Nhưng chỗ lửa cháy mãnh liệt nhất lại là khu vực xung quanh cổng thành ngoài, quân Tống ném những chiếc bình đựng dầu hỏa xuống đất vỡ vụn ra, lượng lớn dầu hỏa màu đen chảy men theo con rãnh ra cổng thành ngoài, chưa đến nửa canh giờ, thế lửa càng không thể dập được nữa.
Thôi Sơn Thành thấy binh lính ở thành ngoài bị giết đến thất điên bát đảo, toàn quân sắp bị tiêu diệt, gã cũng trở nên gấp gáp hạ lệnh:
- Mau cởi bỏ áo giáp rồi nhảy xuống sông!
Đây là một biện pháp không sai, dù sao khi đi từ cửa thành ra, bơi qua con hào thì cũng phải cởi áo giáp, thà là bây giờ cởi rồi trực tiếp nhảy xuống sông.
Hàng nghìn binh lính đều nháo nhào cởi bỏ áo giáp, hướng về phía con hào mà nhảy xuống, những tên biết bơi thì trực tiếp bơi sang bờ bên kia, còn những kẻ không biết bơi thì giãy dụa vớ lấy chiếc bè da, leo lên cầu nổi, loạng choạng chạy về phía bên kia bờ.
Nhưng khi chúng chạy lên bờ, thì bên kia một địa ngục khác lại được mở ra, bảy nghìn kỵ binh quân Tống sau khi đã đánh tan một nghìn quân Tây Hạ trụ lại bên ngoài, liền phóng ngựa tới tấp đến giết những binh lính Tây Hạ đang xông qua con hào.
Đây gần như là sự tàn sát của một bên, Thôi Sơn Thành cuối cùng cũng từ cửa thành chạy ra, dẫn theo mười mấy tên lính thân cận mới vừa xông ra từ cầu nổi, bèn chết dưới mũi tên bay loạn của kỵ binh quân Tống.
Trận chiến này quân Tống đã lợi dụng sự phán đoán sai lầm của quân Tây Hạ, cùng với ý nghĩ khinh địch của Thôi Sơn Thành, đã khiến mười lăm nghìn quân Tây Hạ bị toàn diệt dưới thành Ngũ Nguyên, đường lui của hai trăm kỵ binh tháo chạy cũng đã đứt, cuối cùng chỉ còn mười mấy tên bơi vượt qua Hoàng Hà, bỏ chạy về hướng quân thành Thuận Hóa cách đó vài trăm dặm.
Tin tức đầu tiên được truyền đến Đông Kinh Biện Lương, lập tức nhận được sự chúc mừng của toàn thành, các tờ báo lớn đều đăng trên trang đầu với đầu đề, "Tiểu Phạm Tướng công quét sạch Hà Sáo, anh dũng tiêu diệt mấy vạn quân Tây Hạ hung hãn, chốn cũ Hán Đường đều quay về Đại Tống".
Triều đình trên dưới đều vô cùng phấn khích, Tào Thái hậu hạ chỉ, sắc phong Phạm Ninh làm Ngô Quận Vương, gia phong làm Thái sư.
Trên lịch sử, người được phong vương tại Đại Tống tuy rằng không ít, nhưng hầu như đều được truy tặng sau khi chết, người được phong vương lúc sinh thời ít lại càng ít, vả lại chủ yếu đều tập trung ở Nam Tống, ở Bắc Tống rất ít khi có ngoại thích được phong Vương, người được phong Vương dựa vào công lao thì Phạm Ninh là người đầu tiên.
Đây không chỉ vỏn vẹn là ban thưởng cho thắng lợi ở Hà Sáo, mà còn bao gồm luôn cả đại thắng tại Hà Bắc, hai công lao lớn cộng lại với nhau, nếu không phong Vương sẽ không thể biểu dương hết cho công lao này, Tào Thái hậu thuận theo tình hình, cuối cùng cũng đem tước vị Vương trao cho Phạm Ninh, năm ấy, Phạm Ninh 31 tuổi.
Thiên tử Triệu Húc tin chắc vào phương án khả thi tấn công Tây Hạ từ phương Bắc, hạ chỉ dấy binh hai mươi vạn người, chiến mã tám vạn con, do Xu Mật Phó sứ Địch Thanh chỉ huy, trùng trùng lớp lớp thẳng hướng về phía Hà Sáo, ngoài ra còn điều quân lương trăm vạn thạch từ kho Lê Dương và nhà kho lớn, đi qua đường thủy hướng về Du Lâm.
Tin tức cũng được truyền đến phủ Hưng Khánh, khiến cho cả nước Tây Hạ khiếp sợ, Lương Thái hậu rốt cuộc cũng ý thức được vấn đề nghiêm trọng, quân Tống cướp lấy Hà Sáo, tuyệt nhiên không chỉ là vì giành được nơi chăm nuôi ngựa, còn có thể là muốn tấn công Tây Hạ từ phương bắc.
Mà phía bắc phủ Hưng Khánh lại không có thành trì phòng ngự, là một vùng đất bằng phẳng, một khi quân Tống xuôi về phía nam, có thể trực tiếp đem binh đến dưới thành phủ Hưng Khánh.
Lương Thái hậu trong lòng hoảng sợ, lập tức hạ chỉ hủy bỏ kế hoạch tấn công triều Tống của Khánh Châu, ba mươi vạn đại quân được điều về phủ Hưng Khánh, lập tức lệnh cho Đại tướng quân Võng Manh Ngoa làm chủ tướng, chỉ huy mười vạn đại quân bắc phạt Hà Sáo, trong đó bao gồm ba nghìn kỵ binh trọng giáp Thiết Diêu Tử.
Lương Thái hậu đồng thời cũng phái người chạy đến Thượng Kinh Liêu Quốc, khuyên bảo Liêu Quốc giáp công Du Lâm từ phía đông, cắt đứt đường tiếp tế Hà Sáo của quân Tống.
Chính ngay tại lúc hai nước Tống Hạ đang tranh đoạt vùng Hà Sáo, Thiên tử Liêu Quốc - Gia Luật Hồng Cơ cũng đang có mặt tại phủ Liêu Dương tại Đông Kinh, tiếp kiến Đặc sứ Đằng Nguyên Hữu Chương do Thiên Hoàng Nhật Bản phái đến Liêu Quốc để ngoại giao.
Gia Luật Hồng Cơ năm ngoái đã từng phái sứ giả đi Bình An Kinh, gã biết rằng gia tộc Đằng Nguyên mới thật sự là kẻ nắm quyền tại Nhật Bản, vị Đằng Nguyên Hữu Chương này là người thừa kế thứ hai của gia tộc Đằng Nguyên, địa vị trong gia tộc rất cao, Gia Luật Hồng Cơ cũng phải dùng lễ trọng để tiếp đãi y.
Điều thú vị ở đây là Liêu Quốc không ai biết nói tiếng Nhật, mà ở Nhật lại không ai biết nói tiếng Khiết Đan, bọn họ đã tìm ra một ngôn ngữ chung, chính là tiếng Hán.
Năm ngoái khi sứ giả Liêu Quốc đến Bình An Kinh cũng rất may khi biết nói tiếng Hán, nên đã tránh khỏi tình huống khó xử khi không thể giao tiếp.
Trong hoàng cung Đông Kinh Tại thành Tân Khánh, Đằng Nguyên Hữu Chương tiến hành nghi thức, đệ trình quốc thư và thư tín của Quan bạch (cố vấn của Thiên Hoàng) cho Gia Luật Hồng Cơ.
Gia Luật Hồng Cơ lập tức mở tiệc chiêu đãi Đặc sứ Nhật Bản một bữa.
Tiếng Hán của Gia Luật Hồng Cơ không tồi, gã nói chuyện trực tiếp bằng tiếng Hán, còn Đằng Nguyên Hữu Chương thì nói bằng tiếng Nhật và được một quan viên tinh thông về tiếng Hán và tiếng Nhật ở kế bên phiên dịch.
- Có vẻ như Đằng Nguyên tiên sinh cũng biết nói tiếng Hán?
Gia Luật Hồng Cơ cười hỏi.
Đằng Nguyên Hữu Chương khẽ khom người, lịch sự đáp:
- Con cháu quý tộc Nhật Bản từ nhỏ sẽ phải học tiếng Hán, học văn hóa Trung Nguyên, từ thời Tùy Đường vẫn duy trì một mực như vậy, ta đương nhiên cũng biết nói tiếng Hán.
Phiên dịch viên ở bên cạnh đem lời của y phiên dịch thành tiếng Hán, Gia Luật Hồng Cơ mỉm cười gật gật đầu:
- Một khi đã vậy, tại sao chúng ta đều không dùng tiếng Hán để nói chuyện với nhau?
Đằng Nguyên Hữu Chương giải thích:
- Ta học tiếng Hán không tốt lắm, thân là Quốc sứ, chỉ sợ dùng sai từ sẽ dẫn đến những hiểu lầm không cần thiết, vì vậy nên phải vô cùng thận trọng, không sử dụng ngôn ngữ ngoại tộc.
Gia Luật Hồng Cơ cười lớn:
- Đây mới đủ tư cách làm một sứ giả, không thể để xảy ra những hiểu lầm không cần thiết.
Gia Luật Ất Tân ở bên cạnh cười hỏi:
- Thiên tử của chúng ta rất quan tâm đến nghề chế tạo thuyền của Nhật Bản, không biết trình độ chế tạo thuyền của Nhật Bản hiện nay thế nào?
Đằng Nguyên Hữu Chương lắc đầu:
- Nhật Bản có thể chế tạo những chiếc thuyền nhỏ đi ở gần biển, còn những chiếc thuyền lớn để đi ra ngoài biển thì không được, thuyền của chúng ta đang đi đều được mua từ triều Tống.
Gia Luật Hồng Cơ ánh mắt sáng lên, tay nâng chén rượu hỏi:
- Các ngài có thể tùy ý mua thuyền của triểu Tống sao?
- Chúng ta chỉ có thể mua thuyền từ năm nghìn thạch trở xuống, hơn nữa giá cả rất đắt, so với giá bán cho người triều Tống cao gấp ba lần, không còn cách nào cả, hàng hóa triều Tống bán cho Nhật Bản đều đắt hơn so với bán cho người bản địa rất nhiều.