Hạ Nhược Tuyết liếm liếm đầu lưỡi, nói: "Ta tu luyện ma công, khẳng định là phải giết một số người, nắm U Ảnh đường trong tay, cũng tương đương với đã nắm giữ tình báo trong tay. Ta sẽ không giết người vô tội, chỉ giết những tên ma tu gây nguy hại đến Vân Mãng kiếm phái mà thôi."
"Ngươi không phải là ma tu sao? Còn nói hiên ngang lẫm liệt như thế?"
"Theo ta, đối tượng mà ngươi muốn giết chính là những tán tu không có bối cảnh kia thôi."
Người của Tả gia nhao nhao chỉ trích.
Phòng Sư Điền lập tức khoát tay ngăn cản những câu hỏi khó của bọn họ, khẽ mỉm cười nói: "Hạ cô nương... Vân Mãng kiếm phái chúng ta cũng không phải môn phái cổ hủ, chỉ cần cô nương tận tâm tận lực tới trợ giúp bổn phái, bổn phái sẽ đưa một ít tử tù hoặc yêu thú cho cô nương, để cô nương tăng tiến công lực."
"Đa tạ Phòng tiền bối." Hạ Nhược Tuyết cảm kích nói.
Phòng Sư Điền lại quay đầu nhìn về phía Tả Trung Lương, dò hỏi: "Tả thành chủ, ngươi thấy thế nào?"
Tả Trung Lương suy tư một lát mới nói: "Chỉ cần Hạ cô nương đồng ý ba năm sau sẽ trả lại U Ảnh đường, Tả mỗ nguyện ý xóa bỏ tất cả."
Phòng Sư Điền vui vẻ nói: "Đúng, oan gia nên giải không nên kết, một khi đã như vậy, hai vị hãy bắt tay giảng hòa đi!"
Tả Trung Lương lộ vẻ khó xử nói: "Phòng tiền bối, nàng này không rõ lai lịch, còn là một ma tu..."
"Ta biết rõ lai lịch của Hạ cô nương!" Phòng Sư Điền trực tiếp mở miệng ngắt lời gã.
Đối phương đã nói như vậy, bọn họ còn biết nói gì nữa đây?
Người của gia tộc tu tiên Tả thị chỉ biết đưa mắt nhìn nhau, trong lòng thầm nghĩ lần này uy thế của người khác mạnh hơn, bọn họ chỉ có thể nhận thua thôi!
...
Dưới sự tác hợp của Phòng Sư Điền, Hạ Nhược Tuyết và Tả thị đành bắt tay giảng hòa.
Hạ Nhược Tuyết được quyền chấp chưởng U Ảnh đường, và coi như bánh ít đi, bánh quy lại, U Ảnh đường dưới quyền nàng phải bổ sung lượng lớn tu sĩ Vân Mãng kiếm phái vào bên trong, đồng thời nàng cũng chịu trách nhiệm đích thân tới truyền thụ phương pháp tổng hợp tình báo cho bọn họ.
Sau ngày hôm nay, dù trên danh nghĩa U Ảnh đường vẫn thuộc về Tả gia, nhưng trên thực tế, nó đã trở thành sản nghiệp của Vân Mãng kiếm phái rồi.
Tất cả sản nghiệp trong địa vực của môn phái chỉ cần bại lộ ra, đều thuộc về môn phái, đối với Ma Môn, đây là chuyện đương nhiên, nhưng đối với chính đạo, lại cần phải chú ý đến tướng ăn...
Một năm sau đó, có lẽ sự kiên nhẫn của Vân Mãng kiếm phái đã hao mòn hầu như không còn rồi, cũng có thể bọn họ đã tìm được 'Long Cốt Thái Tuế'… Nhưng tóm lại, Ngân Tuyết thành không còn triển khai đại hội giám bảo liên quan đến 'Dược Sư Linh Hỏa' nữa, ngay cả Phong Sư Điền vốn luôn trấn thủ ở nơi này cũng lặng yên rời đi.
Những tu sĩ Thông Linh cảnh của Vân Mãng kiếm phái bên trong U Ảnh đường cũng rời khỏi tổ chức Ám môn này rồi, vị trí của bọn họ lại một lần nữa bị người của gia tộc Tả thị lấp đầy.
Tuy hành động này cho thấy nhân thủ hạ tầng của U Ảnh đường lại một lần nữa nằm dưới quyền khống chế của gia tộc Tả thị, nhưng vị trí đường chủ vẫn thuộc về Hạ Nhược Tuyết.
Hạ Nhược Tuyết dùng thực lực mạnh mẽ và bối cảnh tông môn tới chấn nhiếp, khiến Tả gia dù căm ghét lại sợ ném chuột vỡ bình, chỉ có thể tỏ ra vô cùng cung kính với nàng.
Trong lúc Hạ Nhược Tuyết khống chế U Ảnh đường, nàng và gia tộc Tả thị đã thành lập nên một mối quan hệ hợp tác vi diệu.
Hạ Nhược Tuyết lợi dụng mạng lưới tình báo của U Ảnh đường, để tìm kiếm những tán tu không bối cảnh hoặc những kẻ đáng chết để luyện hóa làm huyết thực. Dù những con mồi như vậy cũng không nhiều lắm, nhưng cách vài ngày một lần, nàng đều kiếm được huyết thực bỏ vào trong túi, so với một mình ra ngoài săn giết, phương thức này vừa an toàn hơn, lại có hiệu quả cao hơn.
Đồng thời, nàng giết chết những người này, cũng có lợi đối với gia tộc tu tiên Tả thị…
Cứ như vậy, song phương hình thành nên thế "đôi bên cùng thắng".
Trong thời gian một năm này, Lý Thủy Đạo đã luyện chế tất cả "Thái Âm Huyết Hồn Châu" thành "Thái Âm Hàn Băng Đan", tổng cộng có hai trăm bảy mươi viên đan dược.
Cứ cách nửa tháng một lần, Lý Thủy Đạo lại luyện hóa thêm một hạt Thái Âm Hàn Băng Đan. Hơn một năm nay, hắn chỉ mới luyện hóa được ba mươi hạt.
Ba mươi viên Thái Âm Hàn Băng Đan này đã giúp tu vi vốn có của Lý Thủy Đạo là Dung Linh cảnh sơ kỳ trực tiếp tăng vọt lên Dung Linh cảnh trung kỳ.
Nhưng mỗi tầng cửa ải là một hòn núi, cửa ải đằng sau càng khó vượt qua hơn cửa ải trước mắt.
Tiên lộ đằng đẵng, khó khăn chất chồng, càng đến hậu kỳ, độ khó càng tăng, tu luyện cũng càng tốn thời gian hơn...
...
Sơn cốc vô danh.
Lý Thủy Đạo cầm trường kiếm trong tay tiến vào trong cốc, vừa vặn lại trông thấy một người đã ở trong cốc chờ đợi từ lâu. Người này chính là Không Linh Kiếm - Diệp Lộc Uyên.
Kiếm ý của hai người bọn họ trái ngược lẫn nhau, hàn phong gào thét, không khí căng thẳng.
Kiếm ý của Lý Thủy Đạo giống như hàn nguyệt băng sơn, lạnh lùng mà cao ngạo, chìm trong gió rét lại càng thêm cứng cỏi.
Kiếm ý của Diệp Lộc Uyên lại là đám mây vô tung, phiêu lãng theo gió, khó có thể nắm bắt được.
Hai luồng kiếm ý đan vào nhau, mang đến cho người ta một cảm giác lạnh thấu xương.
Một nén nhang trôi qua, song phương vẫn đứng yên tại chỗ, không phát một chiêu. Lần luận bàn này đã vượt qua kiếm pháp và những chiêu thức giản đơn, phần nhiều là thăm dò cũng như quyết đấu đối với kiếm ý của nhau.
Sưu sưu sưu sưu sưu!
Rút kiếm, hàn quang lóe sáng.
Kiếm pháp của Lý Thủy Đạo tinh thuần đến đỉnh điểm, giống như một dòng nước, lan tràn khắp chốn, bất cứ nơi nào cũng lấp đầy được.
Diệp Lộc Uyên lại có thân pháp linh động như mây, nhìn như tùy tâm sở dục, kì thực, mọi hành động đều nằm dưới sự điều khiển, tính toán tinh vi của kiếm ý.
Hai người đồng thời xuất kiếm, gần như không phân rõ thứ tự trước sau, một bên vũ động như mây, mờ ảo vô tung, một bên như sơn xuyên trút xuống, khí thế bàng bạc.
Hai người lấy kiếm làm thơ, lấy kiếm khắc họa...
Sau một phen đấu kiếm, vẫn chưa phân thắng bại.
Bọn họ nhìn nhau, đôi bên cùng bật cười, lập tức thu hồi trường kiếm trong tay.