỏa khí mới có một sự thay đổi mang tính cách mạng, phát ra một tiếng sét, âm thanh chấn động hơn mười dặm, trong vòng trăm bước tất cả đều trở thành bột mịn, quân Tống chính là dựa vào hơn mười quả thiết hỏa lôi dọa bể mật khiến nước Tam Phật Tề giơ cờ đầu hàng.
Mà hôm nay, thiết hỏa lôi lần đầu tiên được đưa vào trận chiến Tống Liêu, cũng không biết hiệu quả sẽ như thế nào?
Mười ngàn quân Liêu bày ra phương trận thật dài, hướng về phía thành trì, càng ngày càng gần, tiến vào khoảng năm trăm bước, Tào Văn Tĩnh hét lên:
- Nỏ sàn phóng tên!
Năm trăm chiếc nỏ đồng thời phóng tên, một nghìn năm trăm mũi tên lớn bay vụt lên, hướng về phía quân Liêu đông nghịt mà bắn tới.
Mặc dù, cánh quân vạn người đầu tiên của Liêu quốc đều là người Hán U Châu, nhưng trên chiến trường không phải ngươi chết chính là ta sống. Quân Tống sẽ không bởi vì đối phương là người Hán mà thủ hạ lưu tình.
Một ngàn năm trăm mũi tên lớn như hạt mưa bắn vào quân địch, binh lính Liêu quân đều chào đón bằng khiên lớn, nhưng khiên lớn và áo giáp cũng không thể đỡ nổi lực của nỏ sàn hùng mạnh, binh lính Liêu quân đều bị trúng tên ngã xuống tới tấp, chỉ một đợt mà thương vong tới hơn năm trăm người.
Quân Liêu cũng gia tăng tốc độ, hét lên lao về phía tường thành, xen lẫn bọn họ có mấy trăm thang công thành cùng với bài kiều.
Binh lính quân Liêu dần dần tiến vào bên trong ba trăm bước, một tên tướng lĩnh khẽ nói với Tào Văn Tĩnh:
- Tướng quân, sử dụng thiết hỏa lôi đi!
Tào Văn Tĩnh thấy hàng ngũ quân địch vẫn còn thưa thớt, mức độ tập trung còn chưa đủ dày đặc, y lắc đầu nói:
- Thiết hỏa lôi đợi lát nữa hãy dùng, lập tức phóng bình sứ hỏa lôi!
Kích thước của bình sứ hỏa lôi nhỏ như một hồ cá, bụng tròn cổ nhỏ nặng ba bốn mươi cân, được trang bị cho bốn mươi cái máy bắn đá, mỗi máy bắn đá được điều khiển bởi ba mươi người, sử dụng phương thức ném luân phiên, mồi lửa được đốt cháy, khi lửa cháy đến miệng, máy bắn đá đùng đùng phóng ra, bốn mươi quả sứ hỏa lôi hướng vào đỉnh đầu quân Liêu vọt tới. Chinh chiến nhiều năm, quân Liêu sớm đã có phương pháp đối phó với hỏa khí của quân Tống, bọn họ nâng lá chắn lên bảo vệ chỗ chí mạng của chính mình, rồi ngồi chổm hổm trên mặt đất, mặc cho tiếng nổ ầm ầm vang lên bên cạnh, tiếng đinh sắt va vào lá chắn vang lên lách cách.
Sau khi vụ nổ kết thúc, binh lính quân Liêu đồng loạt đứng lên, tiếp tục che trời phủ đất chạy về phía tường thành, sau khi cho nổ hỏa lôi sứ, thương vong chưa tới ba trăm người, mức độ sát thương so với nỏ sàn còn kém xa, cho nên quân Tống coi hỏa lôi sứ chỉ như gân gà, chẳng có tác dụng gì.
Binh sĩ quân Liêu đã tiến vào trong khoảng một trăm bước.
- Cung thủ bắn tên!
Tào Văn Tĩnh hạ lệnh một tiếng, tiếng trống vang lên, trên dưới thành trì hàng vạn mũi tên cùng lúc bắn ra.
Quân Tống tổng cộng bố trí một vạn hai ngàn cung binh, ngoài bốn ngàn cung binh đứng trên thành ra, còn có tám ngàn dân binh bên trong thành, bọn họ đứng trong thành, nâng cung lên hướng ra ngoài thành mà bắn, mũi tên dày đặc ào ào bay vụt ra ngoài thành.
Cung thủ thành tầm bắn không xa, mấu chốt là bản thân binh tiễn rất nặng, mũi tên thuôn dài, sắc bén lạ thường, bắn hình vòng cung về phía không trung, nếu như từ tầng mười mấy bắn xuống, mũi tên hướng xuống dưới, đầu nặng đuôi nhẹ, lực sát thương sẽ cực mạnh, ngay cả khiên và áo giáp cũng khó có thể ngăn cản được, đây cũng là vũ khí thủ thành mạnh nhất của quân Tống.
Dưới thành lập tức vang lên những tiếng kêu thảm thiết, quân Liêu từng đám từng đám như lúa mạch trúng tên ngã xuống thành. Đúng lúc này, năm ngàn cung kỵ binh như một đám mây đen lao tới, bọn chúng từ ngoài tường thành đi vào, cưỡi trên lưng ngựa hướng lên trên đầu thành mà phóng tên, tiễn pháp chuẩn xác, liên tục có binh sĩ trúng tên từ trên tường thành rơi xuống.