Sau khi Tống Nghị hoàn toàn hồi phục, chuyện đầu tiên hắn làm chính là bảo Phúc Lộc chuẩn bị quan phục mũ quan, lên xe ngựa thượng triều.
Bộ quan phục màu đỏ rực có bố tử thêu kỳ lân đã không còn vừa vặn với người hắn nữa mà bị hơi rộng. Lúc hắn đi nhanh ra ngoài điện, cơn gió lạnh buốt ập thẳng vào mặt, bộ quan phục trên người bay phấp phới, mơ hồ phác hoạ thân hình cao lớn đã hơi hao gầy.
Trận ốm này đã khiến hắn gầy đi rất nhiều, cơ thể vốn cường tráng nhanh chóng gầy xọp xuống sau gần nửa tháng nằm trên giường dưỡng bệnh. Cái gọi là bệnh tới như núi lở, bệnh đi như kéo tơ, dù bây giờ đã khoẻ lại, nhưng nếu muốn lấy lại sức lực như hồi chưa bị bệnh, e là sẽ phải điều dưỡng thêm vài tháng nữa.
Nhưng hắn không muốn chờ thêm một giây phút nào nữa.
Thù của hắn, không thể để sau này mới báo.
Chúng triều thần đứng hai bên sườn điện co rúm lại. Người phía trên ngồi ngay ngắn trên ghế thái sư, tuy bộ quan phục hơi thùng thình, nhưng uy thế lại không hề suy giảm một chút nào. Đặt biệt là sau trận ốm, mặt hắn đã gầy xuống khiến đường nét càng thêm sắc bén, trông còn lạnh lẽo hơn cả gió tuyết ngoài kia, nhìn thôi đã thấy sợ.
Người nọ cao ngạo bễ nghễ, khi ánh mắt vô cảm kia liếc qua đỉnh đầu bọn họ, chúng đại thần đều sởn hết gai ốc, trong nháy mắt chỉ cảm thấy tức ngực khó thở, tựa như bị cả ngọn núi Thái Sơn đè nặng đến mức ngộp thở.
Trong lòng bọn họ đều lờ mờ đoán được, buổi thượng triều hôm nay, e là không được bình yên. Chỉ sợ Tống Quốc cữu kia sẽ phải tìm cớ gì đó để giết gà doạ khỉ.
Thế rồi lại nhớ tới sáng nay trước giờ thượng triều, Tống Quốc cữu sải bước lên trên điện, gần như chỉ cách Thánh Thượng một bước chân. Đây đúng là chuyện trước nay chưa từng có. Nhưng sau đó hắn chẳng thèm cúi đầu với Thánh Thượng mà còn xoay người đối mặt với các triều thần rồi vén áo vạt ngồi xuống, chẳng hề phân biệt thứ tự trước sau với Thánh Thượng!
Cái dáng vẻ hùng hổ này của Tống Quốc cữu, không chỉ đám triều thần bọn họ hoảng loạn, đến cả Thánh Thượng cũng khá kinh hãi.
Trong lòng chúng triều thần đều hiểu rất rõ, Tống Quốc cữu đang muốn tính sổ sau khi ốm dậy. Buổi lâm triều còn chưa bắt đầu, không khí trong điện đã giông gió mù mịt.
Quả nhiên. Tống Quốc cữu bắt đầu gọi người đứng ra khỏi hàng!
Người được điểm tên đầu tiếng là một quan văn hàng Tam phẩm. Chúng triều thần vừa nghe tên người bị gọi, có người chợt hít sâu một hơi, có người lập tức căng thẳng run hết cả tay chân.
Người đầu tiên bị gọi đứng ra khỏi hàng, chính là người lúc trước đã ở ngoài hậu tráo lâu tiên phong ra mặt đòi đối chất.
Song lại thấy sau khi Tống Quốc cữu gọi tên người kia, sắc mặt lập tức tối sầm mà một quyển tấu chương ra, lạnh giọng hỏi kẻ kia bị trị tội có oan không. Không đợi gã ta hoảng sợ mở miệng thỉnh tội, ngay sau đó bắt đầu nghiêm mặt đọc rõ từng tội lớn tội nhỏ trong suốt quãng thời gian gã ta làm quan.
Không làm tròn trách nhiệm, tham ô, ăn chặn, cậy quyền, đố kị… Vô số tội danh được nêu ra, có tới hơn ba mươi bằng chứng phạm tội!
Tống Quốc cữu cứ mở tấu chương ra rồi đọc như vậy, đọc một tội là giáng một chức của gã, lại đọc một tội, lại giáng một chức. Cứ thế, chức vụ của quan viên kia giảm dần giảm dần, đến khi không còn chức để giáng nữa, nhưng có vẻ như hắn vẫn chưa hả giận thì lại lên án mạnh mẽ viên quan kia ngay trên đại điện, quát mắng không chút lưu tình, đến tận khi viên quan kia bật khóc hu hu thì mới chịu bỏ qua.
Những viên quan tiếp theo bị điểm tên đứng ra khỏi hàng, ai nấy cũng như chết cha chết mẹ vậy.
Toàn bộ quan viên bị Tống Nghị chỉ mặt điểm tên trong buổi lâm triều, người bị phạt bổng lộc, người bị giáng chức hoặc bãi nhiệm. Tổng cộng có tới hơn mười viên quan bị xử phạt.
Điều khiến bọn họ thầm kinh ngạc chính là, trước kia nếu Tống Quốc cữu muốn bổ nhiệm hay bãi nhiệm chức quan thì đều sẽ hỏi một câu tượng trưng về ý kiến của Thánh Thượng. Hôm nay vị này còn chẳng thèm diễn nữa mà trực tiếp ra lệnh, có hơi độc đoán vượt quyền. Còn Thánh Thượng ngồi trên long ỷ cao quý thấy vậy cũng chẳng kêu ca lấy một câu. Suốt cả buổi lâm triều này, dường như chẳng ai dám thở mạnh tiếng nào.
Sau khi tan triều, đa phần chúng triều thần đều chân run lẩy bẩy mà đi ra khỏi đại điện, lòng thầm cảm thấy may mắn vì thoát được một kiếp. Trong cái rủi lại có cái may, tốt xấu gì bọn họ vẫn được tự mình đi ra, không giống những viên quan bị bãi nhiệm kia bị thị vệ lôi thẳng ra ngoài.
“Cữu phụ, người dừng bước đã.”
Tống Nghị vừa mới bước ra ngoài điện, đột nhiên nghe thấy sau lưng có tiếng bước chân dồn dập cùng với tiếng hô vội vàng của Thánh Thượng. Thấy vậy, hắn dừng bước chân, lập tức xoay người lại.
Thánh Thượng gấp gáp chạy tới, khi đã đến gần thì đứng cách trước mặt Tống Nghị vài bước chân, cả giận: “Cữu phụ đi nhanh thế.”
Tống Nghị ra vẻ kinh ngạc: “Thánh Thượng có chuyện muốn tìm thần sao?”
“Dĩ nhiên là có rồi.” Thánh Thượng thở dài: “Dạo trước cữu phụ bị bệnh, cả Trẫm và mẫu hậu đều rất lo lắng. Nhất là mẫu hậu, từ khi hay tin thì mẫu hậu luôn ăn uống không đầy đủ, ngày nào cũng lo lắng cho cữu phụ, còn âm thầm rơi lệ nữa. Bây giờ cuối cùng cữu phụ cũng được bình an khoẻ mạnh, nếu mẫu hậu mà biết thì không biết sẽ vui mừng đến mức nào nữa. Thế nên muốn hỏi cữu phụ, liệu người có thể đến Từ Ninh Cung một chuyến hay không, nhờ đó giúp mẫu thân có thể yên tâm hơn.”
Nếu nhìn kỹ, thì sẽ nhìn được vẻ tha thiết khẩn cầu trên khuôn mặt tuấn tú của vị Đế Vương trẻ tuổi.
Ngón tay Tống Nghị vô thức sờ sờ vào vỏ kiếm, rũ mắt đứng đó một lát rồi giương mắt lên cười: “Do thần khiến Thánh Thượng và Thái Hậu lo lắng. Nếu Thái Hậu không chê thần phiền phức, vậy thần sẽ đến Từ Ninh Cung vấn an Thái Hậu nương nương một chút.”
Thánh Thượng cực kỳ vui mừng: “Đương nhiên là không phiền rồi.” Dứt lời liền hơi nghiêng người sang một bên, định sóng vai đi cùng cữu phụ của mình.
Song Tống Nghị lại chưa vội cất bước mà thản nhiên vẫy vẫy tay về hướng xa xa. Chỉ một lát sau, Phúc Lộc vội vàng chạy từng bước nhỏ đến.
Thánh Thượng sững người. Ngoại trừ chủ nhân của các cung, những người khác đều không được phép tự ý dẫn người vào trong. Từ trước đến nay người tên Phúc Lộc này vẫn luôn đứng ngoài cung chờ, ấy thế mà hôm nay cữu phụ của cậu ta lại dẫn hắn ta vào trong cung.
Cũng chỉ một giây sau, sắc mặt Thánh Thượng đã khôi phục như thường. Vẫn đứng hơi chếch sang một bên mỉm cười, tựa như đối với việc cữu phụ của cậu ta dẫn người vào cung là một việc hết sức bình thường.
Tống Nghị ra hiệu cho Phúc Lộc đi theo, sau đó xoay người đi cùng với Thánh Thượng đến Từ Ninh Cung.
Sau khi Thái Hậu nhận được tin đã đứng chờ sẵn ngoài cửa Từ Ninh Cung, thấy người từ phía xa xa đi tới thì lập tức lấy khăn lau nước mắt rồi ra đón: “Đại ca đã khoẻ lại rồi mà cũng chẳng chịu báo cho ta một tiếng, hại ta phải ngồi trong cung lo này sợ kia.”
Tống Nghị thoáng liếc nhìn mấy cung nhân, sau đó cười nói: “Lo gì mà lo, ta phúc lớn mạng lớn, sức khoẻ rất tốt. Nếu không sống đến bảy tám mươi tuổi, có khi Diêm Vương cũng không dám nhận ta đâu.”
Không biết vì sao, khi Tống Thái Hậu nghe lời này thì lại cứ thấy không được tự nhiên. Thế nên bèn dùng khăn lau lau khoé mắt để che giấu, đáp: “Đương nhiên phải vậy rồi.”
Thánh Thượng nói: “Cữu phụ vừa mới khỏi bệnh không thể hứng gió, chúng ta vẫn nên vào trong điện rồi hẵng nói thì hơn.”
Tống Nghị gật đầu đồng ý, sau đó tháo kiếm tiện tay ném cho Phúc Lộc.
Đoàn người lập tức bước vào trong điện. Cung nhân dâng trà, ba người ngồi quanh bàn, thỉnh thoảng lại đối qua đáp lại mấy câu.
Tống Thái Hậu thấy Tống Nghị không có hứng nói chuyện lắm thì không khỏi siết chặt khăn tay, lúc ngẩng lên thì vành mắt đã đỏ hoe, nức nở: “Sao Đại ca lại như vậy? Tới chỗ ta, lại chẳng nói một lời, chẳng lẽ còn đang trách lúc trước ta lỗ m.ãng, xông vào phủ của huynh, đánh người của huynh ư?”
Không đợi Tống Nghị đáp lời, Thánh Thượng lại đột nhiên đứng lên, cúi đầu với Tống Nghị: “Tính ra cũng do lỗi của Trẫm. Suy cho cùng là Trẫm tuổi trẻ chưa đủ trầm ổn, vừa nghe cữu phụ bệnh nặng đã lập tức hoang mang lo sợ, chỉ muốn đến phủ của cữu phụ thật nhanh để xác nhận người không sao. Thế mà nô tài kia lại không biết chừng mực, cũng do Trẫm quản giáo không nghiêm mới khiến bọn họ cả gan làm càn như vậy, dám động chạm đến cữu mẫu, đúng là tội đáng muôn chết.”
Nói đến đây, cậu ta lại quay ra phía cửa điện ra lệnh: “Người đâu, áp giải tên tội nô Trầm Hương kia lên đây.”
“Cũng chỉ là một nô tài mà thôi.” Tống Nghị đặt chén trà xuống, từ tốn nói: “Đừng gọi lên đây, chướng mắt.”
Thánh Thượng và Thái Hậu đều cứng đờ cả mặt.
Thánh Thượng lại ngồi xuống ghế, cười nói: “Cữu phụ nói đúng. Một nô tài hạ tiện không đáng để cữu phụ phải đích thân trừng trị. Có điều cữu phụ cứ yên tâm, cô ta phạm phải sai lầm lớn, Trẫm nhất định sẽ cho người phạt cô ta thật nặng.”
Tống Nghị đáp lại kiểu thế nào cũng được. Ngồi thêm một lúc nữa, hắn quay sang nhìn đồng hồ nước, sau đó vỗ bàn đứng dậy, nói: “Cũng không còn sớm nữa, ta phải về rồi. Thánh Thượng và Thái Hậu, cũng nghỉ ngơi sớm đi.”
Thánh Thượng và Thái Hậu muốn đứng dậy tiễn, Tống Nghị giơ tay ngăn lại, khuyên nhủ: “Bên ngoài gió lớn, đừng đi.” Dứt lời, hắn xoay người đi lấy áo choàng treo trên giá, không thèm quay đầu lại mà đi thẳng ra ngoài.
Sau khi Tống Nghị rời đi, một lát sau có một ma ma chân run lẩy bẩy đi vào Từ Ninh Cung.
Thái Hậu lơ đãng liếc sang ma ma kia, vừa thấy thì đột nhiên đứng bật dậy đầy kinh hãi. Chỉ thấy trên người, trên mặt và cả trên tóc của ma ma này đều dính đầy hạt máu. Màu đỏ chói lọi đối lập với khuôn mặt trắng bệch của bà ta, trông vô cùng rợn người.
Tống Thái Hậu tim đập như trống, trong lòng đột nhiên dâng lên một dự cảm xấu. Nàng ta khó khăn nuốt nước bọt, run giọng hỏi: “Trầm… Trầm Hương đâu?”
Ma ma kia đột nhiên rùng mình, đôi môi run rẩy không thể thốt lên lời, chỉ run như cầy sấy chỉ tay ra ngoài điện.
Thánh Thượng đỡ lấy Tống Thái Hậu, loạng choạng đi ra ngoài cửa điện.
Bên ngoài, Trầm Hương cả người đầy máu nằm liệt trên mất, không rõ sống chết.
Mà trên bậc thềm cao nhất ở lối dẫn vào trong điện, một đôi tay được bày ngọn gàng ở đó. Từng ngón tay nhỏ nhắn thon dài, hai chiếc nhẫn ngọc trên hai ngón trỏ đập thẳng vào mắt, là kiểu dáng mà nàng ta không thể quen thuộc hơn.
Tống Thái Hậu trợn mắt, ngất xỉu.
—
Trên con đường dẫn ra ngoài cung, Tống Nghị dặn dò Phúc Lộc: “Trở về không được nói lung tung.”
Phúc Lộc vội đáp: “Đại nhân yên tâm, nô tài biết rồi ạ.” Dứt lời, Phúc Lộc lại nhìn bội kiếm trong tay hắn, nhỏ giọng nói: “Đại nhân, để nô tài đi lau sạch kiếm, rồi lại mang đến cho ngài nhé?”
“Không cần, cho ngươi đấy.”
Phúc Lộc mừng rỡ: “Tạ Đại nhân ban thưởng!”
Lúc Tống Nghị vào phòng, Tô Khuynh đang ngồi trước bàn viết gì đó.
Hắn nhẹ nhàng bước đến gần nhìn thử, lúc này mới chợt nhận ra. Thì ra nàng đang chỉnh sửa lại cái gọi là tài liệu học tập cho Nguyên Triều.
Trước đó hắn đã nghe nàng nhắc tới, nói là muốn dựa theo tiến độ học tập của Nguyên triều để soạn ra một phương án học tập gì đó, còn phải làm một quyển vở bài tập, giải thích rằng những phần khó trong bài học của Nguyên Triều sẽ trở nên dễ học hơn rất nhiều.
Hắn còn tưởng nàng chỉ thuận miệng nhắc tới, không ngờ nàng lại thật sự bắt tay vào chuẩn bị.
Nhìn nàng ngồi nghiêm chỉnh trước bàn soạn giáo án, hắn không nhịn được mà bật cười.
Lúc này Tô Khuynh mới phát hiện ra hắn. Nàng quay đầu lại liếc hắn một cái, sau đó quay về tiếp tục tập trung soạn bài.
Hắn lại thấy hơi khó chịu. Cúi người dọn dẹp đống tư liệu kia gác sang một bên, sau đó ngang ngược cướp bút trong tay nàng, hừ mũi một cái rồi cười: “Nàng định bồi dưỡng Nguyên Triều thành đại tài tử luôn à? Gia đã nói rồi, Nguyên Triều chỉ cần học chút thơ từ ca phú thôi là ổn, không cần mấy thứ linh tinh như tứ thư ngũ kinh kia đâu. Sau này con bé cũng đâu cần thi khoa cử kiếm công danh, nàng tội gì phải làm vậy chi cho mệt? Ta cũng xót nàng đây này.”
“Thế thì không được.” Tô Khuynh khăng khăng đòi cướp lại bút trong tay hắn, giải thích: “Có câu đọc sách có thể xoá dốt. Đọc nhiều sách, con người cũng có thể trở nên sáng suốt hơn. Huống hồ tương lai Nguyên Triều gả chồng, đương nhiên phải gả cho chính nhân quân tử học tài hiểu rộng. Ở cùng với phu quân, nếu không có chủ đề chung, vậy e là đôi vợ chồng son sẽ ngày càng xa cách, khó mà bồi dưỡng được tình thâm nghĩa trọng.”
Tống Nghị xoay người dựa vào mép bàn, xấu tính giơ cao tay lên, cứ như vậy mà nhướng mày nhìn nàng kiễng chân, cố gắng vươn tay lên mà cũng không với tới, hắn không khỏi bật cười.
Tô Khuynh trừng mắt liếc xéo hắn một cái, thu tay.
Hắn bèn không trêu nàng nữa, trả lại bút vào trong tay nàng, cười nói: “Thôi mà thôi mà, trả nàng là được chứ gì. Có điều câu vừa nãy của nàng rất hợp ý gia. Thì ra ở trong lòng nàng, gia cũng được coi là một chính nhân quân tử.”
Nghe hắn tự đánh tráo khái niệm, nàng vốn muốn mặc kệ không thèm nhiều lời nữa, nhưng rồi lại nghĩ đến một chuyện nên gác bút xuống. Sau khi quay đi rửa tay, nàng lấy một hà bao từ trong tay áo rồi đưa cho hắn: “Đây là Nguyên Triều thêu cho ngài, bảo ta đưa cho cha nó giúp nó, tiện thể cũng nhờ ta chúc ngài, ngày sau có thể phúc như Đông Hải, thọ tỷ Nam Sơn.”
Tống Nghị nghe được lời chúc này thì không nhịn được cười: “Đợi đại thọ tám mươi tuổi của gia rồi đọc câu chúc này cũng không muộn.” Tuy trêu chọc như vậy, nhưng vẫn cẩn thận nhận lấy cái hà bao này.
“Đúng rồi, Nguyên Triều đâu? Sao lúc gia đi vào lại không gặp con bé nhỉ?”
Tô Khuynh nói với vẻ bất đắc dĩ: “Ngài còn không hiểu con bé sao? Nhìn thì tuỳ tiện thế thôi cứ da mặt mỏng lắm. Bảo nó làm một việc tình thương mến thương như vậy, sao nó lại không xấu hổ cho được? Thêu xong cái là nhét luôn vào tay ta, lại quẳng thêm một câu rồi chạy biến đi đâu trốn mất rồi.”
Tống Nghị lắc đầu bật cười. Sau đó cúi xuống nhìn chiếc túi lụa đỏ thêu chỉ màu xanh lá, cuối cùng hắn cũng không nhịn được mà cười to: “Gia sống đến tuổi này rồi, có khi đây là lần đầu tiên được nhìn thấy một cái hà bao có một không hai như vậy trong đời. Nàng có chắc tú nương được mời đến dạy cho con bé là người có tay nghề đứng đầu trong kinh thành không? Chẳng lẽ là nhất từ dưới lên à?” Nói xong lại cười ầm lên.
“Ngài đừng cười nữa.” Tô Khuynh nhỏ giọng nhắc nhở: “Biết đâu bây giờ, Nguyên Triều đang trốn ở đâu đó nghe lén thì sao.”
Tống Nghị đang cười lập tức ngậm miệng lại.
“Kỹ năng thêu thùa của Nguyên Triều tiến bộ nhanh ghê, xem ra đã phải bỏ rất nhiều công sức. Trong lòng gia thấy thật sự rất vui!” Cảm thán xong, hắn lại trân trọng đeo hà bao bên hông.
Buộc xong, hắn lơ đãng ngước mắt nhìn lên, không ngờ lại bắt gặp cảnh khuôn mặt nàng vẫn chưa kịp thu hết ý cười, hắn lập tức nhận ra những lời nàng vừa nhắc chỉ là nói đùa mà thôi.
Trái tim hắn lập tức rung rinh. Tuy bị nàng trêu đùa, nhưng không hiểu sao trong lòng lại thấy vui mừng khôn tả.
Hắn lặng lẽ quan sát nàng, cảm thấy trên người nàng tràn đầy hơi thở của khói lửa nhân gian. Nhất là từ lúc hắn ngã bệnh khỏi lại, nàng đã ôn hoà với hắn hơn rất nhiều.
“Gia sẽ nhận lễ vật của Nguyên Triều, thế của nàng đâu?”
Tống Nghị đột nhiên hỏi vậy khiến Tô Khuynh chợt ngẩn ra, sau đó chần chừ hỏi hắn: “Vậy… ngài muốn quà gì?”
Có lẽ không ngờ rằng nàng thật sự sẽ đồng ý, sau khoảnh khắc kinh ngạc, hắn vội vàng đáp: “Cái gì cũng được… Gia thấy hà bao khá ổn đấy. Nguyên Triều thêu tùng bất lão rồi, vậy thì, nàng thêu sóng nước Đông Hải đi?”
Tô Khuynh ngẫm nghĩ, áng chừng chắc chỉ cần thêu vài đường chỉ cong cong uốn lượn thôi là xong, chắc sẽ tương đối đơn giản, thế nên gật đầu đồng ý: “Có lẽ sẽ phải đợi vài ngày nữa đấy.”
Tống Nghị lập tức mặt mày hớn hở: “Mấy ngày cũng được. Gia, đợi được.” Nói rồi lại kéo nàng qua, ôm chặt trong lòng.
“Đừng nhúc nhích.” Thấy nàng hơi giãy giụa, hắn vu.ốt ve sau gáy nàng rồi khẽ mắng, sau đó vô tình nhìn thấy trên thái dương nàng cài một bông hoa mai nở rộ, hắn lập tức kinh ngạc: “Nguyên Triều cài hoa mai cho nàng à? Trời tuyết rét mướt thế này, nó hái hoa mai ở đâu vậy?”
Tô Khuynh nghe vậy thì bèn thôi giãy giụa, ánh mắt trở nên dịu dàng hơn: “Con bé nói là hái trong một góc hẻo lánh của sân viện bỏ không.”
Cả năm nay, ngày nào Nguyên Triều cũng hái một bông hoa đẹp nhất để tặng cho nàng, còn nói gì mà chỉ cần cô bé cài hoa lên cho nàng là mẹ cô bé sẽ trở nên xinh đẹp ngát hương nhưng những bông hoa này vậy.
Tống Nghị cúi xuống nhìn nàng. Hoa mai cài trong mái tóc trắng đen lẫn lộn, trong mắt hắn, hình ảnh này cực kỳ xinh đẹp.
“Gia lớn hơn nàng mười tuổi, cứ lo mình sẽ già nhanh hơn nàng, sợ sẽ không thể cùng nàng bạc đầu giai lão.” Hắn dịu dàng vu.ốt ve mái tóc nàng, ánh mắt nhu hoà: “Như vậy cũng tốt, có khi hai năm nữa tóc gia cũng đã bạc trắng rồi, đến lúc đó hai chúng ta đều cùng nhau bạc đầu.”
Người trong lòng hắn vẫn lặng lẽ đứng đó, không hề trả lời. Tống Nghị hãy còn thở dài trong lòng.
Kỳ thực, mấy năm gần đây, lòng hắn vẫn luôn có một thắc mắc, mỗi lần muốn hỏi ra thì miệng lưỡi lại cứng đờ. Hắn rất muốn hỏi nàng, tới thời khắc ngày hôm nay, nàng có còn oán hắn, hận hắn, và có từng… yêu hắn hay không, dù chỉ là một thoáng ngắn ngủi, một cái chớp mắt.
Sống đến từng này tuổi, nói đến mấy chuyện tình yêu, không tránh khỏi việc khó mà mở lời được. Nhưng hắn vẫn muốn biết. Có đôi khi hắn hơi kích động, vài lần còn suýt không khống chế được mà muốn lén cho nàng uống thuốc, xem thử hiện giờ người trong lòng nàng có phải là hắn hay không.
Nhưng cứ nghĩ đến hậu quả của việc này, khả năng sẽ xóa sạch hoàn toàn thiện chí và sự tin tưởng của nàng, thứ khó khăn lắm hắn mới giành lấy được. Chỉ như vậy, hắn mới vứt bỏ ý nghĩ điên rồ kia đi.
Hắn dần phát hiện, tuổi càng lớn, hắn càng chấp nhặt, càng quan tâm đến vấn đề này hơn, hắn cũng chẳng thể chấp nhận được việc trong lòng nàng có hình bóng của một người khác.
Cánh tay càng ôm chặt người trong ngực. Hy vọng trước khi nhắm mắt từ giã cuộc đời này có thể nghe được đáp án từ chính miệng nàng, nếu không, e là hắn chết cũng không thể nhắm mắt.
Sau bữa tối, Tống Nghị đến thư phòng xử lý công vụ.
Nhân đó, Nguyên Triều ghé sát vào Tô Khuynh, ấp úng hỏi: “Con thấy cha đeo hà bao lên rồi.”
Tô Khuynh đang bóc vỏ quýt, khẽ cười: “Ta không phải bồ câu đưa cho của hai cha con mấy người đâu nhé. Muốn biết cha con có thích không, vậy sao con không tự đi hỏi nhỉ?”
Nguyên Triều lắc đầu: “Con có nghĩ vậy đâu.”
Tô Khuynh lườm Nguyên Triều một cái, bóc xong quả quýt liền nhét vào miệng cô bé: “Đúng vậy, con có thế đâu. Cũng không biết là ai trong bữa cơm cứ nhấp nhổm không yên, liên tục nhìn vào cái hà bao kia rồi muốn hỏi lại thôi.”
Nguyên Triều cắn múi cam, cau mày: “Không ngon chút nào, chua quá.”
Tô Khuynh nghi hoặc ăn thử một múi, sau đó nói: “Thế này mà chua á? Sợ là con đã quên từ lúc ở trong bụng mẹ, vừa thấy mơ chua thì đã ch.ảy nước miếng luôn rồi.”
Nhắc đến mơ chua, Nguyên Triều chợt rùng mình theo phản xạ: “Làm gì phải!”
Tô Khuynh cười nhạt.
—
Sau khi lập hạ, Tống Nghị không giao nhiều bài tập cho Minh ca nữa mà bắt đầu dẫn cậu lui tới các nha môn, thường sẽ để những người có năng lực giới thiệu về các chức trách liên quan. Đôi khi còn để Minh ca ở lại nha môn một khoảng thời gian để làm quen với nhiệm vụ của các chức vị, cũng như theo chân quan lại để học chút việc vặt.
Tống Nghị âm thầm bồi dưỡng cậu phải biết kiên nhẫn và học cách giữ bình tĩnh, phải học hỏi nhiều hơn, quan sát tỉ mỉ, dù là quan nhỏ cũng không được xem thường, hơn thế nữa là phải ngẫm ra được đạo lý đối nhân xử thế.
Khi đã lập thu, hắn lại bắt đần dẫn Minh ca liên tục đi bái phỏng bạn cũ, sau đó đặc biệt dẫn cậu đến bái phỏng một nhà Nho khá có tiếng, cũng để Minh ca trở thành học trò của người đó.
Người sáng suốt đều nhìn ra Tống Quốc cữu đang bồi dưỡng Minh ca. Chỉ e là tương lai hắn muốn để cháu trai tiếp quản sự nghiệp của mình, hoặc có thể còn ẩn ý sâu xa nào đó, khó mà nói trước được. Suy cho cùng nhà Nho kia là một vĩ nhân tài hoa, có uy tín rất cao trong giới văn nhân, người đời đều nói ông ấy làm thầy của Hoàng đế cũng dư sức.
Trong một năm nay, triều đình đã có vài sự thay đổi nhỏ. Từ khi Tống Quốc cữu lâm bệnh đến nay, bầu không khí trên triều đã mơ hồ xảy ra chút biến động. Điều rõ ràng nhất chính là, Tống Quốc cữu kia ngày càng khắt khe với công vụ và mọi người hơn. Đối với chúng triều thần hiện giờ, thượng triều cứ như đang bị dùng hình vậy. Đúng là tiến thoái lưỡng nan, hơi động một tí là lại dính tội.
Mà người khó xử nhất có lẽ chính là Thánh Thượng. Tống Quốc cữu kia không chỉ nắm chặt quyền hành không buông, hiện tại cũng không thèm giữ ba phần kính nể với Thánh Thượng như trước nữa. Bọn họ nhìn tình hình này, Quốc cữu và Thánh Thượng như chẳng hề phân trật tự trước sau mà ngồi xuống. Trên triều Tống Quốc cữu chỉ đạo, Thánh Thượng lại càng duy trì im lặng không nói câu nào. Không khỏi khiến người ta phải suy nghĩ, tình hình này, cứ như có hai vị Thánh lâm triều vậy.
Bọn họ cũng không dám nói ra, chỉ nhìn những việc mà Tống Quốc cữu đã làm trong một năm qua, cứ cảm thấy hắn đang muốn truyền đạt tín hiệu gì đó.
—
Hôm đó, sau khi từ quán trà trở về, Tô Khuynh cứ cảm thấy lòng bồn chồn không yên.
Tối đến, sau khi hai người rửa mặt lên giường, Tô Khuynh bèn dò hỏi hắn: “Hồi sáng ta có nghe trên phố bàn tán, Đại nhân cùng Thánh Thượng lên đại điện, nhận lễ quỳ nghênh đón của đủ loại quan lại, hơn nữa còn cùng Thánh Thượng, đối diện với các thần tử?” Nói đến đây, nàng không khỏi lựa lời hỏi tiếp: “Vậy… liệu có khiến Thánh Thượng và chúng đại thần nghĩ nhiều không?”
Mang kiếm lên điện, đối diện với thần tử, nhận lễ quỳ nghênh đón của chúng quan lại, không thông qua Thánh Thượng mà tự ý ra lệnh. Những hành động này, quả thực rất tuỳ tiện, tác phong có thể so với Tào Tháo. Tô Khuynh khó tránh khỏi kinh hãi. Thần tử lại làm ra những hành động như vậy, chỉ sợ là đã đi quá giới hạn.
Từ trước đến nay nàng không thể nào để ý hắn đang thịnh hay suy, tác phong hành sự ra làm sao. Nhưng sau khi trải qua một trận thót tim thót gan kia, nàng là người hiểu rõ nhất việc hắn có ý nghĩa gì với toàn bộ phủ Hộ Quốc công, có ý nghĩa như thế nào với Nguyên Triều.
Ngoại trừ hắn, không ai có thể bảo vệ nàng và Nguyên Triều. Hắn còn, đương nhiên Nguyên Triều vẫn được sống tốt. Nhưng nếu hắn ngã gục xuống, tính mạng và tương lai của Nguyên Triều sẽ bị phụ thuộc vào một kẻ khác. Cho nên nàng là người mong hắn có thể sống thật lâu thật mạnh khoẻ hơn ai hết.
Tống Nghị nghe thấy vẻ lo lắng trong lời của nàng, không khỏi hừ lạnh một tiếng: “Là Nguyệt Nga kia lại nói nhăng nói cuội với nàng à? Gia đã nói rồi, đừng lui tới với cô ta nữa, cô ta không dạy nàng được điều gì tốt đẹp đâu.”
“Ngài đừng tuỳ tiện lôi người khác vào, đều là ta tự nghe được thôi.” Tô Khuynh nhíu mày: “Ngày thường ngài cũng không thèm thu liễm chút tác phong hành sự nào, triều đình phố phường có ai mà không biết uy danh của Tống Quốc cữu ngài chứ?”
Tống Nghị nghe vậy thì không khỏi nhướng mày, cười nói: “Nàng chỉ vừa biết được uy danh của Đại nhân nhà mình thôi sao?” Thấy Tô Khuynh lạnh lùng trừng mắt, hắn lại nói: “Yên tâm, lòng gia tự hiểu rõ. Với lại vì sao lại phải thu liễm chứ? Gia đã thu liễm suốt nửa đời người dưới uy áp của Tự gia rồi, hiện tại cả giang sơn này phải dựa vào gia thì mới ổn định được đấy.”
Nói đến đây, hắn lại hơi kiêu ngạo, cười khẩy: “Nhớ trước đây, nếu không có gia xuất binh cần Vương, giang sơn này đổi thành họ gì thì cũng chưa biết được đâu. Nếu gia đã ngậm đắng nuốt cay cần Vương rồi mà còn phải nhẫn nhịn thu liễm, thế thì ngay từ đầu thà nghe theo lời người ta, xưng Vương ở Lưỡng Giang luôn cho rồi.”
Tô Khuynh càng nghe càng thấy không đúng, càng ngày càng cảm thấy hắn giống với danh nhân lịch sử Niên Canh Nghiêu.
Cứ ngẫm rồi lại nghĩ, nàng chọn lọc câu chữ rồi kiến nghị: “Nhưng dù sao cũng phải kiêng dè chút chứ. Chung quy lòng người khó đoán, luôn có những kẻ đỏ mắt ghen ghét. Ta ở chỗ sáng, người ta trong tối…”
“Ai dám.” Không để nàng nói hết, Tống Nghị đã ngắt lời nàng, cười lạnh: “Kẻ nào dám thò tay vào, gia sẽ băm vằm móng vuốt kẻ đó.”
Mạnh mẽ đè vai nàng xuống rồi nhét nàng vào trong chăn, có chút ngang ngược ra lệnh bắt nàng ngủ, không được suy nghĩ miên man nữa.
Tô Khuynh biết hắn không muốn nghe, nên đành nhắm mắt ngủ.
Đợi đến khi Tô Khuynh đã dần chìm vào giấc ngủ, Tống Nghị từ từ mở to mắt, nhìn chằm chằm vào đỉnh màn, hãy còn cân nhắc.
Hắn không quá hài lòng với Minh ca.
Tầm hiểu biết của Minh ca có thể miễn cưỡng xem như ổn, nhưng tính tình lại làm người ta phải thất vọng. Cậu thiếu mất sự sắc bén, làm việc luôn lo trước lo sau, sợ bóng sợ gió. Tỉ mỉ cẩn thận thì đương nhiên là tốt, nhưng nếu cứ vậy mãi thì rất dễ biến thành do dự thiếu quyết đoán, trong tương lai nhất định sẽ bị lỡ mất cơ hội tốt, khó mà tiến bộ được.
Mà hiện giờ phủ Quốc công bọn họ đã là hoa thêu trên gấm, tình cảnh như lửa đổ thêm dầu. Nếu không tiến, vậy chỉ có thể lui.
Hơn nữa, sợ là đến cả đường lui cũng không có.
—
Năm Tuyên Hoá thứ mười hai.
Nguyên Triều mười tuổi. Thánh Thượng mười sáu tuối.
Dựa theo lệ thường, Thiên tử mười lăm là có thể đại hôn, kèm theo đó là tự mình chấp chính. Nhưng nay đã kéo dài sang tận mười sáu, Thánh Thượng vẫn chưa đại hôn, chưa tự mình chấp chính, mọi chuyện triều chính vẫn luôn này trong tay của Quốc cữu gia.
Hiện giờ, trên triều không ai dám nhắc đến việc Thánh Thượng đại hôn hoặc tự mình chấp chính. Bởi nếu dám nhắc tới thì đều sẽ bị Tống Quốc cữu tìm đủ mọi lý do để giáng chức hoặc bãi nhiệm.
Vừa sang năm mới, Tống Thái Hậu đã sai cung nhân đến phủ Hộ Quốc công truyền lời cho lão thái thái, nói rằng lâu ngày không gặp nên rất nhớ bà, nếu lão thái thái rảnh rỗi, không biết có thể vào cung trò chuyện không.
Hôm sau, lão thái thái vào cung.
Tống Thái Hậu tự mình đỡ lão thái thái vào Từ Ninh Cung. Trên bàn bát tiên trong điện đã bày sẵn mấy món trà bánh mà lão thái thái thích ăn, trong lò cũng đốt loại hương tao nhã mà bà hay dùng, trong điện đốt than lửa rất ấm áp, khiến cho lão thái thái vừa vào trong đã cười híp cả mắt.
Tự mình rót trà cho lão thái thái, Tống Thái Hậu lại ân cần đẩy đĩa điểm tâm đến trước mặt lão thái thái, cười dỗi: “Lão thái thái thật là, nếu ta không cho cung nhân đến mời người, có khi người còn chẳng thèm nhớ đến ta. Người tự tính đi, đã bao lâu rồi hai mẹ con ta không ngồi nói chuyện với nhau? Có phải trong đầu người sớm đã vứt đứa con gái này vào xó xỉnh nào rồi đúng không?”
Lão thái thái ăn một miếng điểm tâm, cười ha ha: “Con nói lời vô tâm quá đấy. Bà già ta quên ai cũng được chứ không thể quên Thái Hậu nương nương. Nhớ trước kia lúc con còn ở nhà mình, ta đối với con chính là ngậm trong miệng sợ tan, nâng trong tay sợ ngã, thật lòng cưng chiều như tâm can bảo bối vậy.”
Nhắc tới trước kia, Tống Thái Hậu không khỏi lộ vẻ hoài niệm, bắt đầu đối đáp trò chuyện với lão thái thái, kể lại chuyện cũ, nói đến đủ những chuyện thú vị ngày xưa. Hai mẹ con đều cười vô cùng vui vẻ.
“Còn nhớ sinh nhật mấy tuổi năm đó của con, Đại ca con cho người gửi quà đến muộn, con còn khóc nhè nữa, có nhớ không?” Lão thái thái cười ha hả trêu nàng ta: “Cô nương lớn vậy rồi mà vẫn khóc đến mức nước mắt nước mũi tèm lem, nói ra chưa chắc đã có người tin đâu.”
Tống Thái Hậu giận dỗi liếc lão thái thái, cũng cười theo: “Còn không phải do lão thái thái và Nhị ca chiều quá sao? Hiện giờ nghĩ lại, vẫn là lúc chưa tiến cung vui hơn, ngày nào cũng chỉ nghĩ ăn gì, mặc gì, đi đâu chơi cho đã, chẳng bao giờ phải lo nghĩ đến…”
Nói đến đây, giọng nàng ta nhỏ dần, lộ vẻ hơi mất mát: “Khi đó Đại ca và Nhị ca đều thân với Bảo Châu, đâu có giống như bây giờ… Suy cho cùng đã khác xưa rồi.”
Lão thái thái đang lấy điểm tâm thì chợt sững lại, sau đó buông điểm tâm xuống, nói dỗi: “Khác chỗ nào? Chẳng qua hiện giờ con là Thái Hậu nương nương, thân phận cao quý, không được tuỳ ý như xưa nữa, phải kính trọng phần nào. Trong lòng hai đứa đó, vẫn luôn hướng về con.”
“Lão thái thái, mẹ à!” Tống Thái Hậu đột nhiên bắt lấy tay lão thái thái, ngẩn ngơ nhìn lão thái thái, khoé mắt đỏ hoe: “Người giúp Bảo Châu với, giúp cháu ngoại của người với!”
Lão thái thái hoảng hốt, nói: “Sao con lại nói vậy?”
Tống Thái Hậu rơi lệ: “Năm nay Dục Nhi mười sáu, theo lý đã đến tuổi đại hôn rồi. Lúc trước Đại ca có ý muốn tác hợp cho hai biểu huynh muội, con thầm nghĩ, vậy chờ Nguyên Triều lớn lên, cứ chờ mãi chờ mãi. Nhưng mà, nhưng mà Đại ca lại nói việc này không thể nữa… Mẹ, Dục Nhi đã lớn rồi, đã đến lúc nên cưới vợ sinh con, nhưng Đại ca mãi vẫn chưa đả động gì…”
Tống Thái Hậu thút thít: “Mẹ, người biết mà, Dục Nhi vẫn luôn kính trọng cữu phụ của nó nhất, đương nhiên sẽ không dám làm trái lại ý của cữu phụ nó. Mà các triều thần lại không dám nhắc đến chuyện này, người làm mẹ như con, đau lòng lắm…”
“Mẹ, người thương con nhất, người giúp con lần này đi, nói với Đại ca rằng tốt xấu gì cũng nên để Dục Nhi cưới vợ. Nếu trung cung không có Hậu, vậy chẳng phải sẽ bị người trong thiên hạ nhạo báng hay sao?”
Tống Thái Hậu khóc không thành tiếng, còn lão thái thái một lúc lâu sau vẫn chưa nói gì.
Sau đó, lão thái thái chỉ thở dài: “Con… aizz, con đang làm ta khó xử đấy. Cũng đâu phải là con không biết, tổ tiên Tống gia ta đã dạy, nữ nhân trong nhà không được nhúng tay vào chuyện triều chính của nam nhân. Hiện giờ nhà ta đều do Đại ca con làm chủ, dù ta có đi nói thì lấy lòng thế nào hắn cũng không nghe đâu. Không thì, con tìm Đại ca con thương lượng đi, có lẽ do Đại ca con quên thôi. Con đi nhắc nhở một câu, biết đâu hắn lại đồng ý thì sao?”
Lòng Tống Thái Hậu dần lạnh xuống, song vẫn chưa chịu từ bỏ ý định: “Mẹ, người cũng biết mà, lúc trước người trong cung của con đắc tội lớn với nữ nhân kia, đến giờ Đại ca vẫn đang tức con đấy.” Nói rồi, nàng ta lại chua xót: “Bây giờ con mới hiểu những lời tận tình khuyên bảo của mẹ hồi đó. Sau khi hậu viện của Đại ca có nữ nhân thì quả thật đã khác, con không nên ỷ vào thân phận của mình mà tuỳ ý coi khinh, nếu không cũng sẽ không trở nên xa cách với Đại ca như hiện tại.”
Lão thái thái thở dài không đáp.
Tống Thái Hậu nằm trên đầu gối bà khóc rống lên: “Mẹ phải giúp con, con thật sự đã cùng đường bí lối rồi. Người đã nói, con là con gái duy nhất của người, mà tâm can bảo bối mà…”
Cuối cùng lão thái thái kéo tấm thân hơi còng rời đi.
Tống Thái Hậu nhìn chằm chằm về hướng lão thái thái rời đi, những giọt nước mắt lăn dài trên khuôn mặt lạnh tanh vô cảm.
Thánh Thượng ở buồng trong xốc rèm đi ra, đỡ lấy cánh tay nàng ta, lo lắng gọi một tiếng.
Tống Thái Hậu khôi phục tinh thần, nâng tay áo lau lau nước mắt.
Thánh Thượng rũ mắt, giọng nói mang theo chút phiền muộn và ẩn giấu vẻ lạnh lùng: “Ngoại tổ mẫu… muốn làm Thái Hậu nương nương ư?”
Vừa nói xong, Tống Thái Hậu kinh ngạc.
“Không!” Nàng ta hoảng hốt nhìn sang Thánh Thượng, trở tay nắm chặt lấy tay hắn: “Lão thái thái không làm thế đâu, sẽ không đâu! Thánh Thượng đừng có nghĩ như vậy!”
Thánh Thượng nhấp môi, không đáp.
—
Mùa hè mặt trời lên cao, Ngự Hoa Viên cây cỏ tươi tốt, ngập tràn sắc hoa, đắm mình trong đó giúp xua tan phần nào nóng bức ngày hè, tận hưởng từng cơn gió nhè nhẹ mát lạnh.
Vì Lương Giản Văn là Thủ lĩnh nha môn của Thống lĩnh Bộ binh, trưởng quản cấm quân, cho nên cứ cách một khoảng thời gian là hắn ta lại phải đi tuần trong cung một lần, đích thân giám sát, giám thị thủ vệ trong cung để phòng ngừa có sai sót.
Hôm đó khi đi ngang qua Ngự Hoa Viên, hắn ta thấy hình như ở chỗ mái đình phía xa xa có một bóng người màu vàng kim đang cố rướn người về phía trước để với lấy bông hoa sen trong hồ vào bờ.
Hắn ta chưa kịp hoảng hốt hô cẩn thận thì đã thấy bóng dáng kia đột nhiên nghiêng ngả, ngã ùm xuống hồ…
“Xin Thánh Thượng đừng đặt bản thân vào tình cảnh nguy hiểm như thế này nữa. Có chuyện gì cứ bảo bọn nô tài làm là được rồi. Thánh Thượng long thể kim quý, chớ nên đích thân mạo hiểm.” Lương Giản Văn vắt bỏ nước trên áo ngoài, lòng vẫn còn sợ hãi.
Thánh Thượng nói với vẻ áy náy: “Là Trẫm suy nghĩ không chu toàn, khiến Lương Đề đốc phải lo lắng rồi.” Dứt lời, còn giơ bông hoa sen trên tay lên, cười khổ: “Vốn muốn giúp mẫu hậu vui vẻ, không ngờ lại biến khéo thành vụng. Mong Lương Đề đốc đừng nói ra ngoài, kẻo mẫu hậu biết được lại lo lắng.”
Sai bảo nô tài mang một bộ quần áo sạch sẽ cho Lương Đề đốc đến xong, Thánh Thượng lại thở dài ném bỏ bông hoa sen đã rụng mất nửa cánh kia, trùm áo ngoài rời đi.
Lương Giản Văn lơ đãng nhìn bông hoa sen kia, ánh mắt hơi thất thần.
Chuyện Thánh Thượng rơi xuống nước không giấu được Tống Nghị.
Ngày đó Tống Nghị cho người tiến cung tặng chút đồ bổ, lại bắt cung nhân bên cạnh Thánh Thượng chịu phạt, ai cũng bị đánh gậy, cảnh báo bọn họ không được có lần sau.
Kể từ ngày hôm ấy, tần suất Lương Giản Văn gặp được Thánh Thượng trong cung bắt đầu nhiều lên. Hai người từ chạm mặt nhau gật đầu chào rồi đến hỏi thăm nhau vài tiếng, sau lại tán gẫu mấy câu, dần dần cũng thân quen với nhau hơn.
Dĩ nhiên những việc này Lương Giản Văn không để cho Tống Nghị biết được.
Chung quy hắn ta thân là Cửu môn Đề đốc nhiều năm, cũng tự tạo cho mình được một mạng lưới nhỏ, có thể ngăn không để tin này bị truyền ra ngoài.
Hắn ta cũng biết đến gần Thánh Thượng hơn một chút cũng tương đương với việc đi trên bờ vực thẳm. Một khi Tống Quốc cữu biết được, chỉ sợ sẽ nảy sinh vô số nghi kỵ với hắn ta.
Nhưng hắn ta lại không thể ngăn cản chính mình. Mỗi khi trò chuyện với Thánh Thượng, không hiểu sao hắn ta luôn cảm thấy rất thư thái. Thánh Thượng hiểu nhiều nhớ lâu, lại thấu tình đạt lý biết săn sóc thần tử, thường cứ dăm ba câu là đã xua tan được phiền muộn trong lòng hắn ta, khiến hắn ta khá cảm kích.
Huống hồ…
Lương Giản Văn sờ sờ hoa văn trên ống tay áo, lòng hơi rối bời.
Chắc chắn cái xiêm y này là do nàng ấy đích thân may vá. Bởi vì hoa văn này, với bộ đồ quý báu mà hắn ta cất giấu dưới đáy hòm, cực kỳ giống nhau.
—
Thời gian trôi đi quá nhanh, ngoảnh đi ngoảnh lại, hai năm lặng lẽ trôi qua.
Mùa xuân năm Tuyên Hoá thứ mười bốn.
Năm nay, Nguyên Triều mười hai tuổi, Tô Khuynh cũng sắp bốn mươi. Còn Tống Nghị thêm hai năm nữa là đến đại thọ năm mươi.
Thỉnh thoảng khi nhàn rỗi ngồi không, Tô Khuynh sẽ đột nhiên nghĩ, thì ra nàng đã sống trong thế giới này ngần ấy năm rồi. Hồi tưởng lại chuyện xưa, tựa như chẳng chân thật chút nào. Rõ ràng cuộc sống trong tưởng tượng của nàng năm xưa, chưa từng nghĩ sẽ sống những ngày tháng như thế này.
Thấy hôm qua như một giấc mộng, hôm nay không giống hôm qua. Có vài lúc như vậy, nàng khó tránh khỏi hơi không phân được trước đó là hư ảo, hay hiện tại vẫn đang trong mộng. Chỉ mỗi khi nhìn thấy Nguyên Triều, nàng mới bừng tỉnh, cảm giác như giấc mộng hư ảo kia đã trở thành hiện thực. Giống như bèo lục bình cuối cùng cũng dạt tới bờ, bén rễ.
“Nghĩ gì vậy?” Tống Nghị vừa vu.ốt ve tóc mai nàng vừa hỏi.
Tô Khuynh lấy lại tinh thần, xoay người đối mặt với hắn, hỏi: “Nguyên Triều đã mười hai rồi, có phải nên xem xét vài thiếu niên ưu tú để chuẩn bị trước, kẻo đến lúc đó rể hiền lại bị người ta hớt tay trên mất?”
Nghe vậy, hắn hừ một tiếng: “Ai dám cướp thử xem.” Tiện thể chuyển đề tài, nhìn nàng: “Nguyên Triều cũng đã đến lúc có một thân phận chính đáng rồi. Phủ Quốc công, cũng nên có một chủ mẫu đàng hoàng đứng ra lo liệu hôn sự cho con bé.”
Sau vài năm, chủ đề này lại lần nữa được nhắc tới. Tô Khuynh biết, chuyện này không thể trì hoãn thêm mấy năm nữa.
Thấy vẻ mặt nàng hoảng hốt, lòng hắn lại dâng lên một cảm giác khó tả. Nghi vấn đã giấu kín trong lòng suốt bao nhiêu năm, thời khắc này lại không nhịn được nữa mà buột miệng thốt ra: “Nàng vẫn… vẫn còn oán hận gia ư?”
Giọng điệu hắn rất nhẹ nhàng, lại mang theo vẻ nặng nề khó tả. Nàng nghe được thì hơi giật mình.
Một lát sau, Tô khuynh khẽ lắc đầu: “Ngài gây cho ta nửa đời trắc trở, song cũng bảo hộ ta nửa đời bình an.” Nàng chậm rãi nói: “Dù ta không thể buông bỏ hoàn toàn, nhưng ta cũng không còn oán hận ngài nữa.”
Không đợi Tống Nghị phấn khích kịp hỏi vấn đề mà hắn vẫn luôn canh cánh trong lòng suốt nhiều năm nay, nàng lại nhẹ giọng ngập ngừng nói tiếp: “Ta oán hận thế đạo này…”
—
Khai xuân, Tống Nghị dẫn theo Minh ca và Hàm ca đi cùng để bồi dưỡng. Đừng thấy Hàm ca là tiểu quỷ nghịch ngợm, nhưng lại là đứa thông minh lanh lợi hơn ai hết, đầu óc tinh ranh, vừa lớn gan lại thận trọng, Tống Nghị rất vừa lòng.
Không phải trong lòng hắn không thấy hối hận. Đôi khi hắn cũng nghĩ, có lẽ lúc ấy hắn nên nhịn xuống, tiếp tục nhận nuôi Hàm ca để bồi dưỡng ngay từ khi còn nhỏ, vậy thì sau khi thằng bé lớn lên chắc chắn sẽ là một hạt giống tốt.
Nhưng mỗi khi có suy nghĩ như vậy, hắn lại không khỏi hồi tưởng lại tình hình lúc ấy. Cứ nghĩ rồi cảm thấy khi đó đúng là khó mà nhịn được.
Trên đời không có bức tường nào không lọt gió, cuối cùng Tống Nghị cũng nghe được những tin đồn nhảm nhí trong cung. Tuy tạm thời không có chứng cứ xác thực, nhưng cũng đủ để khiến hắn cảnh giác.
Sau đó hắn bèn đích thân sắp xếp một bàn tiệc, gọi là gia yến để chiêu đãi Lương Giản Văn và ba đứa con dòng chính. Còn hắn thì dẫn theo Minh ca và Hàm ca cùng tham gia.
Rượu quá ba tuần, Tống Nghị nói về tiền đồ của hậu bối.
Nghe Lương Giản Văn nhắc tới đích trưởng tử của hắb ta học vấn kém, sợ là tương lai sẽ trì trệ khó thăng tiến, Tống Nghị liền cười nói chuyện này không quan trọng, nếu không làm được quan văn thì có thể đầu quân làm quan võ, để lớn thêm chút nữa sẽ sắp xếp vào trong Cấm vệ quân, nếu gặt hái được công lao thì tiền đồ vô lượng.
Lương Giản Nghe thấy hắn nhắc tới Cấm vệ quân là lập tức nhận ra, bữa tiệc hôm nay không phải tiệc vui. Che giấu sự kinh hoảng trong lòng, hắn ta giữ nét mặt bình thường nói lời cảm tạ.
Tống Nghị chậm rãi đặt ly xuống bàn, nhìn Lương Giản Văn phía đối diện: “Ta muốn phân chia lại quyền hành của Cửu môn Đề đốc. Đội thủ vệ đảm bảo an ninh trong cung cũng như kinh thành và vùng lân cận phân thành hai, để thủ lĩnh các đội quản lý, đệ thấy thế nào?”
Lòng Lương Giản Văn hoảng hốt, song vẫn cố giữ vẻ trấn tĩnh: “Đại ca thay đổi như vậy, đương nhiên là có lý lẽ của mình. Chỉ là không biết, một phân thành hai… là muốn phái hai vị nào làm thủ lĩnh?”
Tống Nghị nhìn y một lát rồi cười đáp: “Đệ yên tâm, không cách chức đệ đâu. Đệ vẫn là Đề đốc chính Nhất phẩm, quản lý an ninh kinh đô và vùng lân cận. Còn quản lý trong cung…”
Hơi trầm ngâm một lát, hắn lại vỗ vỗ vào người Minh ca: “Đệ thấy Minh ca thế nào?”
—
Dường như mùa xuân năm nay đến hơi muộn, cỏ cây trong Ngự Hoa Viên vẫn nhuốm vẻ điêu tàn, chưa thấy được sự căng tràn sức sống.
“Hoa sen nở rộ của thành Tô Châu vào mùa hè năm nay, e là vi thần không thể tự mình đưa cho Thánh Thượng rồi.” Lương Giản Văn khẽ cười khổ, sau đó hai tay đưa chiếc hộp gỗ tử đàn hình chữ nhật ra: “Đây là hoa khô được làm từ năm ngoái, hy vọng Thánh Thượng đừng ghét bỏ.”
Thánh Thượng nhận lấy, đưa tay vỗ vỗ chiếc hộp kia, thở dài: “Không ngờ lại rơi vào kết cục này. Ngày thường quân thần chúng ta chỉ tán gẫu vài câu với nhau thôi, ai biết được trong lòng của cữu phụ lại nghi ngờ nhiều như vậy… Suy cho cùng là do Trẫm khiến ngươi bị liên luỵ.”
Lương Giản Văn muốn nói không phải Quốc cữu gia nghi ngờ, nhưng không hiểu sao khi đứng trước mặt Thánh Thượng, y lại chẳng thể thốt ra được.
“Thôi.” Thánh Thượng nói: “Chung quy vẫn là một kẻ cô đơn. Sau này, dù có muốn nhìn thấy đồ vật của thành Tô Châu, đã khó lại càng thêm khó.”
Trong lòng Lương Giản Văn đột nhiên thấy hơi rối rắm khó chịu. Người muốn thấy đồ ở thành Tô Châu là ai, lòng hắn ta vẫn luôn biết rõ.
Trước khi Thánh Thượng rời đi, lại làm như vô tình thở dài: “Quốc cữu lớn tuổi rồi, sợ là đã quên mất một số chuyện. Trẫm đã trưởng thành, thêm hai năm nữa là có thể làm lễ nhược quán. Nếu đến lúc đó mà vẫn chưa đại hôn, chỉ e khó mà giải thích nổi với người trong thiên hạ. Trẫm thường nghe mẫu hậu nhắc tới thiên kim của quý phủ tri thư đạt lý, lời nói cử chỉ đều mang phong thái của nhà thế gia, quả là người xứng đáng ngồi lên vị trí Quốc mẫu.”
Đối diện với ánh mắt khiếp sợ của Lương Giản Văn, Thánh Thượng nói với vẻ đầy thâm ý: “Trẫm thì nghĩ vậy, chỉ là không biết khanh cảm thấy thế nào?”
Nói xong liền xoay người rời đi, bỏ lại Lương Giản Văn bối rối đứng trong gió.
Trên đường trở về, hắn ta cẩn thận suy ngẫm về lời này của Thánh Thượng, không thể nào bỏ qua được một thông tin cực ký quan trọng…
Hiện giờ Tống Quốc cữu đã gần năm mươi, ánh dương sắp tàn. Còn Thánh Thượng lại đương độ thiếu niên, như mặt trời ban trưa.
—
Mùa thu năm Tuyên Hoá thứ mười bốn.
Lại đến thời điểm săn thú hằng năm.
Năm nào cũng thế, cả phủ Hộ Quốc công bắt đầu chuẩn bị đồ săn thú cùng với thức ăn trang phục và những thứ thiết yếu khác.
Cuối thu mát mẻ, trời quang không mây. Mùa thu vẫn luôn tươi mát dễ chịu, không ai nghĩ dịp săn thú năm nay sẽ khác biệt so với mọi năm.
Trong khi những người khác đều bận rộn, Tống Nghị lặng lẽ nắm lấy tay Tô Khuynh, thấp giọng nói: “Đêm qua nàng đã đồng ý rồi, đợi đến năm sau sẽ cho gia một đáp án, nàng đừng quên đấy.”
Dĩ nhiên Tô Khuynh biết đáp án mà hắn kỳ vọng là gì.
Thực ra nàng cũng hiểu được. Nguyên Triều ngày càng lớn, nàng cũng không thể không có thân phận mà sống trong phủ Quốc công mãi được.
Mà trong lòng hắn cũng biết rõ, sang năm sau, nàng sẽ đưa ra đáp án gì.
Mặt mày Tống Nghị vương đầy ý cười: “Lần săn thú này, gia sẽ mang một bộ lông hồ ly đỏ về cho nàng.”
Lúc này Nguyên Triều không biết nhảy từ đâu ra, nói: “Mẹ, đến lúc đó Nguyên Triều sẽ hái cả một rổ hoa về cho người…”
Còn chưa nói hết, cô bé đã bị cha mình túm lấy tay lôi thẳng lên ngựa.
Đúng lúc bình minh ló dạng, Tô Khuynh dựa vào khung cửa nhìn bóng dáng bọn họ dần đi xa, cong khoé môi mỉm cười.
Tống Nghị và Nguyên Triều cùng quay đầu nhìn nàng, thấy nàng đắm chìm trong nắng sớm, quanh người tràn ngập ánh sáng nhu hòa, ánh mắt cũng tràn đầy vẻ dịu dàng.
Nắng ấm mùa thu, đẹp vô ngần.